TIỂU LUẬN XÃ HỘI HỌC VỀ GIỚI
Đ ề tài: Xã hội hoá vai trò giới trên một số phương tiện truyền
thông đại chúng.
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hoá vai trò giới không đến một cách tự nhiên mà nó là quá
trình con người học cách thích ứng với đặc điểm giới của cá nhân.
Truyền thông đại chúng từ lâu đã đóng vai trò là phương tiện xã hội hoá
cùng với gia đình và các nhóm đồng đẳng, làm nên vai trò giới. Trên các
phương tiện truyền thông đại chúng, các hình ảnh phản ánh sự khác biệt
giới là rất phổ biến. Do đó, truyền thông đại chúng thực hiện vai trò quan
trọng của mình trong việc gây dựng quan niệm về vai trò giới, góp phần
đem lại cho người xem những mô hình điển hình trong một thế giới rộng
lớn. Qua các phương tiện truyền thông đại chúng, con người, đặc biệt là
trẻ em học được các hành vi và thái độ được coi là phù hợp với một giới
tính nhất định. Bé trai học cách làm con trai, bé gái học cách làm bé gái.
Chính vì tầm quan trọng của vấn đề này, chúng tôi đã quyết định chọn
nghiên cứu đề tài này. Từ việc mô tả hình ảnh và vai trò của nam giới và
nữ giới trên các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình,
báo, tạp chí, chúng tôi muốn tìm hiểu sự ảnh hưởng của các mô tả nói
trên tới quá trình xã hội hoá vai trò giới trong xã hội.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn:
2.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này góp phần củng cố và phát triển các lý thuyết Xã hội học
chuyên biệt như: Xã hội học Giới, Xã hội học Gia đình, Xã hội học
Truyền thông đại chúng....
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất những giải pháp có giá trị tham khảo cho các nhà nghiên cứu
về Giới và các nhà Truyền thông trong việc nghiên cứu, tìm hiểu về quá
trình xã hội hoá vai trò giới, nhằm góp phần hướng tới một cách nhìn
bình đẳng hơn đối với vai trò của nam giới và nữ giới trên các phương
tiện truyền thông đại chúng.
3. Mục đích nghiên cứu
- Mô tả hình ảnh và vai trò của giới nam và giới nữ được biểu hiện trên
truyền hình, báo in, tạp chí.
- Tìm hiểu sự tác động của những hình ảnh, vai trò của nam và nữ thể
hiện trên truyền hình đến quá trình xã hội hoá vai trò giới của các cá
nhân.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xã hội hoá vai trò giới trên một số phương tiện truyền thông đại
chúng.
4.2. Khách thế nghiên cứu
Các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu: sách báo, tạp chí
khoa học và một số trang web.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích tài liệu.
5. Giả thuyết nghiên cứu
• Giả thuyết 1: Vai trò của đa số phụ nữ trên các phương tịên truyền
thông đại chúng đều bị hạn chế, họ thường được môt tả với vai trò là
người nội trợ hơn là trong những công việc xã hội.
• Giả thuyết 2 : Các phương tiện truỷền thông đại chúng có vai trò
quan trọng trong quá trình xã hội hoá vai trò giới, nhất là ở giai đoạn
vị thành niên.
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các lý thuyết áp dụng
1.1.1.1. Có 3 dạng lý thuyết giải thích cho sự xã hội hoá giới là lý thuyết
phân tích tâm lý, lý thuyết nhận thức xã hội và lý thuyết phát triển nhận
thức.
• Lý thuyết phân tích tâm lý của Freud tập trung vào sự quan sát của
trẻ em về các đặc tính sinh dục của chúng ( như nỗi lo sợ bị thiến
hay sự độ kỵ về kích thước dương vật). Lý thuyết này chưa được
củng cố bằng nhiều nghiên cứu thực nghiệm lắm.
• Các lý thuyết về nhận thức xã hội là các lý thuyết hành vi tin vào
việc củng cố và thiết lập sự giải thích hành vi – môi trường làm con
người thực hiện hành vi.
