Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Họa sĩ Nguyễn Đăng Phú docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.06 KB, 10 trang )

Họa sĩ Nguyễn Đăng Phú


Nguyễn Đăng Phú lừng lững mét bảy nhăm, bảy mươi nhăm ký, như
lực sĩ thể hình.
Nhác trông cứ ngỡ khủng long
Lại gần té ngửa là ông vẽ vời
Triển lãm giải thưởng khắp nơi
Vẽ được như thế cũng ngời ngời khủng long.
Anh em tếu táo trêu ông bằng vè như thế, nhưng thực ra gọi là khủng
long cũng không ngoa. Khủng long vẽ, hay còn gọi là vua áp phích. Ấy
là cái danh do anh em trong giới phong cho ông khi thấy ông nhận
không biết bao nhiêu giải thưởng áp phích trong nước và quốc tế.


Họa sĩ Nguyễn Đăng Phú

Ước mơ đến từ biển
Sinh năm 1947 ở Hà Nam, nhưng lớn lên và trưởng thành ở Hải Phòng
nên gọi ông là người Hải Phòng còn chính xác hơn. Thuở nhỏ, cậu bé
Nguyễn Đăng Phú đã có tiếng ở tài vẽ khéo. Học phổ thông lại phát về
thơ phú, trúng vào đại học (khoa Ngữ văn), nhưng không theo. Vì vẽ
mới khoái.
Suốt tuổi thơ gắn với đất cảng và vùng duyên hải, cảm quan nghệ thuật
của Nguyễn Đăng Phú được bồi đắp cùng khát vọng như biển, phóng
khoáng và mạnh mẽ.
Chiến tranh phá hoại, Phú từ Trường Ngô Quyền sơ tán về Vĩnh Bảo.
Cứ sáng học, chiều đi ký họa chân dung. Mà kiếm được tiền bằng món
này. Thời đó học sinh phổ thông kiếm được tiền chia sẻ với lũ nhất quỷ
nhì ma cũng được gọi là hoàng đế rồi.
Rồi Phú quyết thi vào học Mỹ Thuật Hà Nội, tốt nghiệp Trung cấp Mỹ


thuật, lại về làm báo Hải Phòng. Công việc là đi nhà in và vẽ áp phích,
ký họa, vẽ tranh tường thuật không khí chống Mỹ của nhân dân đất
cảng.
Nghĩ lại bây giờ mới kinh chứ hồi ấy trẻ, xông pha ngán gì. Hồi ấy, có
trận bom ở đâu là anh em phải đưa tin ngay, phóng viên lễ mễ máy ảnh,
Phú thì cắp nách bảng vẽ đạp xe tới hiện trường.
Những bức ký họa nhanh nóng hổi vì khi vẽ khói bom vẫn còn ngùn
ngụt. Tất cả những sự thật của chiến tranh cần cho nhân dân biết không
chỉ là hình ảnh mà còn là cảm xúc, sự căm thù nữa. Cô bạn gái hồi đó
sơ tán tận Đoan Hùng thỉnh thoảng về thăm Phú muốn được ở bên nhau
lâu, nhưng Phú nói phải đi vẽ, không thể đổi kế hoạch được, làm cô ấy
giận hàng năm trời.
Trong cái thời bom đạn mà người ta không dám chắc độ dài của cuộc
sống của mình đảm bảo trong bao lâu thì họa sĩ Phú vẫn tin vào một
điều mong manh về một thế giới nghệ thuật sẽ biết đến tên mình. Thế
giới đó có thể gần và có thể rất xa.
Những lần đi vẽ đến Đồ Sơn hay những cửa biển, nhìn tận mắt thủy lôi
nổi lập lờ của Mỹ, bên cạnh cảm giác rùng mình với cái chết đâu đó thì
trước mắt Phú, ngoài khơi xa, không chỉ có lũ giặc trời F105, F4 lao
vào oanh tạc mà còn có những bờ bến của những xứ sở tươi đẹp với
nền nghệ thuật rực rỡ. Phú cặm cụi học tiếng Nga và học giỏi môn này,
anh thường đặt sách ngoại văn để mở mang tầm nhìn.
Sau hiệp định Paris, chấm dứt ném bom miền Bắc, một mẩu tin về cuộc
thi áp phích trên tờ Lapolone của Ba Lan đã làm Phú mừng như vớ
được vàng. Phú quyết ứng thí. Nhưng theo một con đường rất trực tiếp
là gửi qua một người quen làm nấu bếp cho đại sứ quán Ba Lan.
Bắt đầu từ đó là căng mắt dõi theo tạp chí có in tên mình không. May
quá, nghệ thuật áp phích đã không bỏ rơi Phú. Một thông báo trân trọng
về giải thưởng đã được đăng tải trên tờ Lapolone. Không chỉ Phú mà cả
gia đình và cô bạn gái hồi hộp.

