Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tiểu luận: Quan niệm về vốn nhân lực và thương mại hóa giáo dục pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.11 KB, 11 trang )

-1-

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM








TRẦN HUY CƯỜNG






QUAN NIỆM VỀ VỐN NHÂN LỰC VÀ
THƯƠNG MẠI HÓA GIÁO DỤC
(TIỂU LUẬN MÔN HỌC “KINH TẾ HỌC GIÁO DỤC”)



















TP. HCM - 2006
-2-

PHẦN 1

“QUAN NIỆM VỀ VỐN NHÂN LỰC (HUMAN CAPITAL) VÀ
PHÁT TRIỂN NGƯỜI. VAI TRÒ CỦA VỐN NHÂN LỰC VÀ VỐN XÃ
HỘI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI. BẠN SUY NGHĨ GÌ VỀ
VỐN NHÂN LỰC CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY.”
Khi nói đến nguồn lực con người các nhà kinh tế thường hiểu đó là nguồn
nhân lực (Human Resources) được xem xét dưới 2 góc độ : Năng lực xã hội và tính
năng động xã hội của con người. Năng lực xã hội bao hàm tổng hòa về thể lực, trí
lực, nhân cách của con người (lao động) của một quốc gia, đáp ứng với một cơ cấu
nhất định của con người do nền kinh tế - xã hội đòi hỏi. Nguồn nhân lực là ở trạng
thái tĩnh, mặc dù nguồn nhân lực ln ln được phát triển. Nguồn nhân lực đó phải
được chuyển sang trạng thái động, tức là được phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu
quả, nghĩa là, phải làm thế nào để chuyển nguồn lực con người dưới dạng tiềm năng
đó thành “Vốn con người, vốn nhân lực” (Human Capital).
1


Khái niệm vốn con người (Human Capital) đã được kinh tế gia Adam Smith
đề cập đến trong tác phẩm The Wealth of Nations, vào cuối thế kỷ 18. Lý thuyết vốn
con người được Gary Becker, giáo sư ðại học Chicago, giải Nobel kinh tế 1992,
khai triển vào năm 1962. Vốn con người được định nghĩa như tập hợp những năng
lực sản xuất mà một cá nhân thu được nhờ tích luỹ những hiểu biết tổng qt hay
đặc thù, những kỹ năng và sự thành thạo, v.v Khái niệm “vốn” diễn tả ý niệm một
dự trữ phi vật thể quy cho một người, có thể tích luỹ và hao mòn.
2

Cung lao động của con người khơng chỉ đơn thuần là việc góp mặt trên thị
trường lao động mà còn bao gồm các kỹ năng. Những kỹ năng này con người thu
được từ khả năng bẩm sinh của mình, những gì con người được đào tạo và kinh
nghiệm bạn đã trải qua. Vốn con người có được từ giáo dục và đào tạo nghề (dạy
trực tiếp hay vừa làm vừa học). ðầu tư vào vốn con người là bất kỳ nguồn lực nào
(bao gồm cả thời gian) dành để nâng cao năng suất làm việc của con người trong đó
bao gồm cả việc đầu tư vào sức khỏe.
Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (World Trade
Organization = WTO) vừa là một cơ hội, nhưng đồng thời cũng vừa phải đối diện
với những thách thức thời đại của mơ thức “Văn Hóa Kinh Tế Thị Trường”.
Khi nói về vốn liếng, người ta thường nghĩ ngay đến những giá trị vật chất cụ
thể mà người sở hữu có thể nhìn thấy, cất giữ hay cân, đo, đong, đếm được. Còn
những giá trị phi vật thể, đặc biệt là những giá trị tinh thần tạo nên bản sắc đặc thù
của một quốc gia, một xã hội, một dòng họ hay một con người được coi như những
“bẩm tính trời sinh”, bị chìm khuất sau biên cương và hào lũy truyền đời của lịch sử
và văn hóa.
3



1

Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI, Hà Nội, 2004 – Trang 1.
2

