Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.11 KB, 5 trang )

Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh - Người xây
nền cho tranh lụa Việt Nam!
Wednesday, 2. January 2008, 12:53:51
Mỹ thuật
Hoạ sĩ Việt nam lỗi lạc Nguyễn Phan
Chánh (1892- 1984) xuất thân từ một gia đình trí thức nông thôn. Ông nội của ông đã thi
đỗ tú tài xuất sắc và làm nghề dạy học trong làng (ở Việt Nam thời phong kiến, làng quê
chính là trung tâm văn hoá, nơi cung cấp cho thành phố những thanh niên có học để bổ
sung cho bộ máy quan lại). Bố ông làm nghề kế toán. Nhưng người bố mất sớm, và thế là
gia đình rơi vào cảnh nghèo khổ. Cậu bé buộc phải bỏ học. Người mẹ đành phải cho con đi
theo một hoạ sĩ lang thang, dù sao đi nữa thì nhà cũng đỡ được một miệng ăn. Thoạt đầu,
Chánh được giao nhiệm vụ chuẩn bị giấy vẽ. Phải phết hồ thật đều lên mặt giấy, rồi dán
một tờ khác lên nó, miết thật cẩn thận cho không khí thoát hết ra ngoài, để bức tranh tương
lai không bị phồng rộp. Một thời gian sau, cậu được cầm cọ tô những mảng màu thích hợp
trên bức tranh mà sư phụ đã chuẩn bị sẵn. Đó là một công việc không hề nhẹ nhàng: cần
phải tuân thủ quang độ cần thiết của ánh sáng, chọn đúng tông màu thích hợp, đưa những
nét bút dứt khoát và khỏe khoắn. Cuối cùng, cậu được phép làm tất cả mọi việc từ đầu đến
cuối. Suốt đời mình, không bao giờ Chánh quên lần sư phụ đã lấy bức tranh “Lý ngư vọng
nguyệt” mà ông vẽ theo phong cách tranh dân gian, treo bên cạnh những bức tranh của ông
ấy, để bày bán...
Những bài học của người hoạ sĩ lang thang thật chẳng vô ích. Trở về nhà, Chánh hiểu rằng
cậu có thể đóng góp một phần nhỏ vào ngân sách gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà
những bước chập chững đầu tiên trong “hạch toán kinh doanh” của hoạ sĩ được bắt đầu từ
việc vẽ tranh dân gian. Tranh dân gian được phổ biến rất rộng rãi ở làng quê Việt Nam.
Loại tranh này đã xuất hiện từ thời xa xưa - khoảng thế kỉ 11 - 13 và phát triển mạnh mẽ
nhất vào các thế kỉ 16 - 18. Dần dần hình thành hai truyền thống là tranh làng Đông Hồ
(tỉnh Bắc Ninh) và tranh Hà Nội (còn gọi là tranh Hàng Trống). Ở Hà Nội tranh đươc vẽ
tay, hoặc in đen trắng rồi sau đó mới tô màu. Còn ở làng Đông Hồ thì phổ biến nhất là in
bằng ván khắc gỗ. Màu sắc được pha chế từ nguyên liệu tự nhiên dễ kiếm và rẻ tiền trong
vùng: tro đốt từ lá tre, tro rơm (màu đen), vỏ trai tán nhỏ (màu trắng), hoa dành dành (màu
vàng), rỉ đồng (màu xanh lá cây) v.v...