• Các lý thuyết về phát triển nhận thức thừa nhận rằng “ trẻ em học
về giới ( và các khuôn mẫu giới) thông qua nỗ lực tinh thần nhằm tổ
chức thế giới xã hội của chúng”
Một vấn đề với một số biến thể của lý thuyết này là giả thuyết rằng trẻ
em học về giới là bởi đó là khía cạnh tự nhiên của thế giới nhiều hơn là
bởi đó là khía cạnh quan trọng của thế giới xã hội.
Các nghiên cứu đã cho thấy rằng tầm quan trọng mà trẻ em đánh
giá giới còn phụ thuộc vào tầng lớp xã hội, chủng tộc, cấu trúc gia đình,
bản năng giới tính của cha mẹ...
Một cách tiếp cận theo hướng cấu trúc xã hội như của Bem và
Coltrane là một dạng của thuyết phát triển nhận thức.
Bem đã xác định 3 “thấu kính giới” chủ chốt ( các giả thuyết ẩn): sự phân
cực giới (đàn ông và đàn bà là khác nhau và sự khác biệt này một nguyên
tắc tổ chức trung tâm của cuộc sống xã hội), androcentrism (nam giới ưu
trội hơn nữ giới; kinh nghiệm nam giới là là tiêu chuẩn); và chủ nghĩa
thiên về những kiến giải sinh học ( hai thấu kính đầu tiên là do sự khác
biệt về sinh học giữa các giới tính).
Bà đưa ra sự thay thế thấu kính “sự khác biệt cá nhân” nhấn mạnh “sự
khác biệt đáng kể của các cá nhân trong các nhóm”
Một cách tiếp cận cấu trúc xã hội (của Bem và Coltrane) đã nhìn nhận sự
tiếp nhận đặc điểm về giới như sự đoán trước hoàn thiện nhân cách cá
nhân.
Luận điểm quan trọng nhất trong nghiên cứu về xã hội hoá giới là: bởi
vì các bé trai và bé gái được đối xử khác nhau và được đặt trong các môi
trường học tập khác nhau do đó chúng phát triển các nhu cầu, mong
muốn, ước vọng, kỹ năng và khí chất khác nhau; nói ngắn gọn là chúng
trở thành những kiểu mẫu con người khác nhau - đàn ông và đàn bà- mà
hầu như không bao giờ hỏi câu hỏi tại sao chúng lại khác nhau và vì đâu
chúng lại như thế...
Một vấn đề nữa là sự dự đoán hoàn thiện nhân cách cá nhân. Bởi mọi
người đều nghĩ rằng bé gái và bé trai là phải khác nhau nên họ đối xử với
chúng khác nhau và dành cho chúng cơ hội phát triển khác nhau. Sự đối
xử khác biệt này củng cố cho những hành vi và hình ảnh về bản thân tái
tạo nên những khuôn mẫu văn hoá mang tính định kiến về giới. Quá trình
này được lặp đi lặp lại và lưu truyền qua các thế hệ. do đó mặc dầu các
khuôn mẫu giới kuôn được tái tạo và biến hoá đi nhưng chúng vẫn có vẻ
như tự nhiên và dường như không thể nào thay đổi được. (Coltrane, p.
114)
Trẻ em học về giới và cách thể hiện giới bởi đó là trung tâm của cách
thức chúng ta tổ chức xã hội. Trẻ em học cách nghĩ và cách tồn tại một
cách văn hoá cũng như chúng theo những nghi lễ hàng ngày và trả lời lại
nhu cầu hàng ngày của thế giới mà chúng đang sống trong đó... Để được
công nhận là một thành viên của xã hội, chúng phải học cách thích ứng
với đặc điểm giới của cá nhân” (Coltrane, p. 114)
Xã hội hoá giới biến trẻ em thành các “thực thể văn hoá”, những
người biết thực tế văn hoá của mình mà không nhận ra rằng thực tế khác
cũng có thể được.
1.1.1.2. Lý thuyết chức năng về giới của Mirriam Johnson
Vị trí xã hội cơ bản của phụ nữ trong cấu trúc gia đình như là
nhà sản xuất chính của các chức năng cốt yếu (xã hội hoá trẻ con và tân
tạo về mặt tình cảm các thành viên trưởng thành của nó, các hoạt động
chủ yếu đối với sự cấu kết xã hội và sự tái sản xuất giá trị). Trong những
hoạt động đó người phụ nữ phải định hướng cách thể hiện tình cảm,
nghĩa là sự hoà hợp và sự phản ứng trong quan hệ có tính chất tình cảm.