3

-3-

Từ trong nếp nghĩ theo thói quen và cảm tính, Vốn xã hội thường bị xem hay
ñược xem là một hệ thống giá trị mặc nhiên, mỗi người sinh ra là ñã có nó như khí
trời, thiên nhiên cây cỏ. Thật ra, nguồn vốn to lớn và quan trọng bậc nhất là Vốn xã
hội. Trong cụm từ “Vốn xã hội” ñã ngầm chứa hai thành tố là: Vốn (capital) + Xã
Hội (social). Nói một cách cụ thể hơn về Vốn Xã Hội, Cohen và Prusak (2001) ñịnh
nghĩa: “Vốn xã hội bao gồm phần lớn sự hợp tác xây dựng giữa những con người
với nhau: Sự tin tưởng, sự hiểu biết lẫn nhau, và sự chia sẻ những giá trị ñạo ñức,
phong cách nối kết những thành viên trong các tập ñoàn, các cộng ñồng lại với nhau
làm cho việc phối hợp hành ñộng có khả năng thực hiện ñược”.
Vấn ñề Vốn xã hội ñã ñược nhắc nhở, nghiên cứu, phát triển và áp dụng một
cách có hệ thống và rộng khắp trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, xã hội, tâm lý…
tại Mỹ, các nước phương Tây và các quốc gia kỹ nghệ trên toàn thế giới. Năm 1961,
Jane Jacob phân tích và thảo luận về vốn xã hội trong mối tương quan của ñời sống
ở thành phố. Năm 1983, Pierre Bourdieu soạn hẳn ra một lý thuyết riêng về Vốn xã
hội. James S. Coleman phát triển lý thuyết thành một nội dung giáo dục về nguồn
Vốn xã hội. Ý tưởng nầy ñã ñược một tổ chức tài chính lớn nhất hành tinh là Ngân
Hàng Thế Giới sử dụng như một ý kiến rất hữu ích về mặt tổ chức. Ngân Hàng Thế
Giới xác ñịnh rằng: “ Bằng chứng mỗi ngày một nhiều chỉ rõ rằng, sự liên kết xã hội
là rất thiết yếu cho các xã hội trong việc làm giàu mạnh kinh tế và cho việc phát
triển tiến lên không ngừng”.
Trong khi Vốn vật chất (physical capital) nói ñến các vật thể hiện hữu và Vốn
nhân sinh (human capital) nói ñến tài sản cá nhân thì Vốn xã hội nói ñến liên hệ nối
kết giữa những con người. ðấy là mạng lưới xã hội với những tiêu chuẩn giao dịch

qua lại trong sự tin tưởng lẫn nhau và ñồng thời ñó cũng là ñạo lý cư xử giữa người
và người trong xã hội. Theo ñịnh nghĩa của Ngân Hàng Thế Giới thì Vốn xã hội là
những gì liên quan ñến các cơ sở, các mối quan hệ và những giá trị truyền thống.
Tất cả cùng hợp sức tạo nên chất lượng và số lượng của thành phẩm làm nên bởi sự
tương giao hợp tác trong xã hội… Vốn xã hội không phải chỉ ñơn thuần là sự tổng
hợp những khối lượng vật chất của xã hội mà là chất keo làm dính chặt những khối
lượng tài sản xã hội nầy lại với nhau.
Như vậy, Vốn xã hội chính là con người. Trong khi con người lại chính là sản
phẩm của một hoàn cảnh xã hội hiện hữu và phát triển trong một hoàn cảnh kinh tế,
một bối cảnh lịch sử, một truyền thống văn hóa cụ thể nào ñó.
Ngày 24 tháng 4 năm 2006 vừa qua, Bill Gates, chủ nhân công ty Microsoft và
cũng là người giàu nhất thế giới với gia tài xấp xỉ 53 tỷ ñô la Mỹ, ñến thăm Việt
Nam. Nhân vật nầy ñã ñược giới trẻ Việt Nam cả nước ñặc biệt quan tâm theo dõi.
ðã có người tự hỏi: “Nếu Bill Gates sinh ra tại Việt Nam hay một nơi nào ñó không
phải là Mỹ thì liệu một ‘Bill Gates hạt giống’ có khả năng trở thành một Bill Gates
thành công lẫy lừng như hôm nay không? Tuy ñây chỉ là câu hỏi giả ñịnh, nhưng
câu trả lời dĩ nhiên là “không!” và câu hỏi tiếp sẽ là “Tại sao?” Câu trả lời ñơn giản
nhất sẽ là: “Vì Mỹ khác, ta khác. Mỹ có nhiều phương tiện kinh doanh và ñiều kiện
thuận lợi nghiên cứu kỹ thuật và tham khảo thị trường mà ta không có ” Thế thì có
người lại hỏi, một nhân vật Mỹ nổi tiếng khác cũng ñã ñến thăm Việt Nam, cựu
tổng thống Mỹ Bill Clinton, có một người em trai cùng cha khác mẹ, lớn lên trong
cùng một mái ấm gia ñình, suýt soát tuổi nhau là Roger Clinton lại trở thành một
-4-

tay lêu lổng, bị tù tội vì ghiền xì ke, ma túy. Như vậy có hai Clintons trái ngược
nhau trong cùng một hoàn cảnh. Clinton anh là vốn xã hội ñáng quý và Clinton em
là cục nợ xã hội ñáng thương hại.
Trên ñây là thí dụ cụ thể về mối tương quan và sự tác ñộng qua lại giữa con
người và hoàn cảnh. ðây là cả một sự tương tác về cả ba mặt: Vật chất, tinh thần,
hoàn cảnh riêng, chung. Bởi vậy, phương pháp luận cũng như dữ kiện về các mặt

