1
MỤC LỤC
BỘ GIO DỤC V ĐO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
XÃ HỘI HỌC
(Bi tập kết thc mơn học)
GVHD : PGS. TS L SƠN
Học vin : TRẦN THỊ HẠNH THẢO
TP.HỒ CHÍ MINH - 2006
2
A. MỞ ĐẦU:
Nhà xã hội học nổi tiếng người pháp Pierre Bourdieu quan niệm rằng trong cuộc
chơi của chúng ta trong xã hội, chúng ta đã thừa hưởng và mang theo bên mình
ba loại vốn ( Capitaux) – trong nghĩa đen cũng như trong nghĩa bóng:
Vốn liếng kinh tế ( vd: Gia sản, lợi tức . . .)
Vốn liếng xã hội ( mạng lưới những quan hệ xã hội )
Vốn liếng văn bằng ( bằng cấp, trình độ học vấn ).
Chính những khác biệt về vốn đã đặt mỗi cá nhân vào những vị trí khác nhau
trong các tầng lớp xã hội khác nhau.
B. NỘI DUNG:
I. Tính di động xã hội.
1.Khái niệm phân tầng xã hội.
1.1 Bất bình đẳng xã hội và sự phân tầng xã hội ( Stratification sociale):
Con người trong xã hội mang nhiều đặc điểm khác nhau về giới tính, tuổi tác,
chủng tộc, tôn giáo, tài sản, uy tín xã hội, quyền hành … Chúng ta gọi những
khác biệt này là bất bình đẳng xã hội. Ở đây khái niệm bất bình dẳng chưa mang
một sự phê phán giá trị tốt hay xấu.
Các nhà xã hội học cố gắng khám phá nguồn gốc những bất bình đẳng trong cơ
cấu và trong văn hóa của chính các xã hội này. Họ cũng cho rằng có những khác
biệt bẩm sinh giữa những cá nhân và sự phát triển của từng cá nhân cũng đào
sâu những khác biệt này, nhưng mặt khác họ quan niệm nền văn hóa và cơ cấu
xã hội có thể cũng cố và duy trì những khác biệt, những bất bình đẳng cá
nhân đó.
Mỗi xã hội có những phương cách khác nhau trong việc sở hữu các tư liệu sản
xuất và các tư liệu này chi phối quá trình tái sản xuất, và đào tạo các thế hệ kế
tiếp. Những bất bình đẳng chỉ trở thành phân tầng xã hội khi các cá nhân được
sắp xếp theo các vị trí cao thấp theo những thuộc tính của mình như lợi tức, của
cải, quyền hành, uy tín, tuồi tác, tôn giáo, dân tộc …
Như vậy :Khái niệm phân tầng xã hội ( Social Stratification) ám chỉ những
phương thức mà xã hội sắp xếp các thành viên của mình trên cơ sở sự giàu
có, quyền lực hay uy tín xã hội.
Hệ thống phân tầng xã hội thường được biện minh bởi hệ ý thức, như hệ
ý thức Mac xít, hệ ý thức tư bản, hệ ý thức Balamôn …
Thí dụ: - Tư tưởng nho giáo trước đây cũng nhấn mạnh việc mọi người phải
chấp nhận và làm tròn vai trò của mình ( quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.
Hay tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử).
3
- Triết lý bà la môn cũng chỉ là một triết thuyết biện minh cho hệ thống đẳng
cấp ở An Độ. Tôn giáo như vậy cũng thường hợp thức hóa các hệ thống phân
tầng xã hội.
Các định chế xã hội, như định chế giáo dục, chuẩn bị cho con người chấp
nhận các vị trí của mình trong xã hội. Nhưng tại sao con người, kể cả những
người ở tận đáy xã hội, lại phải chấp nhận vị trí của mình trong xã hội? Bởi vì
họ không còn chọn lựa nào khác, họ không có cơ hội, phương tiện kinh tế cũng
như chính trị để thay đổi cuộc sống của mình. Họ cũng có thể nổi loạn để chống
lại sự bất công. Nhưng một trong các lý do khiến họ chấp nhận vị trí của mình
chính là sự phân tầng xã hội cũng là một bộ phận hữu cơ trong nền văn hóa
của họ và nền văn hóa này đã ăn sâu trong nếp nghĩ của họ.