Ngày nhận giải còn hồi hộp hơn nữa. Không có điều kiện trao trực tiếp
nên giải thưởng quốc tế này đã tự về Hải Phòng qua bưu điện. Chầu
trực ở bưu điện từ lúc chưa có ma nào xuất hiện cho đến khi cô bưu
điện mở khóa, Phú căng thẳng khi bưu điện tìm mãi hàng giờ không
thấy, rồi nó được tìm thấy trên đỉnh kệ do người phân loại đã đặt riêng
rồi quên luôn.
Tiếng reo vui bất tận. Đó là một kiện hàng dài cỡ 1m, không nặng lắm
nhưng đương nhiên là quý hơn bạc vàng. Cả gia đình, nội tộc khoảng 2
chục người mặc tươm tất chờ sẵn chật sân, ngõ để chờ Phú phóng xe
đèo giải về "vinh quy bái tổ". Tất cả đề nghị ông bác cao tuổi nhất là
người nhận trọng trách khai kiện.
Khi mở ra, tất cả lặng đi một lúc rồi ồ lên ngán ngẩm. Giải thưởng là
một chiếc rìu kiểu hoàng tộc Ba Lan. Thời ấy đói vàng mắt nên cũng có
ý kiến là: Giá được cái xe đạp có phải hơn không; giá chục mét vải thì
hay
Tất nhiên vì chiếc rìu này mà gia đình đã chi kha khá cho bữa cơm
"dưa muối" khao họ hàng. Nhưng không sao. Cái rìu này là một cú
huých quan trọng với một họa sĩ mới 26 tuổi. Nó nói rằng: Vinh quang
này đã gọi tên họa sĩ Nguyễn Đăng Phú. Từ đó, với năng lượng từ cây
rìu trung cổ, tiều phu Nguyễn Đăng Phú đã liên tục bội thu giải thưởng
trong nước và quốc tế. Đó là tấm huân chương cao quý nhất trong đời.
Sau này, Nguyễn Đăng Phú tiếp tục được xướng tên trong các kỳ triển
lãm quốc tế khác như giải thưởng của Hội Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế
tại Liên Xô 1981 và Huy chương Đồng tạo Triển lãm đồ họa quốc tế
Bruno, Tiệp Khắc 1986, trong giải đề là được 60 ngàn cuaron nhưng bị
thất lạc. Tiếc thế, nếu không thì đã có cả một chiếc xe máy Java con
thỏ.
Bây giờ chẳng ai coi xe máy vào đâu, nhưng những năm 80, có xe máy
là vua. Giải Liên Xô 1981 thì thênh thang: Một bộ bút lông, một hộp
sơn dầu, một tập giấy vẽ, một bộ quần áo nỉ. Đặc biệt, một hộp màu

nước Leningrad êm ái lịm tim mới là đỉnh cao mơ ước. Ở ta bói không
có mà mua, hoặc phải chịu giá cắt cổ. Hồi ấy, anh em đi xuất ngoại mới
có thể mua được món này.


Áp phích được huy chương đồng Triển lãm Đồ họa quốc tế (Bruno,
Tiệp Khắc 1986).