nhân sinh và môi trường xã hội thường là những ñối tượng rất phức tạp trong việc
ño lường hay phân tích Nguồn vốn xã hội.
Các nhà nghiên cứu phải lưu ý ñến ba ñịnh mức của Vốn xã hội: (1) Mức ñộ
Vốn xã hội vi mô (micro-level social capital), (2) Mức ñộ Vốn xã hội trung mô
(Meso-level social capital), và (3) Mức ñộ Vốn xã hội vĩ mô (macro-level social
capital). Ba ñịnh mức nầy liên quan ñến: (1) Cá nhân, (2) Gia ñình, trường học, cơ
quan, ñoàn thể, xí nghiệp, và (3) Xã hội, ñất nước và toàn cầu. Mối liên hệ hữu cơ
là: (1) Nếu cá nhân không ñược chuẩn bị kỹ càng; (2) Nếu nghiệp vụ không ñược
ñào tạo, huấn luyện nghiêm túc; (3) Kết quả sẽ tạo ra là những thành viên xã hội có
chất lượng nghèo nàn và hệ quả tất yếu là sẽ làm cho nguồn vốn xã hội suy thoái
hay khánh tận.
Công trình nghiên cứu về Vốn xã hội gần ñây nhất của Robert D. Putnam
(1993; 2000) nhấn mạnh về sự hợp tác hai chiều và nhiều chiều của các thành viên
trong xã hội. Ông cho rằng sự hợp tác và chia sẻ giữa các thành viên xã hội với
nhau là yếu tố quan trọng hàng ñầu trong việc xây dựng vốn xã hội. Từ ñó, Putnam
cũng báo ñộng nguy cơ về sự xuống dốc của nguồn vốn xã hội tại Mỹ. Nguyên nhân
chính là vì chủ nghĩa cá nhân (individualism) ngày một chiếm thế mạnh và trẻ em
chỉ sống với cha hay mẹ một mình do tình trạng ly dị gia tăng làm cho tinh thần hợp
tác xã hội yếu dần.
Từ ñó, nhìn lại Vốn xã hội Việt Nam, cảm nhận tức thời trước khi ñưa lên bàn
cân tính toán là nước ta và dân ta có một nguồn vốn xã hội phong phú ñược tích lũy
qua “bốn nghìn năm văn hiến”. Nếu ñem các tiêu chí ñiển hình nhất của khái niệm
vốn xã hội cơ bản như truyền thống ñạo lý, phong cách xử sự hợp tác làm ăn
nghiêm túc, ñáng tin cậy, giàu tinh thần hợp tác và chia sẻ, có tay nghề vững vàng
trong lĩnh vực chuyên môn… thì ñất nước và con người Việt Nam xưa nay không
thiếu. Nguồn vốn xã hội Việt Nam, do ñó, sẽ rất nhiều. Nếu không có nguồn vốn xã
hội giàu có làm căn bản cho sự sống còn và vươn lên của ñất nước và con người
Việt Nam thì có lẽ nước Việt Nam ñã bị ñồng hóa hay biến mất giữa những thế lực
xâm lăng cường bạo ñến từ mọi phía trong những nghìn năm qua. Nhưng nếu xin
tạm gác lại niềm tự hào dân tộc ñể nhìn vào thực tiễn cuộc sống của dân ta trong

dòng sinh mệnh của ñất nước và trong bối cảnh lịch sử thế giới thì ta thấy ñược
những gì?
Nguồn vốn quan trọng ñó bây giờ ñang phong phú, cạn kiệt hay vẫn còn dự
trữ tràn ñầy dưới dạng tiềm năng? Ba mươi năm qua sống dưới chế ñộ mới, không
còn chiến tranh, không còn phân chia Nam Bắc… nguồn vốn xã hội Việt Nam ñang
ở mức ñộ nào? Theo Russel Landsfield (2002), các tiêu chí “quan sát tạm thời” ñể
nhìn vào mức ñộ Nguồn vốn xã hội của một xã hội là : (1) Thái ñộ xử thế công cộng
(public behavior), (2) Sự ñáng tin cậy trong quan hệ mua bán ñổi chác hàng ngày
-5-

(trustworthiness in daily exchange and business), (3) Niềm tin trong sự tương tác
giữa quần chúng và lãnh ñạo (mutual trust between authority and people), (4) Trật
tự và an ninh công cộng (order and safety in public). Ví thử có một người như
Russel mới ñến Việt Nam lần ñầu, anh ta dùng những “thang ñiểm” vừa nêu ñể
“quan sát tạm thời” xã hội Việt Nam thì người ñó sẽ thấy nguồn vốn xã hội Việt
Nam hiện nay ñang ở vào mức ñộ nào?
Căn bản ñể tạo ra nguồn vốn xã hội là con người. Phẩm chất của con người
Việt Nam không thua sút bất cứ dân tộc nào trong cùng hoàn cảnh ñịa dư và lịch sử.
Trong những trường ñại học Mỹ mà người viết bài nầy có dịp giảng dạy, sự thể hiện
rất rõ ràng là sinh viên Việt Nam, thuộc cả hai thế hệ trẻ từ quê nhà sang du học hay
sinh ra và lớn lên tại Mỹ ñều không thua kém mảy may sinh viên của bất cứ nước
nào, nhất là ñối với sinh viên châu Á như Nhật, Trung Quốc, ðại Hàn, Singapore…
Thế nhưng trong thực tế ñất nước, về mặt chuyên môn và khả năng khai phá, sáng
tạo trong khoa học, kỹ thuật ñể tạo ra những sản phẩm kỹ nghệ hiện ñại, chúng ta
vẫn còn bị giới hạn và tụt hậu so với họ? Vốn xã hội hiện nay của ñất nước ta có ñủ
phẩm chất và lượng dự trữ ñể ñáp ứng ñược nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị
trường hay không? ðấy vẫn còn là những vấn ñề cần ñược nghiên cứu một cách
khách quan và khoa học mới có thể tìm ra câu trả lời thích ñáng.
Vốn xã hội là một khái niệm tương ñối còn mới mẽ trong sinh hoạt kinh tế
ñậm tính truyền thống và kế thừa của người Việt chúng ta. Khi nói về nguồn vốn,