Nói cách khác con người chấp nhận vị trí của mình trong một phân tầng xã hội
chính bởi vì hệ thống đó được củng cố bởi những giá trị tiềm tàng trong nền văn
hóa của họ. Những khía cạnh của văn hóa biện minh cho hệ thống phân tầng
xã hội đã được học hỏi trong quá trình xã hội hóa. Trong một ý nghĩa nào đó,
xã hội phong kiến, qua những câu tục ngữ như: “ Đói cho sạch, rách cho
thơm”, “ con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”, … chỉ dạy cho
con người chấp nhận sự phân tầng xã hội đang tồn tại.
Những thay đổi trong những hệ thống phân tầng xã hội có thể xảy ra với
sự sắp xếp lại về mặt quyền lực xã hội cũng như do những thay đổi về văn hóa,
kinh tế và quyền lực. Quyền lực trong ý nghĩa như vậy bao gồm cả quyền lực
chính đáng và không chính đáng. Quyền lực chính đáng còn gọi là uy quyền (
authority) – là quyền lực được mọi người thừa nhận và đây là yếu tố chủ yếu
trong việc duy trì tương quan hiện hữu trong các đẳng cấp, trong các giai cấp.
Khi thiếu quyền lực chính đáng để duy trì trật tự xã hội người ta phải sử dụng
nhiều vũ lực. Quy luật này không chỉ ứng dụng các xã hội vi mô mà cả cho các
nhóm nhỏ, các tổ chức xã hội nói chung.
Như vậy, để hiểu tại sao các tầng lớp nhân dân chấp nhận vị trí của họ trong xã
hội, không chỉ nghiên cứu vai trò của văn hóa, của hệ ý thức mà còn phải tìm
hiểu quyền lực và uy quyền được sử dụng để duy trì các mối quan hệ đang tồn
tại giữa các giai cấp.
1.2 Sự di động xã hội ( Social mobility):
Xã hội trong đó ranh giới giữa các tầng lớp xác định rõ rệt, và các thành
viên thuộc tầng lớp xã hội này không thể chuyển qua một tầng lớp xã hội khác
một cách dễ dàng, được gọi là những xã hội đóng kín ( Closed societies). Đặc
điểm của các xã hội có phân tầng đóng kín đặt cơ sở trên những đẳng cấp (
castes), là những tầng lớp trong đó con người được sinh ra và gắn liền suốt đời.
Thành viên của một đẳng cấp khi sinh ra thì gắn liền với vị trí xã hội đã được
chỉ định.
Ngược lại, những xã hội mở rộng ( open societies), là những xã hội trong
đó con người có thể dễ dàng vượt qua giữa những tầng lớp. Đặc điểm phân tầng
4
của các xã hội mở rộng là giai cấp. Giai cấp là những tầng lớp xã hội chủ yếu
dựa trên những tiêu chuẩn kinh tế, như vị trí trong hệ thống sản xuất, nghề
nghiệp, lợi tức, tài sản… Giai cấp của các xã hội không đồng nhất, trong bất kỳ
một giai cấp nào đều có các nhóm khác nhau tùy theo mức độ uy tín mà họ nhận
được từ xã hội nói chung. Những nhóm như vậy thường được gọi là nhóm địa vị
( status group). Như trong xã hội người Mỹ, những người giàu da trắng, theo
đạo Tin Lành, gốc Anglo – saxon được trọng vọng nhất trong tầng lớp những
người giàu ở Mỹ.
Việc di chuyển cá nhân từ tầng lớp xã hội này sang tầng lớp xã hội khác
được gọi là di động xã hội
Sự di động này có thể là sự di động đi lên ( upwardly mobile). Như trong trường
hợp khi một gia đình giàu lên và bắt đầu sở hữu các phương tiện sản xuất và
sinh họat của tầng lớp trên. Và ngược lại là di động đi xuống (downwardly
mobile).
Các thành viên của một đẳng cấp không thể có hy vọng rời bỏ đẳng cấp
của mình. Hệ thống đẳng cấp thường dựa trên nền tảng hệ ý thức, tôn giáo, tín
ngưỡng.
Thí dụ: Kinh Rig Veda dạy rằng, xã hội Hindu, do ý muốn của thần thánh, được
chia làm bốn đẳng cấp chính:
- Bramin ( tu sĩ)
- Kshatriya ( Chiến sĩ)
- Vaisay ( nông dân và thương nhân)
- Sudra ( đầy tớ và thợ thủ công)
- Ngoài ra còn có những người hoàn toàn bị gạt ra ngoài xã hội, “ những người
không được đụng đến”.
Phương cách mà con người tập hợp lại tùy theo mức độ họ có thể sử dụng được
các tài nguyên hiếm hoi xác định những cơ hội sinh tồn ( life chances) của họ,
nghĩa là những cơ hội có thể có được hay sẽ bị từ chối suốt cuộc đời do vị trí xã
hội của họ.