Các chức năng của phụ nữ trong gia đình và định hướng về sự thể hiện
tình cảm ảnh hưởng tới các chức năng trong mọi cấu trúc xã hội khác của
họ, đặc biệt là kinh tế. Phụ nữ, ví dụ, được hướng tới các nghề nghiệp có
tính thể hiện tình cảm điển hình; còn trong các nghề nghiệp mà đàn ông
thống trị, họ được kì vọng có tính chất biểu cảm nhưng đồng thời bị
trừng phạt về định hướng này.
Các kìm hãm thể chế và văn hoá đòi hỏi phụ nữ phải yếu ớt và
phục tùng trong mối quan hệ với chồng của họ, người thông qua phương
tiện trung gian cạnh tranh trong nền kinh tế mang lại cho gia đình mình
sự an toàn ở cấp độ kinh tế. Nhìn nhận mẹ chúng trong vai trò “bà vợ yếu
đuối”, bọn trẻ học cách tôn sung chế độ gia trưởng và hạ thấp giá trị của
sự biểu cảm với ý nghĩa là một thái độ trong quan hệ đi ngược lại phương
tiện dường như mạnh mẽ và có giá trị hơn. Sự đánh giá tính chất phương
tiện của nam giới là có hiệu quả hơn tính biểu cảm của nữ giới được phổ
biến, lan rộng trong nền văn hoá.
1.1.1.2. Lý thuyết phân tích xung đột theo khía cạnh giới của Janet
Chafetz
Chafetz thăm dò các cấu trúc và điều kiện xã hội có ảnh hưởng
tới cường độ của sự phân tầng giới tính – hay các bất lợi cua rphụ nữ -
trong mọi xã hội và mọi nền văn hoá. Các cấu trúc và điều kiện này bao
gồm sự phân biệt giới tính về vai trò, ý thức hệ gia trưởng, gia đình và tổ
chức lao động, các điều kiện định khuôn như các khuôn mẫu sinh sản, sự
phân cách của các vị trí lao động và nội trợ, thặng dư kinh tế, tính phức
tạp về kỹ thuật, mật độ dân số và sự khắc nghiệt của môi trường - tất cả
được nhận thức như là các biến số. Sự tương tác giữa các biến số này
quyết định mức độ của sự phân tầng giới tính, vì chúng định khuôn các
cấu trúc chủ yếu của sự nội trợ và sự sản xuất kinh tế và mức độ mà các
phụ nữ di động giữa hai lĩnh vực này. Quan điểm của Chafetz là phụ nữ
chịu đựng sự bất lợii ở mức thấp nhất khi họ có thể cân bằng giữa các
trách nhiệm nội trợ với vai trò quan trọng và độc lập trong nền sản xuất
thị trường.
Nội trợ/gia đình được xem không phải là một lĩnh vực nằm ngoài lao
động, một khu vực của tình cảm và sự nuôi dưỡng, mà là một lĩnh vực
trong sự lao động diễn ra - sự chăm sóc trẻ, công việc nhà và đôi khi
cũng là lao động (như ở gia đình nông trại) mà đối với chúng có những
ban thưởng vật chất vượt khỏi phạm vi nội trợ. Sự tiếp nhận của phụ nữ
đối với các ban thưởng đó hoặc thông qua sự nội trợ hoặc thông qua sự
sản xuất thị trường trở thành sự giảm nhẹ các bất lợi xã hội và hình thái
của sự nội trợ là cấu trúc chủ yếu tạo điều kiện thuận lợi hay gây trở ngại
cho sự tiếp nhận này
1.1.2. Các khái niệm công cụ
1.1.2.1. Xã hội hoá (socialization)
• Xã hội hoá là quá trình thích ứng và cọ xát với các giá trị, chuẩn
mực và hình mẫu hành vi xã hội mà trong quá trình đó một thành
viên xã hội tiếp nhận và duy trì khả năng hoạt động xã hội . Xã hội
hóa nghiên cứu xem với tư cách là điều kiện và các yếu tố cấu
thành, cơ cấu và quá trình xã hội, văn hoá, kinh tế và sinh thái có
tác dụng bằng cách nào và ở mức độ nào đạt tới sự phát triển nhân
cách con người. ( Từ điển xã hội học )
• Xã hội hoá là quá trình mà trong đó cá nhân học cách thức hành
động tương ứng với vai trò của mình ( Neli Smelser ).