người ta quen nói ñến nguồn vốn vật chất hữu hình và cụ thể (tangible). Còn Nguồn
vốn xã hội là một giá trị phi vật thể (intangible) nên người ta mơ hồ thấy nó “ở ñâu
ñó” qua những biểu hiện “tài năng” cá nhân có tính chất tiểu xảo và tiểu thương
theo kiểu: “nói dẽo quẹo như mẹo con buôn…”! Lenkowsky (2000) ñã chứng minh
rằng xã hội càng kém phát triển, sức mạnh kinh tế càng yếu thì nguồn vốn xã hội
càng dễ bị quên lãng. Nguồn vốn xã hội là một tiến trình hình thành và ñầu tư lâu
dài chứ không xuất hiện cụ thể và nhanh chóng trong ñời sống như “mì ăn liền”.
Tuy nhiên, Putnam cũng ñưa ra một “kính chiếu yêu” ñể nhìn vào và nhận biết
những vùng ñang có nguồn vốn xã hội cao hơn… khi “những nơi công cộng sạch sẽ
hơn, con người thân thiện, ñáng tin cậy hơn, và ñường sá an toàn hơn.
Sự phát triển kinh tế thường ñi song song với sự cải thiện ñời sống về mặt vật
chất. Nhưng một vùng ñất nào ñó rất giàu có về vật chất thuần túy mà thiếu vắng
vốn xã hội. Nghĩa là thiếu ñi chiều sâu văn hóa và chiều cao nhân văn thì ñấy cũng
chỉ là một hình thức phồn vinh thô thiển mà người xưa gọi là “trọc phú” (thanh bần
hơn trọc phú) hay theo mắt nhìn của quần chúng bình dân là “giàu mà không sang”.
Hình ảnh của những vùng ñất giàu vốn vật chất mà nghèo vốn xã hội thường xuất
hiện trong những vùng kinh tế “nước nổi”. Nếu có dịp ghé ñến những vùng kinh tế
quanh các khu quân sự, hầm mõ hay hảng xưởng khai thác kinh doanh tạm thời ở
Phi Luật Tân, Panama, Trung ñông, Nam Phi… sẽ thấy rõ hình ảnh “giàu mà không
sang” nầy xuất hiện nhan nhản. Theo Sennett, R. (1998) thì “Dấu hiệu báo ñộng ñầu
tiên của sự suy thoái nguồn vốn xã hội là số người phát giàu mà không làm gì cả
hay kiếm lợi bất chính một cách công khai càng lúc càng ñông và khoảng cách giữa
những người nghèo lương thiện và những người giàu gian manh mỗi ngày một lớn”.
Các nhà nghiên cứu về nguồn vốn xã hội trong tương quan kinh tế ñều ñồng ý
với nhau rằng, một nền kinh tế lành mạnh trong một ñất nước có kỷ cương và văn
-6-

hiến khơng thể nào thiếu vắng nguồn vốn xã hội. Friedland (2003) đã nêu dẫn
trường hợp các nước châu Mỹ La Tinh và sự èo uột của vốn xã hội. Giới lãnh đạo
và thân hào nhân sĩ trong vùng thường vinh danh tinh thần địa phương và lòng tự

hào nhân chủng một cách q bảo thủ và cực đoan đến độ lơ là khơng quan tâm
đúng mức đến sự vun đúc, ni dưỡng và phát triển nguồn vốn xã hội. Hậu quả là
sự thiếu hợp tác giữa những thành viên xã hội và các thế lực đầu tư đã đưa đến quan
hệ một chiều và dẫn đến chỗ vốn xã hội bị phá sản. Các nhà kinh doanh đầu tư nản
lòng lui bước. Thay vì hợp tác song phương trong tinh thần ngay thẳng, bình đẳng
và danh dự thì lại biến tướng thành quan hệ “đút” (bribe) và “đớp” (being bribed)
trong mối quan hệ của hối lộ và tham nhũng. Kết quả là hơn một thế kỷ qua, các
nước nghèo vẫn nghèo. Dân chúng vẫn lầm than; nền kinh tế các nước trong vùng
rất giàu tài ngun nhưng vẫn kiệt quệ vì giới tài phiệt sử dụng nhân lực và tài
ngun đất nước để làm giàu cho riêng cá nhân, gia đình và dòng họ của mình rồi
tìm cách chuyển tiền của và gửi con cháu của mình ra nước ngồi du học và lập
nghiệp.
Kẻ thù dai dẳng nhất của q trình tích lũy, phát triển Nguồn vốn xã hội là
tham nhũng. Bởi vậy, Vốn xã hội và tham nhũng có mối quan hệ nghịch chiều với
nhau: Nạn tham nhũng càng bành trướng, vốn xã hội càng co lại. Khi tham nhũng
trở thành “đạo hành xử” hàng ngày thì cũng là lúc vốn xã hội đang trên đà phá sản.
Nếu chỉ có ánh sáng mới có khả năng qt sạch hay đuổi dần bóng tối thì cũng
tương tự như thế, Vốn xã hội được tích lũy càng cao, nạn tham nhũng càng có hy
vọng bị đẩy lùi dần vào q khứ. Thử nhìn lại Vốn xã hội Việt Nam trong tương
quan nguồn vốn xã hội của thế giới, chúng ta mới thấy rõ được đâu là thế mạnh và
thế yếu của mình. Nhìn rõ mình khơng phải để thỏa mãn hay nản lòng dễ dãi nhất
thời mà để cầu tiến bộ; để sửa đổi và điều chỉnh kịp thời trước sự đòi hỏi như một
xu thế tất yếu của thời đại tồn cầu hóa. Sẽ khơng bao giờ muộn màng, cũng như
chẳng bao giờ q sớm để gây vốn xã hội, vì vốn xã hội là xương sống của đời sống
kinh tế và nhân văn cho đất nước hơm nay và cho thế hệ mai sau.
Giáo sư Phạm Tất Dong đã nhận định “Chất lượng giáo dục, cả ở hệ phổ thơng
lẫn hệ đại học của nước ta là một vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Những cuộc
tranh luận kéo dài về tình hình giáo dục trên báo chí nhiều tháng qua thường tập
trung vào đánh giá, phê bình tình trạng kém chất lượng giáo dục. Vấn đề này q
lớn, đòi hỏi phải có sự phối hợp nghiên cứu liên ngành giáo dục học, tâm lý học,