Mỗi tầng lớp xã hội đều có lối sống riêng ( life – styles), có những ngành nghề
riêng , hưởng những nền giáo dục với chất lượng khác nhau, sử dụng thời gian
nhàn rỗi khác nhau.
1.3 Tư liệu sản xuất, sự phân tầng xã hội và di động xã hội trong xã hội hiện
đại:
Những lực lượng chủ yếu dẫn dến sự phân tầng trong xã hội được tạo nên bởi
việc sở hữu những tư liệu sản xuất trong một xã hội nhất định. Ví dụ như đối
những người nông dân bình thường , chiếm đại bộ phận dân cư trên thế giới,
phân tầng xã hội dựa trên sở hữu đất đai và lao động nông nghiệp. Với những
người thuộc các tầng lớp thấp nhất, các bần nông, cố nông chẳng hạn, do không
5
sở hữu hay chỉ sở hữu ít ruộng đất họ phải làm công việc nặng nhọc, phải đem
sức lao động của mình ra bán, trong khi những người thuộc tầng lớp trên, như
các điền chủ, có nhiều ruộng đất – nên có thể sống một đời sống tương đối tiện
nghi. Trong xã hội công nghiệp hiện đại, tương quan của cá nhân đối với các tư
liệu sản xuất vẫn là yếu tố cơ bản trong việc xác định vị trí của một cá nhân
trong hệ thống phân tầng xã hội.
Xã hội công nghiệp hiện đại đựợc đánh dấu bởi di động cơ cấu ( Structural
mobility), là việc loại bỏ cả những giai cấp, hay giảm bớt số lượng thành viên
trong một giai cấp do sự phát triển của kỹ thuật trong sản xuất, do sự thay đổi
các tư liệu sản xuất.
- Trong cuộc cách mạng công nghiệp đã giảm giai cấp nông dân ở Mỹ từ tỷ lệ
90% vào đầu thế kỷ xuống chỉ còn 2,9% dân số hoạt động ( 1991). So với Anh:
2.2%; Đức: 3.3%; Pháp:6%; Nhật: 6,7%; Trung Quốc: 59,5%, Việt Nam: 72,2%
.
+ Di động cơ cấu là sự chuyển dịch cơ cấu các lĩnh vực hoạt động kinh tế như
xu hướng giảm lao động trong lĩnh vực đệ nhất đẳng và đệ nhị đẳng và xu
hướng gia tăng lao động trong lĩnh vực dịch vụ trong các xã hội công nghiệp
hiện nay.
+ Đặc điểm thứ hai của xã hội công nghiệp hiện đại là tính di động không
gian ( Spatical mobility) là việc di chuyển các cá nhân và các tập thể từ địa
phương này đến địa phương khác, đặc biệt là đến các thành thị. Hiện tượng này
do việc giảm vai trò của nông thôn và sự gia tăng tầm quan trọng của các
định chế tập trung ở thành thị, như các thị trường, các công ty các cơ quan
nhà nước. Nơi cư trú và nơi làm việc dần tách rời nhau, làm cho tình cảm của
cá nhân đối với cộng đồng địa phương cũng giảm đi.
Khi nghiên cứu sự di động xã hội ta phải phân biệt rõ di động cơ cấu và di động
xã hội thực ( mobilité nette). Như vậy: Di động cơ cấu là do tác động của tiến
bộ kỹ thuật lên cấu trúc nghề nghiệp xã hội, trong khi di động xã hội thực là
chuyển đổi nghề nghiệp thực sự do sự lựa chọn cá nhân.
Ta cũng phân biệt di động xã hội trong từng thế hệ, di động xã hội liên thế hệ.
Di động nội thế hệ đó là các cơ hội mà một cá nhân có thể đi lên hay rơi xuống
một tầng lớp xã hội khác trong quảng đời của mình. Còn di động liên thế hệ
thường được đo lường bằng cách so sánh địa vị trong giai cấp xã hội của hai thế
hệ cha và con ( cũng có khi cả ba thế hệ: Ông nội, cha, con).
Nước Di động xã hội đi lên Di động xã hội đi xuống
CHLB Đức (cũ)
Thụy Điển
Mỹ
29%
31%
33%
32%
24%
26%
6
Nhật
Pháp
Thụy Sĩ
36%
39%
45%
22%
20%
13%
Di động liên thế hệ tại 6 nước công nghiệp
( nguồn: S. M. Lipet, R. Bendix, Social mobility in industrial society,
Berkeley, Uni of California Press, 1967).