• Xã hội hoá là một quá trình tương tác giữa người này với người
khác , kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động và
thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó ( Fichter ) .
• Xã hội hoá là quá trình hai mặt. Một mặt cá nhân tiếp nhận kinh
nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ
thống các quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách
chủ động hệ thống các mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ
tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã
hội (Andreeva )
• Quá trình quá độ mà chúng ta có thể tiếp nhận được nền văn hoá
của xã hội mà trong đó chúng ta đã được sinh ra – quá trình mà
nhờ nó chúng ta đăt được những đặc trưng xã hội của bản thân, học
được cách suy nghĩ và ứng xử được coi là thích hợp trong xã hội
của chúng ta - được coi là quá trình xã hội hoá.
( Tony Bilton và các cộng sự “Nhập môn xã hội học”, tr27)
Mô hình 1: Quá trình xã hội hoá
(Nguồn:
journalid=7&issueid=57&articleid=700&action=article)
Mô hình 2: Môi trường xã hội hoá
(Nguồn:
/>1.1.2.2. Giới (gender)
• Khái niệm giới nói đến mô hình hành vi đặc hữu về mặt văn hoá
mà có thể gắn bó với giới tính.
Khái niệm giới không chỉ đề cập đến nam và nữ mà cả mối quan
hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan hệ này có sự phân biệt vai trò,
trách nhiệm, hành vi xã hội mong đợi và quy định cho mỗi giới, phù
hợp với những đặc điểm văn hoá, chính trị, kinh tế và tôn giáo. Do
vậy, nó luôn biến đổi theo thời gian và có sự khác biệt theo không
gian. ( Hoàng Bá Thịnh, 2005)
• Các đặc điểm về xã hội, liên quan đến vị trí, tiếng nói, công việc
của của phụ nữ và nam giới trong gia đình và xã hội được gọi là
giới. Đây là những đặc điểm có thể đổi chỗ cho nhau. Ví dụ: phụ
nữ có thể làm bộ trưởng quốc phòng, nam giới có thể làm người
nuôi dạy trẻ.
Giới không bất biến mà luôn thay đổi tuỳ theo sự biến đổi của
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, tập quán….. Ví dụ: địa vị xã hội
của phụ nữ hiện nay hoàn toàn khác so với thời phong kiến. Ngay
như ở thời nay, thì địa vị xã hội của phụ nữ nông thôn cũng không
hoàn toàn giống với phụ nữ thành thị. Vì vậy khi nói đến quan hệ giới
thì cần nói đến các đối tượng cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của họ.
( Nguồn: Bình đẳng giới và kỹ năng sống - Bộ tài liệu đào tạo dành
cho nữ và nam thanh niên Việt Nam)
1.1.2.3. Vai trò giới (gender role)
• Vai trò giới là một hệ thống chuẩn mực hành vi được đặc biệt quy
gán cho đàn ông và đàn bà trong một nhóm hay hệ thống xã hội
nhất định. Theo cách phân tích của khoa học xã hội, nó có thể là
một dạng của sự phân công lao động theo giới.