Màu sắc chủ yếu của tranh dân gian Việt Nam chính là những màu sắc truyền thống của
làng quê Việt Nam: màu vàng của lúa chín, màu xanh của mạ, mùa đỏ của ngô chín, màu
nâu của đất cày... Các tông khác nhau của màu đỏ tương ứng với những mùa hoa sặc sỡ
của thiên nhiên miền nhiệt đới. Có thể phân biệt các màu đỏ như: màu mận chín, màu cánh
sen, màu hoa đào... Có ba màu được hình thành bằng cách trộn lẫn những màu chủ yếu:
mận chín trộn với màu huyết dụ thành màu chu sa (đỏ son), chu sa pha với màu đen sẽ
được màu nâu cánh kiến, xanh pha với vàng sẽ cho màu cây lê. Người ta pha màu bằng hồ
nấu bằng bột gạo cho thêm vôi và phèn chua.
Thông thường, khổ một bức tranh là 22 x 30 cm. Chánh rất say mê những màu sắc trong
sáng, đơn sơ mà tươi vui một cách đặc biệt và hình thức tròn trĩnh trong cách thể hiên sự
vật, cũng như bố cuc đơn giản đến mức kinh ngạc, sự thong dong và mềm mại của các bức
tranh dân gian này. Chủ đề ưa chuộng là: những sự kiện lịch sử trọng đại, các truyền
thuyết, hoặc các hiện tượng trong cuộc sống thường ngày
Khát vọng học tập đã đưa Chánh tới thành phố, nơi có những trường Pháp - Việt vừa được
mở. Tại đây, ông đã tích cực học tiếng Pháp và sau khi tốt nghiệp xuất sắc, ông được phân
về một huyện làm phụ giảng. Thế nhưng lòng say mê hội hoạ của ông không hề suy giảm.
Năm 1925, khi Trường cao đẳng mỹ thuật được mở tại Hà Nội, người duy nhất trong số
hàng trăm thí sinh miền Trung trúng tuyển là chàng thanh niên 33 tuổi Nguyễn Phan
Chánh. Ở độ tuổi đã trưởng thành, không phải Chánh đã không do dự trước một bước
ngoặt như vậy trong đời mình. Ông phải nuôi mẹ và vợ, mà hội hoạ lại không phải là nghề
đem lại nhiều lợi nhuận vật chất.
Ở đây cần phải nhấn mạnh một điều rằng, đến thời kì này, nền hội hoạ Pháp đã tiếp nhận
nhiều thủ thuật hội hoạ của các nghệ nhân phương Đông. Trước đó, trền nền tảng của
những cuộc chiến tranh thuộc địa, đã nảy sinh quá trình tương tác giữa các nền văn hoá,
sản sinh ra những chủ đề khá thú vị, làm động lực cho sự phát triển hội hoạ các nước Tây
Au (Đêga, K. Mônê, Gôghen, Van Gốc, Tuluz - Lôtrec, Bônnar...)
Trường cao đẳng mỹ thuật Đông Dương được thành lập nhằm phục vụ cho lợi ích của Mẫu
quốc, nhưng xét một cách khách quan, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nền nghệ thuật dân tộc hiện đại của Việt nam. Chính quyền thuộc địa cố
biến trường này thành những xưởng vẽ ứng dụng và hướng chúng thích nghi với đòi hỏi

của thị trường. Thế nhưng chính quyền đã không thực hiện được mong muốn đó. Tại
trường, người ta dạy cho học viên các kỹ xảo của hội hoạ hiện đại phương Tây, mặt khác,
sự tìm kiếm hướng khôi phục và phát triển những hình thức hội hoạ dân tộc độc đáo cũng
được tích cực tiến hành. Cụ thể là người ta đã lưu ý nhiều đến nghệ thuật vẽ sơn mài
truyền thống.
Chánh quan tâm nhiều đến sơn mài từ góc độ kỹ thuật: ông bị lôi cuốn bởi hiệu ứng lên
màu khi đánh bóng sơn. Tuy nhiên, xét một cách toàn diện, trạng thái tinh thần của hoạ sĩ,
niềm đam mê đối với những đề tài và cách thể hiện đơn sơ, dân dã của ông hoàn toàn đối
ngược với nghệ thuật sơn son thếp vàng nơi cung điện. Mặc dầu vậy, Chánh rất thích
những bức chạm trổ dân gian, vốn gợi cho ông liên tưởng đến những bức tranh Tết, và
chạm trổ là một phần không thể thiếu được trong trang trí nội thất của những ngôi đình
làng Việt Nam. Những hoạ tiết về cây cỏ và súc vật, những đối tượng thờ cúng tế lễ, các sự
tích tuồng chèo... được những người thợ khắc tài hoa tạo nên từ chất liệu gỗ quý như lim,
sến, táu, gụ, mít...
Năm học đầu tiên, Chánh nắm được những cơ sở của hình hoạ, của bố cục, làm quen với
điêu khắc và các chất liệu hội hoạ. Trong thời kì này, Chánh đặc biệt say mê tìm tòi cách
kết hợp giữa tranh dân gian và hội họa hiện đại.
Sang năm thứ hai, các học viên được chuyển sang nghiên cứu kỹ thuật tranh sơn dầu. Sơn
dầu đã thu hút được sự chú ý của các hoạ sỹ Việt Nam. Nó cho phép các hoạ sỹ vẽ những
mảng màu lớn, những côngtua mạnh mẽ, tạo khả năng pha màu phong phú, hoặc cho phép
mô tả chiều sâu và hình khối. Chánh đã thí nghiệm không mệt mỏi trong lĩnh vực này. Ông
có sáng kiến sử dụng bút lông viết chữ nho để vẽ sơn dầu, tạo ra những đường nét nhẹ
nhàng mềm mại hơn trên nền vải. Về sau, Chánh thôi không vẽ tranh sơn dầu nữa. Và hiện
nay cũng chỉ còn lưu lại một vài bức vẽ sơn dầu của ông.
Các hoạ sỹ
phương Đông thời Trung cổ không hề biết đến chất liệu sơn dầu. Họ vẽ bằng mực tầu hoặc
thuốc nước trên giấy hoặc lụa. Mỗi một nét bút đều đòi hỏi độ chính xác tuyệt đối, bởi lẽ
sửa lại những gì đã được vẽ ra là điều không thể thực hiện được. Tuy nhiên, độ biểu cảm
của đường nét là vô cùng to lớn. Hội hoạ cổ truyền có phần phiến diện, nhưng dù sao đi
nữa ở đây cũng có những thủ thuật ánh sáng và thể hiện chiều sâu và hình khối. Bằng cách