Phạm trù xã hội, nghề nghiệp của người con Phạm trù xã hội
nghềnghiệp của ngư
ời cha
g.c
thống trị
g.c
trung lưu
g.c
bình dân
Tổng
cộng
- g.c thống trị
- g.c trung lưu
- g.c bình dân
60,7%
25,0%
7,2%
32,2%
52,2%
5,8%
7,1%
22,8%
7,0%
100%
100%
100%
Nguồn: Alternatives economique, 6 – 1988.
Theo bảng trên, vào năm 1985, đối với 100 người con có cha thuộc “ giai cấp
thống trị”, thì 60 người cũng có nghề nghiệp thuộc giai cấp này, 25 rớt xuống
giai cấp trung lưu và 7,2 xuống giai cấp bình dân…. Nhìn chung cả ba giai cấp,
thế hệ con vẫn tiếp tục nghề nghiệp của thế hệ cha. Nhưng mặt khác, ở các giai
cấp trung gian, di động diễn ra nhiều hơn so với giai cấp khác.
Những cuộc nghiên cứu tính di động xã hội của ba thế hệ liên tiếp cho thấy tác
động của yếu tố “dòng họ”, đặc biệt là địa vị xã hội của người ông.
Ví dụ: Những đứa con có cha là cán bộ, ông nội làcông nhân thì cơ hội ở lại
giai cấp cán bộ của cha biến thiên từ 59,4% xuống 35,0% và nguy cơ rớt xuống
giai cấp thợ thuyền từ 2,7% lên 11%.
II. Vai trò của giáo dục trong sự di động của xã hội.
Giáo dục được định nghĩa là những cách khác nhau trong đó kiến thức – kề cả
thông tin và kỹ năng thực tế cũng như quy phạm và giá trị văn hóa được truyền
đạt đến từng thành viên trong xã hội. Một quá trình giáo dục mở rộng là giáo
dục học đường – sự dạy bảo chính thức dưới sự hướng dẫn của thầy cô được
đào tạo chuyên môn.
7
Trong suốt chiều dài lịch sử, xã hội loài người dựa việc săn bắn và hái lượm thô
sơ. Trong những xã hội như thế gia đình là thể chế xã hội trung tâm, cũng như
không có hệ thống giáo dục ở trường chính quy. Kiến thức và kỹ năng cần thiết
trong đời sống khi trưởng thành do thành viên gia đình dạy cho trẻ.
Trong xã hội nông nghiệp có công nghệ tiên tiến hơn – vốn phổ biến trong
nhiều bộ phận trên thế giới ngày nay – người tham gia vào một dải rộng gồm
các ngành nghề chuyên môn hóa. Trong mỗi trường hợp, những người hành
nghề có kinh nghiệm truyền đạt kỹ năng cho người mới vào nghề. Nhưng giáo
dục ở trường không liên kết trực tiếp với thế giới công việc thường dành cho
người giàu: từ trường học trong tiếng Anh thực ra lấy từ tiếng Hy Lạp có nghĩa
là “tiêu khiển”. Ở Hy lạp cổ đại, những thầy giáo nổi tiếng như: Socractes,
Plato, Aristotle dạy triết học và khoa học cho nam giới quý tộc. Triết gia Trung
Quốc nổi tiếng khổng tử cũng là thầy dạy cho một vài người có đặt quyền
Trong thời trung cổ, nhà thờ cung cấp nền giáo dục ở trường cho một bộ phận
dân số đông hơn, và hình thành trong những trường cao đẳng và đại học đầu
tiên. Nhưng giáo dục ở trường phần lớn còn là đặc quyền của phấn tử ưu tú
đang cầm quyền ở Tây Âu và Bắc Mỹ cho đến khi cách mạng công nghiệp.
Nước Mỹ là quốc gia đầu tiên áp dụng nguyên tắc giáo dục phổ cập. Có lẽ quan
trọng hơn, kinh tế nước Mỹ công nghiệp hóa cần đến lực lượng lao động có ít
nhất những kỹ năng biết đọc, biết viết cơ bản, và biết làm một ít số học. Sự phát
triển bộ máy quan liêu tiếp theo sau ở Mỹ và các xã hội công nghiệp khác báo
hiệu sự ra đời của một nền kinh tế đựa trên công việc giấy tờ cũng như máy
móc, sao cho giáo dục ở trường trỏ thành quan trọng hơn cả.