Giới là một thành phần của hệ thống giới/giới tính có liên quan
đến “hệ thống sắp xếp mà nhờ đó một xã hội chuyển giao bản năng
giới tính thành những sản phẩm của hoạt động con người” (Reiter
1975:159)
(Nguồn: Dịch từ )
• Vai trò giới là những công việc khác nhau mà phụ nữ và nam giới
thực tế đang làm. Những công việc này thường xuất phát từ sự
trông chờ/mong đợi của xã hội đối với mỗi giới. Ví dụ: phụ nữ làm
việc nhà, nam giới làm các công việc xã hội
Trong các xã hội nói chung, người phụ nữ thường phải đảm nhận
ba vai trò: (1) sinh sản và nuôi dưỡng, (2) sản xuất và (3) hoạt
động cộng đồng, trong khi đó nam giới thường chỉ phải đảm nhận
hai vai trò đó là sản xuất và các hoạt động quản lý tại cộng đồng
- Vai trò sinh sản và nuôi dưỡng: việc sinh sản và trách nhiệm
chăm sóc con cái, cũng như việc nội trợđược coi là công
việc của người phụ nữ. Đây là những công việc nhằm bảo
đảm sự duy trì và tái sản xuất sức lao động. Nó bao gồm
không chỉ tái sản xuất về sinh học mà còn về chăm sóc và
duy trì lực lượng lao động (những người đàn ông và con cái
ở độ tuổi lao động trong gia đình) và lực lượng lao động
trong tương lai (trẻ sơ sinh và trẻ em đang đi học)
- Vai trò sản xuất: cả nam giới và phụ nữ cùng gánh vác trách
nhiệm làm việc tạo thu nhập. Trong đó bao gồm cả sản xuất
kinh doanh để trao đổi và sản xuất nhằm phục vụ tiêu dùng
của gia đình.
- Vai trò hoạt động cộng đồng: những hoạt động này chủ yếu
do người phụ nữ đảm trách nhằm đảm bảo việc cung cấp và
duy trì những nguồn lực khan hiếm cho tiêu dùng của cộng
đồng như nước, chăm sóc sức khoẻ và giáo dục. Đây là
những công việc “tình nguyện” không được trả lương và
được thực hiện trong những thời gian “ rỗi”.
- Vai trò quản lý cộng đồng: các hoạt động này chủ yếu do
nam giới đảm nhiệm. Đây thường là những công việc được
trả lương, trực tiếp hoặc gián tiếp, tuỳ thuộc vào vị trí hoặc
quyền lực.
Việc thực hiện các vai trò: của nam và nữ có những khác biệt
như:
+ Nam giới : đảm nhận các vai trò điển hình của họ một
cách liên tục, chủ yếu tập trung vào vai trò sản xuất.
+ Nữ giới : thường xuyên phải đảm nhận đồng thời nhiều
vai trò, phải tự cân bằng các nhu cầu của bản thân và của cả gia
đình trong khoảng thời gian hạn hẹp của mình.
( Nguồn : Bình đẳng giới và kỹ năng sống - Bộ tài liệu đào tạo
dành cho nữ và nam thanh niên Việt Nam)
• Vai trò giới là một dạng vai trò xã hội, một hệ thống các khuôn
mẫu hành vi ( hoặc chuẩn mực) được mong đợi ở nam giới và phụ
nữ. Vai trò giới được hiểu như là sự chấp nhận những mệnh lệnh
xã hội rõ ràng, những hành vi tương ứng với một giới nhất định
được thể hiện bởi ngôn ngữ, cách xử sự, quần áo, cử chỉ..
( Nguồn: Dịch từ “Gender and mass media: Representation of
Women’s Images in television commercials”- Irina A Ilchenko
<translated by Olena Prykhodko>)
• Vai trò giới là những hành vi được học trong bất kỳ một cộng đồng
xã hội nào hay một nhóm mà quy định những hình động, nhiệm vụ
và trách nhiệm cho nam giới và phụ nữ. Vai trò giới bị chi phối bởi
độ tuổi, giai cấp, dân tộc, tín ngưỡng và bởi môi trường địa lý,
kinh tế, chính trị. Những thay đổi trong vai trò giới thường xảy ra
tương ứng với những thay đổi kinh tế, các điều kiện chính trị và tự
nhiên bao gồm cả những hoạt động phát triển.
( Nguồn: Kỷ yếu hội thảo giới - truyền thông và phát triển)
Mô hình 3: Chúng ta học về vai trò giới từ đâu ?
(Nguồn : Bình đẳng giới và kỹ năng sống - Bộ tài liệu đào tạo dành cho nữ
và nam thanh niên Việt Nam)
1.1.2.4. Xã hội hoá vai trò giới (gender socialization)
NHỮNG ĐIỀU
CHÚNG TA ĐƯỢC
HỌC ĐỂ TRỞ
THÀNH PHỤ NỮ
VÀ NAM GIỚI
HÀNG XÓM
HỌ HÀNG
ÔNG BÀ
CHA MẸ
BẠN BÈ
BÁO CHÍ
TRƯỜNG HỌC
CA DAO, NGẠN NGỮ
PHIM ẢNH
TIVI
SÁCH, TRUYỆN
CÁC THỂ
CHẾ XH
HỌC TỪ ĐÂU
Heslin (1999: 76) cho rằng “một phần quan trọng của xã hội hoá là
việc học tập cách thể hiện một cách văn hoá vai trò giới”
Do vậy, xã hội hoá vai trò giới chính là việc học các hành vi và thái
độ được coi là phù hợp với một giới tính nhất định. Các cậu bé học cách
làm các cậu bé và các cô bé học cách làm các cô bé.