cho thêm nước vào mực, hoạ sỹ đạt được vô số sắc thái của màu, thể hiện được những độ
đậm nhạt khác nhau. Đặc biệt, ở trường Mỹ thuật người ta chú ý nghiên cứu những thành
tựu kỹ thuật và thẩm mỹ của các danh hoạ Trung quốc nói chung và nhất là các danh hoạ
dưới triều đại nhà Thanh, thời tạo nên bản luận văn kinh điển nổi tiếng: “Trường ca về hội
hoạ từ vườn tiêu” (nửa sau của thế kỷ 17).
Nét đặc trưng của tranh truyền thống là bố cục của nó. Ở nhiều phương diện, bố cục này
được ấn định bởi một điều là hội hoạ cổ truyền không sử dụng luật xa gần* của các nghệ
nhân phương Tây. Sự mô tả các vật thể ở xa được thể hiện theo toạ độ dọc**.Bởi vậy, tài
năng của hoạ sỹ chính là ở đạt được tỉ lệ tương quan giữa kích thước xa và gần của những
đối tượng miêu tả cũng như sự tương ứng hài hoà của những chỗ bỏ trống và những chỗ có
nét vẽ trên bức tranh.
Là một trí thức nhà nòi kế thừa sâu sắc những truyền thống văn hoá dân tộc, Nguyễn Văn
Chánh hiểu và yêu quý những bức hoạ cổ xưa vẽ trên lụa. Đồng thời cũng là một hoạ sĩ có
nền học vấn phương Tây được đào tạo chuyên nghiệp, ông đã nhận ra trong nền hội hoạ cổ
truyền có những mặt cần thiết cho hội hoạ phương Tây. Như một nghệ nhân, ông đã kết
hợp được truyền thống dân tộc và những thành tựu văn hoá xã hội của thế kỉ mới.
Ở trường Mỹ thuật, người ta rất chú trọng đến kỹ thuật thể hiện hình khối. Nguyễn Phan
Chánh cũng mô tả hình khối. Ở ông, hình khối đạt được một cách dễ dàng bằng những
mảng màu, những đường viền tinh tế, nắn nót và tao nhã. Với màu sắc cũng vậy. Ông
không hề quên những bài học ở trường. Nhưng khác với tranh các họa sĩ phương Tây, màu
sắc trong tranh của ông nhẹ nhàng, mềm mại, không hề sặc sỡ. Đó chính là phong cách độc
đáo của ông.
Phong cách hội họa độc đáo của Nguyễn Phan Chánh đã chiếm được sự chú ý của phương
Tây. Những tác phẩm đầu tay của ông như “Chơi ô ăn quan”, “Rửa rau cầu ao”, “Em bé
chơi chim” - đã được Triển lãm thuộc địa Pari năm 1931 đón nhận và đánh giá cao. Vào
những năm 1932-1934 tranh của ông được triển lãm ở Rôma, Milăng, Neapol, sau đó là ở
Brucxen và San -Fransiscô.
Nguyễn Phan Chánh (bút hiệu: Hồng Nam; 1892 - 1984), hoạ sĩ Việt Nam. Quê: huyện
Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Tốt nghiệp Trường Mĩ thuật Đông Dương khoá I (1925 - 30).
Người đầu tiên khởi xướng phong trào vẽ lụa ở Việt Nam những năm 30 thế kỉ 20. Nhận

thức hội hoạ bắt đầu từ mực tàu bút lông, ước lệ phương Đông cổ truyền trong bố cục,
màu sắc. Tham gia đấu xảo đầu tiên tại Pari 1931, với các tác phẩm vẽ lụa nổi tiếng về đề
tài nông thôn trên bảng màu nâu nhạt. Kĩ thuật rửa lụa sau một lần vẽ làm cho lụa mềm
mại, màu sắc thấm nhuộm vào từng thớ lụa là một tìm tòi lớn của ông. Cách hồ lụa trước
khi vẽ phác hình rất nhẹ ở mặt trái, mờ nhạt các đường viền hình hoạ cũng là những kĩ
thuật rất riêng biệt của ông. Tác phẩm chính là các tranh lụa: “Chơi ô ăn quan” (1930),
“Em cho chim ăn” (1930), “Rửa rau cầu ao” (1930),”Đan Mây” (1957), “Bữa cơm mùa
thắng lợi” (1960), “Sau giờ trực chiến” (1967) “Trăng tỏ, trăng lu” (1970). Giải thưởng
Hồ Chí Minh (1996).
10 điện thoại nổi bật nhất châu Á 2007

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×