Năm 1850, hầu như một nửa số người Mỹ từ 5 đến 19 tuổi đều đăng ký nhập
học, vào những đầu thập niên 20, mỗi tiểu bang đều có luật giáo dục cưỡng
bách – Theo luật định yêu cầu mỗi trẻ em cần nhận được giáo dục chính quy ở
mức tối thiểu. Ngày nay, hơn 70% số người lớn ở Mỹ có ít nhất trình độ trung
học. Khoảng 1/5 học xong bốn năm đại học. Chỉ một tỷ lệ rất nhỏ người Mỹ
ngày nay được chính thức phân loại là mù chữ.
Trong các xã hội công nghiệp khác, kể cả Anh, Liên xô, và Nhật Bản, tình
hình cũng tương tự. Thế nhưng, trong hầu hết các xã hội nông nghiệp trên toàn
thế giới, hầu hết mọi người đều không thể biết đọc hay biết viết. Đây là các xã
hội phi công nghiệp thường quá mức nghèo khổ: Thu nhập bình quân chỉ bằng
5% hay 6% thu nhập trung bình của Mỹ. Đối mặt với vấn đề sống còn cơ bản đi
đôi với sự nghèo đói phổ biến, những xã hội này không có tài nguyên để dễ
dàng mở rộng cơ hội giáo dục ra ngoài một tỷ lệ nhỏ thành phần ưu tú. Vả lại,
Giáo dục ở trường đang thực sự tồn tại thường có chất lương kém, vì thế trẻ em
không học được nhiều cũng như không nhanh như trẻ em trong các xã hội giàu
hơn.
Nhưng vẫn có những thành công đáng chú ý ở những xã hội nghèo. Trước cuộc
cách mạng năm 1960 đưa Castro lên nắm quyền, giáo dục trường học ở Cuba
8
chỉ dành cho số ít thành phần ưu tú. Từ thời điểm ấy, Cuba quyết tâm phổ cập
giáo dục chính quy đến toàn dân và hiện nay hầu như đã xóa nạn mù chữ.
Tương tự, tỷ lệ mù chữ ở Nicaragua – một quốc gia giống như Cuba, đi theo
đường lối xã hội chủ nghĩa – đang tiến nhanh gần tỷ lệ ở các xã hội công nghiệp
giàu hơn. Những trường hợp như thế cho thấy ngay cả trong những xã hội giàu
hơn, trình độ học vấn có thể đạt được nếu chính phủ xem giáo dục là ưu tiên
hàng đầu trong xã hội.
Xã hội công nghiệp cung cấp giáo dục ở trường cho toàn bộ dân số nhưng theo
cách không giống nhau.
Giáo dục học đường ở Anh: Trong thời kỳ trung cổ, giáo dục ở trường phần
lớn chỉ dành riêng cho giới quý tộc, vì thế họ ít có nhu cầu kỹ năng thực tế liên
quan đến sinh kế, do trường chỉ gồm những người có nền tảng đặc quyền như
nhau. Khi cuộc cách mạng cần một lực lượng lao động có văn hóa, thì giáo dục
ở trường càng thu nhận nhiều học sinh hơn. Tương tư sự phân biệt xã hội truyền
thống tiếp tục định hình giáo dục ở Anh. Nhiều gia đình có gửi con em của
mình đến các trường công – những trường công này đều nằm ngoài khả năng tài
chính của hầu hết các gia đình Anh, nó chỉ dành chophần tử ưu tú có chức năng
quan trọng, xã hội hóa con em thuộc gia đình thuộc gia đình giàu có theo cách
khá biệt. Các học sinh được học mẫu lời ăn tiếng nói, thái độ hành xử, và chủng
tộc xã hội phân biệt thành viên thuộc giai cấp thượng lưu với số học sinh khác.
Cuối năm 1950, học vấn đại học bị hạn chế ở một số phần tử ở Anh. Nhưng
trong thập niên 60, 70, người Anh phát triển rộng hệ thống đại học trong nước.
Thế nhưng, ngay trình độ đại học, nền tảng xã hội tỏ ra quan trọng: Số lượng
học sinh khá giả ghi danh ở Oxford và Cambridge, vốn là những trường đại học
có uy tính nhất nước Anh, không có gì phải ngạc nhiên, sinh viên tốt nghiệp
Oxford và Cambridge rất có thể đảm đương vị trí đầy thế lực trong kinh
doanh và chính phủ, thực tế 17 trong số 21 thành viên của nội các ban đầu do
thủ tướng Margaret Thatcher thành lập đều là sinh viên tốt nghiệp trường
Oxford và Cambridge.