kinh tế học…
1







1
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, TOÀN CẦU HÓA VÀ SỰ HỘI NHẬP CỦA GIÁO DỤC, 2005 – trang 13

-7-

PHAÀN 2

“TRONG CUỘC THẢO LUẬN HIỆN NAY, CÓ Ý KIẾN CHO RẰNG
GIÁO DỤC CŨNG LÀ MỘT LOẠI HÀNG HÓA, HOẶC CẦN THƯƠNG
MẠI HÓA GIÁO DỤC ? BẠN CÓ TÁN THÀNH KHÔNG ?”

Thời gian gần ñây trong nước ñã nảy ra nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn
ñề giáo dục là hàng hóa, mà thực chất là thị trường hóa, thương mại hóa giáo
dục. Trước ñây ñã có một thời rộ lên chuyện kinh tế tri thức, ñược chào ñón như cơ
hội nghìn vàng ñể ñi tắt ñón ñầu, ñưa ñất nước mau chóng vươn lên giàu có, thịnh
vượng, nhưng rồi, sau những rạo rực ban ñầu và nhiều mơ mộng trên mây, khi trở
về thực tại, mọi sự lại lắng xuống, im ắng một cách dễ sợ, mặc cho giáo dục, khoa
học là những thứ cốt tử trong kinh tế tri thức cứ tụt hậu dài dài. Nay lại ñến lượt
chuyện tự do hóa giáo dục ñại học ñược coi như phép màu có khả năng cứu nền ñại
học của ta giống như “khoán mười” ñã cứu nông nghiệp trước ñây vậy. Dù hưởng
ứng hay phản ñối ý kiến này cũng nên thấy ñây là vấn ñề hệ trọng, không thể dựa

theo cảm tính hời hợt ñể xét ñoán mà cần bình tĩnh, xem xét nhiều mặt một cách
nghiêm túc mới có thể có quyết sách ñúng ñắn, thích hợp.
1

Trong khi ở nước ta giáo dục ñại học ì ạch từng bước nhọc nhằn, thì khắp nơi
trên thế giới các ñại học ñang trải qua những biến ñộng sâu sắc chưa từng có ñể
thích ứng với toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế quyết liệt.
Cộng ñồng Châu Âu, Nhật bản, và ngay cả một vài nước ASEAN, ñang nỗ lực
cải tổ GDðH nhằm tăng hiệu quả hoạt ñộng của các ñại học, gắn kết ñại học chặt
chẽ hơn với doanh nghiệp, trao quyền tự chủ rộng rãi và tự chịu trách nhiệm cho các
ñại học. Các nước trong Cộng ñồng Châu Âu tổ chức lại nền ñại học của họ theo
những nguyên tắc ñã thống nhất trong tuyên bố chung Bologna năm 1999 (chẳng
hạn, tổ chức lại ñại học theo khung 3-5-8 cho tương ñồng với ñại học Mỹ). Bên
cạnh những trường bình thường, người ta ñặt trọng tâm xây dựng những trung tâm
xuất sắc, nhằm tăng uy tín và sức hút ñể cạnh tranh với các ñại học Mỹ và giảm bớt,
tiến ñến chấm dứt dòng chảy chất xám sang Mỹ. Theo hướng ñưa các phương pháp
quản lý trong khu vực doanh nghịệp tư nhân vào khu vực giáo dục ñại học, các ñại
học ñược tăng quyền tự trị về mọi mặt, kể cả về tài chính và nhân sự, ñể hoạt ñộng
gần như một doanh nghiệp, tuy vẫn do Nhà nước cấp kinh phí nhưng có thể tự tìm
thêm những nguồn tài chính bổ sung khác mhằm buộc các ñại học muốn tồn tại và
phát triển phải quan tâm nhiều hơn nữa ñến hiệu quả và chất lượng.
Ở Châu Âu rất ít ñại học tư. Ở Nhật và Mỹ ñại học tư nhiều hơn, nhưng ỏ Mỹ
cũng chỉ chiếm khoảng 23% (về số sinh viên). Hầu hết các ñại học tư ở các nước
ñều là tổ chức vô vị lợi (non-profit), không có cổ phần, không mưu tìm lợi nhuận,
cho nên cũng ñược Nhà Nước cấp một phần kinh phí. Dĩ nhiên họ ñược tự chủ hoàn
toàn, như vậy, sau khi cải tổ, các ñại học công sẽ chỉ còn khác các ñại học tư chủ
yếu ở chỗ vẫn do Nhà Nước quản lý, dù sự quản lý này ñã ñược nới lỏng rất nhiều
(như Hiệu trưởng vẫn do chính quyền bổ nhiệm). Vì thế cũng có khi sự cải tổ này