Ngoài thành tựu quốc tế thì Nguyễn Đăng Phú đã được Mỹ thuật Việt
Nam tôn vinh như: 4 áp phích được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam sưu
tập lưu giữ. Các giải thưởng tranh cổ động toàn quốc, 5 lần được
Xưởng Tranh cổ động trung ương và Cục Mỹ thuật in ấn phát hành
rộng rãi. Nhiều lần nhận giải thưởng cho minh họa. Anh minh họa cho
đến 27 đầu báo. Vẽ khỏe như lực sĩ.
Sau này, ông có dịp làm việc ngót chục năm tại Ba Lan thì điều kiện
hành nghề đã hết khó khăn và quan trọng là học và làm việc tại châu
lục có nền đồ họa phát triển. Không chỉ sáng tác, về nước, ông còn
dành nhiều tâm huyết để chỉ dạy cho các học trò tại Việt Nam.
Áp phích của Nguyễn Đăng Phú được người xem đánh giá cao vì ông
có tư duy cởi mở. Cũng nhờ ngoại ngữ tốt, tiếp xúc với nhiều cửa sổ
quốc tế nên không bị sáo mòn theo mẫu thức: "Trời xanh mây trắng lúa
vàng/ Công nông binh đứng thẳng hàng tiến lên". Tranh của ông
thường dùng những biểu tượng cụ thể cô đọng chạm vào trái tim người
xem gây cảm xúc. Bức tham gia tại Tiệp Khắc 1986 là một thí dụ.
Dòng chữ "Hòa bình là lẽ sống" có sức mạnh cắt đôi quả bom, nửa đuôi
của quả bom điểm thêm mỏ và mắt thành chim bồ câu trắng bay lên
được đánh giá rất cao. Hay bức "Hút thuốc là tự sát", năm 2004, ông vẽ
một khẩu súng colt mà mỗi viên đạn là một điếu thuốc cháy dở, rất
rùng rợn. Có người hỏi ông có hút thuốc không? Ông cười lớn: Không
hút thuốc làm sao hiểu được nó nguy hiểm đến thế nào. Ông có tin

người nói về chiến tranh mà không qua bom đạn không? Bây giờ thì
chừa rồi, ha ha!

Cha đẻ của "thiên tài"
Cả hai vợ chồng đều làm nghề mỹ thuật, từ Hải Phòng về được Trường
Mỹ thuật cấp cho cái trái nhà 6 thước vuông. Mừng húm. Còn mơ gì
hơn nữa. Đó là một vương quốc rồi.
Xin mượn câu thơ của Lưu Quang Vũ để ký họa "lâu đài" vĩ đại của
Phú: "… Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh nồi/ Nếu nằm
mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo/ Ô tường nhỏ treo tranh và phơi
áo/ Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình…/ … Khoảng
không gian của anh và em/ Khi buồn bã em không thể quay mặt đi nơi
khác/ Anh không giấu em một nghĩ lo nào được/ Ta chỉ có mấy thước
vuông để cùng khổ cùng vui…"
Từ mấy thước vuông ấy, những cậu con trai đã lần lượt chào đời. Bố
Phú đã đặt tên con theo mơ ước của mình. Đó là Nguyễn Đăng Gô
Ganh (theo tên danh họa P. Gauguin), Nguyễn Đăng Sô Panh (theo tên
thiên tài âm nhạc F. Chopin) và sau là Nguyễn Đăng Anh Xtanh (Nhà
bác học A. Einstein).
Nhà chật, tranh vẽ xong không có chỗ treo, nhiều khi phải đút gầm
gường, thế là nó không tránh khỏi bị những “vĩ nhân” Gô Ganh, Sô
Panh tè vào. Nhưng không sao. Thế cũng là nghệ thuật nhập thế vào
đời sống. Phải cái, khi nhập hộ khẩu, những cái tên của “vĩ nhân” bị cơ
quan quản lý phàn nàn đến khổ.
Các "thiên tài" Gô Ganh và Sô Panh đã trưởng thành, nghề nghiệp phát
triển, chỉ có Anh Xtanh vẫn tuổi đi học. Đôi khi các con cũng bị các
bạn đồng môn trêu chọc vì cái tên độc đó. Nhưng khi bố hỏi có cảm
thấy không hài lòng với cái tên đó không thì các con trai đều nói:
Chúng con tự hào vì được bố đặt tên, bây giờ đã là thương hiệu không
lẫn vào đâu được, muốn quên cũng không được.