Giáo dục học đường ở Nhật: Giáo dục nhà trường ở Nhật phản ánh giá trị
văn hóa vững chắc của tình đoàn kết tập thể. Ở cấp lớp thấp, học sinh được
đối xử như một tập thể trong đó sự ganh đua bị ngăn cản. Giáo dục ở trường
cũng nhấn mạnh sự kính trong người già và những người khác có chức quyền.
Ở Nhật, điểm số trắc nghiệm thường tạo ra hay bẻ gãy khác vọng vào đại học
của thanh niên, giàu cũng như nghèo. Vì thế các học sinh đối mặt với các kỳ thi
này với sự tập trung rất cao độ, bố mẹ thường bỏ tiền ra cho con học tư để bổ
sung thêm chương trình học. Bất chấp sự chỉ trích vì áp lực không thể chịu nổi
áp đặt cho thanh niên, hệ thống giáo dục Nhật tạo ra kết quả ấn tượng, trong
nhiều lĩnh vực học thuật – hầu hết nổi tiếng ở môn toán và khoa học – sinh viên
Nhật đều hơn hẳn sinh viên trong tất cả các xã hội công nghiệp khác. Rõ ràng,
truyền thống văn hóa Nhật, liên kết với hệ thống thi cử đòi hỏi trình độ cao mới
vào được đại học thúc đẩy sinh viên phải học.
9
Giáo dục học đường ở Nga: Trước cách mạng xã hội chũ nghĩa năm 1917, Nga
là một nước nông nghiệp trong đó giáo dục học đường chỉ hạn chế ở một số ít
thành phần ưu tú. Năm 1930, Liên Xô thông qua luật giáo dục cưỡng bách. Bất
ổn chính trị, phí tổn và chia rẽ xã hội cũa thế chiến thứ hai làm chậm chương
trình giáo dục. Tuy nhiên cuối 1940, một nửa thanh niên Liên Xô đến trường.
Người xô viết khắc phục vấn đề hình thành hệ thống giáo dục quốc gia trong
một đất nước văn hóa đa dạng về mặt địa lý rộng hơn bất kỳ quốc gia khác trên
thế giới. Năm 1975, người xô viết khẳng địnhrằng hầu như tất cả đều đi học.
Như trong tất cả xã hội khác, giáo dục học đường Liên Xô phản ánh nhu cầu xã
hội và giá trị văn hóa quan trọng. Giáo dục học đường phổ thông được người
Liên Xô xem là thành phần quan trọng để trở thành cường quốc công nghiệp.
Hệ thống giáo dục được chuẩn hóa cao, theo sự chỉ đạo của chính phủ trung
ương. Hơn nữa theo chính sách theo chính sách chính thức của Liên Xô, trẻ em
nam, nữ đều có cơ hội nhận được giáo dục bình đẳng. Người Liên Xô cũng xem
giáo dục học đường là phương tiện giảng dạy những gì họ cho là quy phạm và
giá trị đích thực của đời sống xã hội chủ nghĩa. Ở Liên Xô cũng áp dụng thi
tuyển để nhận những học sinh có năng lực học tập cao nhất vào đại học.
Khảo sát vắn tắt hệ thống giáo dục trong ba xã hội khác nhau, chúng ta rút ra
được kết luận quan trọng: Giáo dục học đường được một xã hội lớn hơn
định hình. Xã hội thường thông qua luật giáo dục cưỡng bách do kết quả
của công nghiệp hóa. Hơn nữa, hoạt động của hệ thống giáo dục thường phản
ánh các mẫu lịch sử ( như trường hợp nước Anh), mẫu văn hóa ( biểu hiện rõ
trong hệ thống giáo dục Nhật Bản), và đặc điểm của hệ thống chính trị (như
trường hợp Liên Xô).
Giáo dục ở học đường Mỹ: Công nghiệp hóa liên kết với sự mở rộng giáo dục
học đường ở Mỹ, hệ thống giáo dục ở Mỹ cũng định hình bằng những giá trị
văn hóa khác biệt. Nước Mỹ xưa nay đặt sự nhấn mạnh vào văn hóa nhiều hơn
vào sự tham gia chính trị phổ biến, những quan điểm dân chủ như thế khuyến
khích sự mở rộng giáo dục chính quy, nước Mỹ là một trong những nước đầu
tiên ban hành luật giáo dục cưỡng bách và từ lâu có một tỷ lệ số người vào học
các trường cao đẳng và đại học nhiều hơn các xã hội công nghiệp khác. Giáo
dục chính quy ở Mỹ liên kết với giá trị cơ hội bình đẳng văn hóa. Giá trị văn
hóa thực dụng của Mỹ đã định hình giáo dục chính quy ở Mỹ, giáo dục ở
trường có khuynh hướng nhấn mạnh những môn học trực tiếp liên quan đến
sinh họat của con người, nhất là liên quan đến nghề nghiệp của mình . Phản ánh
sự nhấn mạnh thực dụng này trong giáo dục Mỹ, sinh viên thường có khuynh
hướng chọn ngành học sau này có việc làm đáng giá.