1


-8-

ñược gọi là tư thục hóa (privatisation), hay nửa tư thục hóa (semiprivatisation), dù
không hề có chuyện cổ phần hóa hay bán lại các ñại học công cho tư nhân. Ở Mỹ,
xu thế tư thục hóa kiểu ñó cũng ñã bắt ñầu: năm 2004, ñã có vài ñại học công lâu
ñời (như ñại học Virginia, ñại học William and Mary, Virginia Tech) xin hưởng quy
chế tự trị giống như ñại học tư, và ñể ñổi lại họ chịu rút bớt kinh phí tài trợ của Nhà
Nước.
Do ñâu có trào lưu tự do hóa giáo dục ? Có mấy nguyên nhân dẫn ñến trào lưu
này : 1. Sự gia tăng mạnh số sinh viên ñại học, khiến các ñại học từ chỗ chỉ dành
cho số ít ñã chuyển thành cho số ñông. ðối mặt với sự bùng nổ qui mô ñó, khả năng
tài trợ của Nhà Nước ngày càng bị hạn chế, trong khi chi phí giáo dục ñại học lại
không ngừng tăng, buộc Nhà Nước phải tăng quyền tự chủ của các ñại học công,
cho phép họ tự tìm thêm mọi nguồn tăng thu, kể cả bằng cách xuất khẩu hay thu hút
sinh viên ngoại quốc; 2. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin và xu thế kinh tế tri
thức làm gia tăng nhu cầu tri thức cùng với khả năng mua bán tri thức qua mạng, và
nhiều phương tiện ñiện tử khác, mở ñường cho xu thế thương mại hóa một bộ phận
giáo dục; 3. Song tác ñộng quyết ñịnh là vai trò của các tổ chức quốc tế như WB,
IMF, WTO, OCDE, trong khung cảnh toàn cầu hóa. Quá trình xác ñịnh lại
(redefinition) sứ mệnh ñại học khởi sự từ ñầu thập niên 90 thế kỷ trước, ñã dần dần
phát triển thành những quan nịêm nền tảng cho các cải cách hiện nay. Trong công
cuộc ñó, các tổ chức quốc tế nói trên ñã ñóng vai trò ñầu tàu khởi xướng, mặc dù
không phải là những tổ chức có nhiệm vụ trực tiếp với giáo dục. Hầu hết các kế
hoạch cải cách GDðH hiện ñang thực thi ñều ñã ñược vạch ra trong các khuyến cáo
của các tổ chức nói trên cho các nước thành viên. Chẳng hạn, WTO ñã chủ trì các
cuộc bàn thảo về giáo dục là hàng hóa và dịch vụ mua bán ñược (tradable) và ký kết
thỏa ước chung về trao ñổi thương mại các dich vụ (GATS, General Agreement on
Trade in Services). ðiều ñáng chú ý là giáo dục là khu vực mà các thành viên WTO
còn ngại tự do hóa nhất (theo OECD 2002, trong số 146 thành viên WTO chỉ có 42

thành viên ñồng ý cam kết về it nhất một khu vực giáo dục).
Như vậy, Giáo dục ở Việt Nam có bị cuốn theo trào lưu này ? Một ñiểm cần
lưu ý là khi tồn tại trong một thế giới không ngừng thay ñổi, Giáo dục cũng phải
thay ñổi ñể thích ứng. Cải cách là cần thiết, chỉ có ñiều không ñơn giản và cần bàn
là cải cách như thế nào là hợp lý và hiệu quả. Về cả hai phương diện khoa học và
thực tiễn quản lý ñã nảy ra không ít câu hỏi khó trả lời về tính chất hàng hóa của
giáo dục nói chung, và ñại học nói riêng. Ở Việt Nam, tuy nền giáo dục của ta còn
rất lạc hậu, làn sóng tân tự do cũng ñã lan tới. ðã có ý kiến cho rằng ñổi mới tư duy
giáo dục hiện nay chính là phải ñổi mới cách nhìn ñối với việc thương mại hóa giáo
dục, chính thức nhìn nhận giáo dục là hàng hóa, khuyến khích mạnh mẽ tư nhân ñầu
tư kinh doanh giáo dục, phát triển ñại học tư, tiến tới cổ phần hóa một bộ phận ñại
học công, lấy ñó làm giải pháp “khoán mười” cởi trói giáo dục.
Trước khi bàn có nên “Thương mại hóa giáo dục” trong khung cảnh toàn cầu
hóa hay không? Thì Giáo dục Việt Nam cần xác ñịnh lại sứ mệnh (nhiệm vụ),
ñường lối (triết lý, quan niệm, phương châm), sao cho phù hợp nhất với ñiều kiện
mới của thế giới, ñáp ứng tốt nhất các yêu cầu của sự nghiệp phát triển ñất nước
hướng ñến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
ðiều này là cần thiết vì những thiếu sót bất cập của nền giáo dục của ta suy cho
-9-