Mô hình 4: Sự xã hội hoá vai trò giới
(Nguồn: />imgettlessons/socializationandyou/socializationandyou.html)
Việc học này xảy ra bởi nhiều kênh trung gian của quá trình xã hội
hoá như gia đình, bạn bè, trường học, công việc và truyền thông đại
chúng.
( Nguồn: Dịch từ )
Trong khuôn khổ nghiên cứu này chúng tôi chỉ đề cập đến sự xã
hội hoá vai trò giới trên một số phương tiện thông tin đại chúng như báo
in, truyền hình...
1.1.2.5. Truyền thông đại chúng:
• “Truyền thông đại chúng là những thiết chế sử dụng những phát
triển kỹ thuật ngày càng tinh vi của công nghệ để phục vụ sự giao
lưu tư tưởng, những mục đích thông tin, giải trí và thuyết phục tới
đông đảo khán thính giả, cho dầu bằng phương tiện báo chí, truyền
thanh, truyền hình, sách, tạp chí, quảng cáo hay bất cứ gì đó.”
(Nguồn: Tony Bilton và các công sự “Nhập môn xã hội học”, tr 381”)
• Truyền thông đại chúng là một cách truyền những tín hiệu bằng ra-
đi-ô, Internet, hay TV tới một đại chúng ("thính giả", "độc giả" hay
"khán giả"). Như vậy một đài trên Internet có thể phân bố văn hay
nhạc trên toàn thế giới, nhưng còn một hệ phát biểu trong (ví dụ)
một cơ sở có thể truyền âm thanh đặc biệt cho những người trong
phạm vi nhỏ.
( Nguồn: Từ điển wikipedia)
1.1.2.6. Giá trị giới
Là các ý tưởng mà mọi người nghĩ phụ nữ và nam giới nên như thế
nào và những hành động mà họ nên làm.
VD: Phụ nữ nên duyên dáng, nam giới nên dũng cảm, phụ nữ nên
nhường nhịn chồng con...
Các giá trị giới có liên quan chặt chẽ đến vai trò và trách nhiệm của
nam giới và nữ giới.
(Nguồn : Bình đẳng giới và kỹ năng sống - Bộ tài liệu đào tạo dành cho nữ và
nam thanh niên Việt Nam)
1.1.2.7. Định kiến giới
Là suy nghĩ của mọi người về những gì mà phụ nữ và nam giới có khả
năng làm và loại hoạt động họ có thể làm.
VD: Phụ nữ làm việc nhà tốt hơn nam giới, nam giới làm quản lý tốt
hơn phụ nữ...
(Nguồn : Bình đẳng giới và kỹ năng sống - Bộ tài liệu đào tạo dành cho nữ và
nam thanh niên Việt Nam)
1.2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Xã hội hoá vai trò giới trên các phương tiện truyền thông đại chúng
là một vấn đề nghiên cứu mới mẻ ở Việt Nam. Mặc dù vậy nó lại có
một nền tảng khá vững vàng bởi có những tác phẩm nghiên cứu về
giới và truyền hình, nhưng đa số là những nghiên cứu ở nước ngoài.
Qua quá trình tìm hiểu vấn đề nhóm báo cáo chúng tôi đã có dịp tiếp
cân với một số tác phẩm đề cập đến vấn đề giới, vai trò giới và truyền
thông:
+ Nghiên cứu mang tên “Television and gender roles”, Daniel
Chandler. Trong tác phẩm này, tác giả đã phân tích và đưa ra một số
số liệu cho thấy sự khác biệt trong việc mô tả giới nam và nữ trên
truyền hình và phần nào ông khẳng định vai trò của truyền hình trong
việc hình thành và củng cố nên những khuôn mẫu vai trò giới cho trẻ
em.