III. Giáo dục và công bằng xã hội.
Hệ thống giáo dục của mỗi xã hội liên kết chặt chẽ với hệ thống phân tầng xã
hội. Như chúng ta nhận thấy, phân tích cấu trúc chức năng cho rằng giáo dục ở
trường thúc đẩy chế độ nhân tài bằng cách liên kết sự sắp đặt xã hội với tài năng
và khả năng cá nhân. Phân tích mâu thuẫn xã hội nhấn mạnh mức độ giáo dục ở
10
nhà trường kéo dài mãi bất công xã hội trên cơ sở giới tính, chủng tộc, dân tộc
và giai cấp xã hội.
Cả hai mức độ và nội dung của giáo dục chính quy khác biệt rất lớn trong số
những nhóm người khác nhau, chẳng hạn trên khắp thế giới, giáo dục ở trường
từ lâu được xem là quan trọng đối với nam hơn là nữ. Ngày nay điều này không
đúng ở Mỹ như trong quá khứ, nhưng nam và nữ vẫn được khuyến khích học
các môn nữ tính và nam tính theo quy ước của xã hội. Trường học cũng củng cố
giá trị của nhóm chủng tộc và văn hóa thống trị, trước sự bất lợi của các nhóm
thiểu số. Ngoài ra người Mỹ khá giả có nhiều cơ hội học vấn hơn người nghèo.
Vấn đề đặt ra khi nền kinh tế công nghiệp đang từng bước thay bằng nền kinh
tế tri thức, khi xã hội công nghiệp tiến sang xã hội hậu công nghiêp, sự phân
hóa xã hội , phân hóa giàu nghèo đang diễn ra theo chiều hướng ngày càng
tăng, trong đó, những khoảng cách về tri thức giữa người này với người kia,
giữa cộng đồng này với cộng đồng khác là điều quan trọng nhất.
1. Vậy giáo dục có vai trò như thế nào trong sự khắc phục bất bình đẳng
của xã hội?
Theo Jacques Delors, chủ tịch ủy ban quốc tế về giáo dục thế kỹ XIX viết: “
giáo dục phải đối mặt với vấn đề này hơn bao giờ hết, trong triển vọng một xã
hội toàn cầu ra đời một cách khó khăn: giáo dục đứng ở trung tâm của sự
phát triển vừa của con người, vừa của cộng đồng. Giáo dục có sứ mạng giúp
cho mọi người, không trừ một ai, được phát huy tất cả mọi tài năng và mọi
tiềm lực sáng tạo, bao gồm cả tinh thần trách nhiệm đối với đời sống của bản
thân và việc đạt được những mục đích cá nhân”.
Đó là nền giáo dục thể hiện được tính mềm dẻo, đa dạng và khả thi trong
thời gian khác nhau và địa điểm khác nhau. Giáo dục trở thành một quá trình
liên tục về sự hình thành con người toàn diện, cả tri thức và cả những khả năng
của họ, bao gồm khả năng phán đoán trong tư duy giúp cho con người hiểu về
mình, hiểu về người khác, hiểu môi trường xung quanh để thực hiện tốt vai trò
và nghĩa vụ trong lao động sản xuất và trong đời sống xã hội.
Đó là một nền giáo dục tạo ra được những cơ hội học tập cho mọi người
và mỗi cộng đồng có nhu cầu nắm bắt thông tin và tri thức, làm chủ các công
nghệ mới có ý nghĩa phát triển với họ. Những cơ hội học tập đó thể hiện 2
phương thức học tập: Học có hệ thống để làm giàu tri thức một cách toàn diện
và học theo yêu cầu cần gì học nấy.
Nền giáo dục hiện đại nói trên giữ nguyên tắc hết sức coi trọng giáo dục
cơ sở, tận lực phát triển giáo dục trung học và đại chúng hóa giáo dục đại học.
Ngày nay, giáo dục cơ sở có nhiệm vụ chăm lo việc học cho gần 100 triệu người
lớn mù chữ, cho trên 130 triệu trẻ em chưa được đến trường và 100 triệu trẻ em
phải bỏ học giữa chừng.
11
Giáo dục cơ sở phải bảo đảm cho tài năng của mọi trẻ em được phát huy,
hạn chế những thất bại học đường và cho chúng thấy được cuộc sống tốt đẹp
phía trước.