cùng bắt nguồn từ những mơ hồ về sứ mệnh và ñường lối giáo dục trong tình hình
mới.
Trước mắt cần phải cố gắng cao nhất phi tập trung hóa quản lý và tăng tính tự
chủ và tự chịu trách nhiệm. Rõ ràng Giáo dục Việt Nam vừa rất lạc hậu trong
cung cách quản lý quan liêu bao cấp nặng nề và bảo thủ, vừa có cả những yếu tố
thương mại hóa tiêu cực, kinh doanh ñơn thuần thiếu lành mạnh. Các nền giáo dục
trên thế giới vốn ñã ñược tự trị khá cao từ lâu, mà vẫn thấy bức thiết phải tăng
cường tự trị thêm nữa mới bảo ñảm hiệu quả hoạt ñộng trong kinh tế thị trường ở
thời toàn cầu hóa, thì ở Việt Nam, trong hàng chục năm qua, mặc cho nhiều kiến
nghị của những người tâm huyết, cung cách quản lý ñại học vẫn hết sức cũ kỹ. ðã

ñến lúc không nên chần chừ nữa mà phải khẩn trương phi tập trung hóa (phân cấp)
mạnh mẽ quản lý, trao quyền tự quản rộng cho các trường, ñồng thời thiết lập một
cơ chế hậu kiểm và ñánh giá có hiệu quả ñể thúc ñẩy cạnh tranh lành mạnh. Bộ và
các cơ quan trung ương không nên ôm hết mọi việc lớn nhỏ ñể rồi xử lý rất quan
liêu, trên hình thức thì quá chặt chẽ nên trói buộc sáng kiến của những ñơn vị
nghiêm túc, trên thực tế lại quá lỏng lẻo, tạo nhiều sơ hở dễ bị lợi dụng. ðó là lý do
cảnh tượng hỗn loạn về bằng cấp, chức danh, và bao nhiêu những tiêu cực khác,
không thể kiểm soát ñược. Cần phải nới lỏng rất nhiều quy ñịnh cứng nhắc về tuyển
sinh vào ñại học, tuyển nghiên cứu sinh cao học, tiến sĩ, quản lý tài chính, nhân sự,
công nhận, tuyển dụng Giáo sư, Phó giáo sư, v. v Cần phải trả về cho các Trường
quyền quyết ñịnh và tự chịu trách nhiệm trong hàng lọat các vấn ñề ấy, làm sao cho
quyền tự quản của các Trường của Việt Nam không quá thấp so với các Trường ở
nước ngoài. Không thể viện cớ các Trường của ta chưa ñủ trình ñộ tự quản, vì trình
ñộ, năng lực của những tổ chức cấp trên ñâu có gì hơn họ. Cần phải giữ ñúng
nguyên tắc: cái gì, việc gì mà các Trường có thể giải quyết tốt nhất thì họ phải ñược
quyền quyết ñịnh, Bộ hay cấp trên không nên ôm lấy ñể rồi phạm nhiều sai lầm,
như công nhận Giáo sư, Phó giáo sư, quản lý thống nhất việc thi cử, ñào tạo Tiến sĩ,
v.v thời gian qua.
Một vấn ñề mấu chốt là việc quản lý, sử dụng ñội ngũ giảng dạy. Trong cơ chế
thị trường, có một nguyên tắc cần tôn trọng là ñánh giá ñúng năng suất người lao
ñộng và trả lương công bằng hợp lý. Nhưng hiện nay, thầy giáo của ta lương chính
thức thấp xa so với mức sống hợp lý theo tính chất và vị trí công tác của họ trong
guồng máy xã hội, cho nên bắt buộc họ phải xoay xở làm việc gấp 3-4 lần số giờ
bình thường: dạy thêm, dạy sô, dạy liên kết, v.v , mới có ñược mức sống ấy. ðó là
cách sử dụng lao ñộng chẳng những bất công mà cực kỳ lãng phí. Với chế ñộ lương
như thế khó ai có thể tập trung vào công việc chính của mình. Dạy học mà hầu như
không có thì giờ nghiên cứu khoa học, năm này qua năm nọ, trình ñộ vẫn không
nhích lên nổi, thì làm sao có chất lượng ñược. Chính vì cách sử dụng như vậy nên
ñội ngũ giảng dạy ñại học ngày càng già nua, lạc hậu với khoa học thế giới, chất
lượng ñào tạo quá thấp, không ñáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế, mà chưa thấy

rõ khả năng có thể cải thiện nhanh. Hơn nữa, ñó cũng chính là một nguyên nhân hạn
chế khả năng phát triển quy mô các trường và ña dạng hóa các loại hình ñào tạo
theo nhu cầu của xã hội. Bài toán : chất lượng, quy mô, công bằng, với ba yếu tô
không phải lúc nào cũng ñồng hành nhịp nhàng - bài toán ñó không thể có giải pháp
thỏa ñáng chừng nào còn chế ñộ sử dụng và trả lương cho giáo chức ñại học bất
công và lãng phí như hiện nay.
-10-