+ Nghiên cứu mang tên “Media and the gender”, John K.
Simmons, 2002. Tác phẩm nêu lên các số liệu và một số đặc điểm của
nam giới và nữ giới trên truyền hình, chân dung của nhà truyền thông
theo góc độ giới.
Ngoài ra, nhóm tác giả còn thao khảo một số tạp chí khoa học, các
trang web có đề cập tới vấn đề giới, vai trò giới, xã hội hoá vai trò
giới.
Chương 2: Xã hội hoá vai trò giới trên một số phương
tiện truyền thông đại chúng
2.1. Sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng
Phương tiện thông tin đại chúng phải thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ:
Truyền bá các chính sách của chính phủ, thông tin và giải thích về các chính
sách cho người dân; đồng thời đóng vai trò như cơ quan ngôn luận của dân,
phản ánh những vấn đề mà nhân dân; đặc biệt là tầng lớp phụ nữ đang phải
đối mặt, nói lên những ý kiến, đóng gớp của họ, kết nữa dân và chính phủ
trong việc tìm ra những giải pháp có lợi cho cả hai bên.
Phương tiện thông tin đại chúng có vai trò rất quan trọng trong việc
đưa người dân, nhất là người phụ nữ tham gia vào những quyết định quan
trọng của quốc gia thông qua các cuộc phỏng vấn, hỏi ý kiến họ về những
vấn đề mà cả xã hội đang quan tâm. Phụ nữ cũng nên được khuyến khích
tham gia vào công việc phóng viên bởi vì hơn ai hết họ có thể hiểu được
những vấn đề, những khó khăn mà những người cùng giới với họ gặp phải.
Hơn nữa phụ nữ sẽ cảm thấy thoải mái và cởi mở hơn khi trò truyện với
người cùng giới, họ cũng sẽ cảm thấy tự hào đi theo những tấm gương của
các nữ phóng viên, những người mà họ cho là dũng cảm và đầy tài năng đi
khắp mọi nơi để gặp gỡ, phỏng vấn, nói chuyện với những người thuộc các
tầng lớp xã hội khác nhau.
Các hãng truyền thông phải hết sức nỗ lực kêu gọi, thuyết phục chính
phủ quan tâm đến số phận của người phụ nữ bằng cách đem lại cho họ
những sự giúp đỡ về nhiều mặt để họ có thể đứng trên đôi chân cua rmình,
tự tin thực hiện các nhiệm vụ đối với gia đình, cộng đồng, xã hội. Báo chí,
truyền hình, phải dũng cảm lên án tất cả những hành động, việc làm xấu xa
chống lại phụ nữ của các quan chức cao cấp.
Ngoài việc khai thác lợi ích do sự ra đời của công nghệ mới và quá
trình toàn cầu hoá mang lại, các phương tiện thông tin đại chúng phải biết sử
dụng những thuận lợi đó sao cho có ích cho đất nước nói chung và cho
người phụ nữ nói riêng, đồng thời đem công nghệ mới, kiến thức mới, cách
thức làm việc tới cho người phụ nữ để họ có đủ khả năng, năng lực tham gia
một cách bình đẳng vào xã hội.
Phương tiện thông tin đại chúng phải xác định được những lĩnh vực
hay nơi cần tới sự giúp đỡ, hỗ trợ trong nước và quốc tế, biết được những sự
đầu tư có khả năng đem lại lợi ích cho cả hai bên, chỉ ra cho các nhà kinh
doanh, đầu tư, những nhà tài trợ cách làm việc hay khởi đầu các dự án của
họ.
Giáo dục và thông tin phải được đưa tới cho người dân để họ có thể đối
mặt với bất cứ sự thay đổi hay khó khăn thử thách nào.
Truyền thông đại chúng còn có sức mạnh đặc biệt trong việc xã hội
hoá nói chung và xã hôi hoá vai trò giới nói riêng do loài người ngày nay,
trong thời đại thông tin ngày càng có xu hướng tiếp nhiều với các phương
tiện truyền thông đại chúng.
Nghiên cứu của giáo sư người Mỹ John K.Simmons, khoa Tâm lý học
và nghiên cứu tôn giáo, trường Đại học Western Illinois mang tên “Media