Ông vua Phú trị vì vương quốc sáu mét vuông theo một chế độ hà khắc,
thường dùng gậy hơn là củ cà rốt. Vì thế các "thần dân" nghịch dại thế
nào cũng bị ăn đòn quắn đít. Có lần cả 3 đều phải nằm úp nhận roi.
Hàng xóm cứ nghe thấy tiếng trẻ con khóc rồi đét một cái kèm theo
tiếng quát: Này thì Gô Ganh này… Này thì Sô Panh này… Này thì Anh
Xtanh này. Các “thiên tài” đều bị "xé vé đồng hạng cả" khóc ré cả lên.
Nhưng những trận đòn ấy cũng làm cho con ông nên người. Với ông,
không nghiêm thì hỏng.
Khi có tuổi, bố Phú gọi các con lại bảo. Bố bây giờ thì "vượt kế hoạch"
rồi nhé, nhưng các con còn sinh nhiều cháu. Bố đã theo được ba chữ
"anh" rồi, nhưng còn hai chữ nữa bố rất muốn đặt cho các cháu là Rô
Đanh (điêu khắc gia thiên tài Rodin) và Y Éc Xanh (nhà khoa học A.
Yersin) thì các con nhất trí không? Anh cả Gô Ganh bảo: Thưa bố, cứ
để chúng con tính. Hôm sau, Gô Ganh gặp bố nói: Chúng con rất muốn
theo ý bố, nhưng sau khi họp "Hội đồng liên hợp quốc" quyết liệt thì
chúng con xin bố cho chúng con được đặt theo cách của chúng con.
Thế là bố Phú bó tay. Bắt đầu thời kỳ phản phong rồi đây.
Để nuôi nấng các con thời những năm 80, đừng mơ bán tranh nhé. Các
danh họa bấc mét của ta cũng bán được rất nhỏ giọt, còn lại các họa sĩ
phải trông vào các hợp đồng làm "thợ bôi" ở các triển lãm, vẽ bìa sách,
minh họa lặt vặt. Việc ngon, năm thì mười họa mới đến tay. Ai có thể
thông cảm với các nghệ sĩ được chứ các con đói thì không.
Bí quá, Nguyễn Đăng Phú mua trứng và chanh Vinh, loại chanh rất
ngon đem ra bày mẹt ở vỉa hè Cửa Nam bán ngoài giờ, kiếm đồng ra
đồng vào. Dân mình nghèo nhưng sĩ lắm. Vợ chồng Nguyễn Đăng Phú
thì coi là chuyện nhỏ. Ai bán tranh thì bán, còn tớ là tớ bán chanh.
Chó cắn áo rách, có cái xe đạp thì nó lấy mất. Bực quá, Phú dành dụm
mua cái xe khác rồi vẽ sơn từ vành lốp khung đến ghi đông. Nhìn cái
xe vẽ thanh long bạch hổ, trộm nó cũng ngán vì khó bán nhanh được.
Xe của lão cùn đến thế thì có cho không, kẻ trộm nó cũng tự ái.

Về sau Nguyễn Đăng Phú bán tranh đều đều, giải thưởng liên tục, đời
sống tươm tất hơn, hai vợ chồng cứ nghĩ đến cái cảnh bày mẹt bán
chanh mà cười ra nước mắt.
Một kết thúc có hậu cho những năm tháng gian nan đã lùi xa. Giấc mơ
sáng tạo của Nguyễn Đăng Phú vẫn tiếp tục vì sức khỏe của ông vẫn
tráng kiện. Nhưng bây giờ cũng là lúc đón những quả ngọt do những
đứa con Gô Ganh, Sô Panh và Anh xtanh gặt hái. Làm cha đẻ của
"thiên tài" vẫn là cái thú nhất.

×