Như vậy, trao quyền tự chủ về cho các Trường là ñiều cần thiết nên làm hơn
cả. Còn việc có nên “Thương mại hóa giáo dục” hay không thì còn tùy thuộc vào sứ
mệnh, ñường lối của Giáo dục Việt Nam.
Nếu “Thương mại hóa giáo dục” mà biến Giáo dục thành cái chợ - ý kiến của
nguyên Bộ trưởng Giáo dục Phạm Minh Hạc khăng khăng: "Trường học không thể
là cái chợ, xếp Bộ Giáo dục với Bộ Thương mại cùng một cơ chế là không thể chấp
nhận ñược. Các nước có nền kinh tế thị trường xã hội ñặc biệt chú ý tới công bằng
xã hội, trong ñó trước hết chăm lo phát triển giáo dục công cho mọi người học hết
phổ thông, học ñược nghề, ñại học ðường lối giáo dục như vậy không coi giáo
dục là hàng hóa, phát triển giáo dục không thể theo các quy luật của thị trường"
1

thì không nên “Thương mại hóa giáo dục” mà làm gì.
Còn nếu “Thương mại hóa giáo dục” mà có thể nâng cao quyền tự chủ và chất
lượng giáo dục – ý kiến Vụ trưởng Vụ Giáo dục (Ban Khoa giáo) Nguyễn Hữu Chí:
"Trong thực tiễn có xu hướng thương mại hóa giáo dục, có nhu cầu chi trả cao ñể
thụ hưởng nền giáo dục tốt, ngay trong nước có không ít trường quốc tế, lượng học
sinh VN ñổ xô ra nước ngoài học ngày càng nhiều. ðó là chưa kể các hiệp ñịnh
thương mại song phương ñều có tính ñến hạng mục giáo dục.
2
và ý kiến của Giáo
sư ðặng Hữu :


"Thực ra, không nước nào có thị trường thuần tuý, mà ñều có sự can
thiệp của Nhà nước. Ta nói là "chống thương mại hóa giáo dục", thế thì xã hội hóa
ai sẽ ñầu tư ñây? Ta không biến giáo dục thành hoạt ñộng vụ lợi nhưng phải nghĩ
ñến cơ chế ñảm bảo quyền lợi cho những nhà ñầu tư giáo dục khi họ bỏ vốn cho
lĩnh vực này chứ!”
3
thì ñây là vấn ñề cần thiết cho Giáo dục Việt Nam trong giai
ñoạn hiện nay.
Người nghiên cứu thiết nghĩ, dù ñi theo con ñường nào, vận dụng phương
pháp nào thì cuối cùng Giáo dục cũng phải lấy sứ mệnh là mục ñích. Chất lượng
Giáo dục Việt Nam hiện nay cần thiết phải có hồi chuông cảnh báo. Chúng ta cứ
viện dẫn “Học tập là suốt ñời” mà loạn loại hình và chất lượng ñào tạo. “Thương
mại hóa giáo dục” hay không thì không phải là vấn ñề tối quan trọng, mà vấn ñề
quan trọng nhất hiện nay là làm thế nào ñể nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay.
Vì nếu “Thương mại hóa giáo dục” mà có thể nâng cao chất lượng thì rõ ràng là nên
làm, còn nếu “Thương mại hóa giáo dục” mà làm giãm chất lượng giáo dục thì thôi
nên bỏ. Nhưng vấn ñề “Thương mại hóa giáo dục” có làm chất lượng giáo dục ñược
tốt lên hay không lại phụ thuộc vào sứ mệnh, ñường lối và chính sách Giáo dục Việt
Nam chứ không phải phụ thuộc vào việc có “Thương mại hóa giáo dục” hay không?
Nên thiết nghĩ Giáo dục Việt Nam cần lắm việc xác ñịnh lại sứ mệnh, ñường lối,
chính sách cho phù hợp với xu hướng và ñòi hỏi của sự phát triển không ngừng của
xã hội.


1

2

3


-11-

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, CÁCH MẠNG THÔNG TIN VÀ CÁCH MẠNG
GIÁO DỤC, Chuyên đề khoa học, Hà Nội, 2005.

2.
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI,
Chuyên đề khoa học, Hà Nội, 2004.

3.
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, TOÀN CẦU HÓA VÀ SỰ HỘI NHẬP CỦA
GIÁO DỤC, Chuyên đề khoa học, Hà Nội, 2005.

4.
Các trang web :

A.
B.
C.

D.
E.
/>


×