Giáo dục trung học cần khắc phục được những trở ngại trong việc trẻ tốt
nghiệp đi kiếm việc làm và lo âu bởi chúng sẽ rơi vào nguồn nhân lực không
được sử dụng . Hệ thống giáo dục trung học cần bảo đảm cho học sinh thiếu
niên và đầu tuổi thanh niên hướng tiếp tục học lên, không bị định đoạt số phận
ở lứa tuổi này.
Giáo dục đại học một mặt dắt đưa sinh viên đi vào hệ thống học hỏi liên
tục sau khi ra trường, mặt khác lại mở rộng lối cho người lao động có dịp trở lại
giảng đường.
Có thể nói vắn tắt rằng , cái xã hội mà trong đó diễn ra quá trình giáo dục
thường xuyên, đào tạo liên tục, học tập suốt đời: được gọi là xã hội học tập.
UNESCO dùng khái niệm học tập suốt đời với cách hiểu sau: Trong một thế
giới có nhịp độ biến dộng gia tốc và toàn cầu hóa nhanh chóng làm thay đổi mối
quan hệ cá nhân cả về thời gian lẫn không gian thì con người phải học không
ngừng để làm chủ số phận mình. Những thay đổi lớn lao trong lao động đang
diễn ra trên toàn cầu đang sắp xếp lại thời gian của cá nhân. Học suốt đời là một
cách làm cân đối lại thời gian giữa học tập và lao động để con người vừa thích
nghi với công việc, vừa thực hiện được quyền công dân.
Học tập suốt đời nhằm vào 4 mục tiêu sau:
- Hoàn thiện nhân cách.
- Nâng cao năng lực tham gia cộng đồng.
- Thực hiện đặc quyền xã hội.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh trong sản xuất hoặc mở rộng triển vọng được
tuyển dụng.
2. Quan niệm chung của thế giới về học tập suốt đời :
Học tập suốt đời là quan điểm mới về giáo dục, hiểu đó là quá trình học từ lúc
tuổi thơ, qua giáo dục ban đầu rồi tiếp tục học suốt đời. Trong xã hội, các cánh
cửa học tập đang mở rộng, và không bao giờ khép lại với bất cứ ai muốn học.
Để con người học tập suốt đời, trong xã hội phải có hai hệ thống trường
học: Hệ thống giáo dục nhà trường và hệ thống giáo dục ngoài nhà trường
Giáo dục người lớn có vị trí rất quan trọng trong xã hội bởi thời gian,
không gian, hình thức tổ chức, cách thức học tập đa dạng và mềm dẻo hơn
nhiều so với thế hệ trẻ. Hiện nay, Thụy Điển và Nhật Bản tỷ lệ dân tham gia
giáo dục người lớn khoảng 50% số dân. Giáo dục người lớn là một xu thế mạnh
mẽ và lâu dài, do đó, nền giáo dục phải định hướng vào xã hội học tập
12
Để xây dựng chiến lược học tập suốt đời, nhiều quốc gia thường chú ý đến
những hành động ưu tiên sau:
Đánh giá việc học tập chính quy và không chính quy, thừa nhận các loại
chứng chỉ, bằng cấp ( tức là đánh giá sức học của con người).
Tăng cường các dịch vụ thông tin.
Hướng dẫn và tư vấn học tập.
Đầu tư tài chính và thời gian học tập ( chú ý đầu tư của tư nhân).
Gắn người học vào việc học.
Cải cách giáo dục.
3. Xây dựng xã hội học tập ở một số nước trên thế giới.
3. 1 Nước Mỹ: Ngày 4/2/1997, Bill Clinton, nói đến hiện đại hóa nền giáo dục
và mục tiêu học tập suốt đời và đề cao việc học để đạt trình độ học vấn cao, mở
rộng biên giới của việc học suốt đời để người Mỹ ở độ tuổi nào cũng có cơ hội
học tập, Clinton chủ trương mở rộng các cửa trường đại học cho tất cả người
Mỹ, yêu cầu khấu trừ thuế lên tới 10.000 USD/ năm cho toàn bộ học phí ở cao
đẳng và đại học đề mọi gia đình không phải đóng thuế đối với khoản tiền mà họ
tiết kiệm để dành đóng học phí cao đẳng và đại học.
Mục tiêu giáo dục mà Clinton đưa ra gồm 4 điểm:
- Mọi trẻ em 8 tuổi phải biết đọc.
- Mọi trẻ em 12 tuổi phải khai thác được dữ kiện trên mạng Internet.
13