TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
*****
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động ở
Việt Nam hiện nay
Sinh viên thực hiện
:
Lớp/Khoa
:
Mã sinh viên
:
Hà Nội, tháng 9, năm 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
*****
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI : Hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động
ở Việt Nam hiện nay
Sinh viên thực hiện
:
Lớp/Khoa
:
Mã sinh viên
:
Hà Nội, tháng 9, năm 2022
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG...........................2
I. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa 2
................................................................................................................................
1/ Khái niệm sức lao động.................................................................2
2/ Những điều kiện biến sức lao động thành hàng hố...................2
II. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động.........................................4
1/ Giá trị hàng hoá sức lao động.......................................................4
2/ Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động........................................ 6
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM Ở VIỆT
NAM................................................................................................7
KẾT LUẬN.....................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................15
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua nền kinh tế nước ta dần dần chuyển từ nền kinh tế tập
trung sang nền kinh tế thị trường, nhiều thị trường của nước ta đã từng bước được
hình thành và phát triển, song trình độ phát triển cịn thấp so với các nước và sự
phát triển của nó cịn thiếu đồng bộ. Một trong những thị trường được hình thành
đó là thị trường sức lao động (hay còn gọi là thị trường lao động). Cho đến nay vẫn
cịn chưa có nhận thức rõ và thống nhất về thị trường sức lao động. Trước đổi mới,
chúng ta hầu như không thừa nhận thị trường sức lao động. Trong điều kiện hiện
nay, việc thừa nhận nó là tất yếu. Bộ Luật Lao động đã được ban hành ngày
23/6/1994 và tiếp đó là một loạt các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành
Bộ Luật Lao động đã có những tác động tích cực đến việc hình thành khn khổ
pháp lý cho thị trường này. Sức lao động được coi là một hàng hoá đặc biệt, tiền
lương được coi là mức giá của sức lao động và được quyết định bởi sự thoả thuận
giữa hai bên. Cả người lao động và người sử dụng lao động đều có những quyền cơ
bản đảm bảo cho việc tham gia thị trường lao động. Trước C.Mác chưa có một nhà
kinh tế học nào nhìn nhận rõ ranh giới giữa hai phạm trù " lao động và sức lao
động". Nhờ có quan điểm đúng đắn về lao động và sức lao động, C.Mác đã trở
thành người đầu tiên trình bày một cách khoa học lý luận về hàng hóa sức lao
động. Lý luận này đã từng bước hoàn thiện qua nhiều tác phẩm khác nhau và đạt
đến đỉnh cao trong bộ Tư bản. Trong bộ Tư bản, C.Mác viết: "Tư bản chỉ phát sinh
ở nơi nào mà người chủ những tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy được
người lao động tự do với tư cách là người bán sức lao động của mình ở trên thị
trường. Bây giờ, chúng ta phải nghiên cứu một cách tường tận hơn thứ hàng hoá
đặc biệt, tức là sức lao động". Để hiểu rõ hơn vấn đề nên em chọn nghiên cứu đề
tài: “Hàng hóa sức lao động và vấn đề sức lao động ở Việt Nam hiện nay”
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG
I. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
1/ Khái niệm sức lao động:
Theo C.Mác: “Sức lao động, đó là tồn bộ các thể lực và trí lực ở trong cơ
thể con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con
người phải làm trong hoạt động để sản xuất ra những vật có ích.”
2/ Những điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá:
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá
trình lao động sản xuất. Nhưng không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, sức lao động của người nô lệ không phải là hàng hóa, vì
bản thân người nơ lệ thuộc sở hữu của chủ nơ, anh ta khơng có quyền bán sức lao
động của mình. Người thợ thủ cơng tự do tuy được tùy ý sử dụng sức lao động của
mình, nhưng sức lao động của anh ta cũng không phải hàng hóa, vì anh ta có tư
liệu sản xuất để làm ra sản phẩm ni sống mình, chứ chưa buộc phải bán sức lao
động để sống. Sức lao động chỉ biến thành hàng hố khi có hai điều kiện lịch sử
sau:
Một là, người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi
phối sức lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách
là hàng hố, nếu nó do bản con người có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người
có sức lao động phải có quyền sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức lao động
thành hàng hố địi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô và chế độ phong kiến.
Hai là, người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt,
không thể tự tiến hành lao động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy, người lao động
mới buộc phải bán sức lao động của mình, vì khơng cịn cách nào khác để sinh
sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến chỗ sức lao động
biến thành hàng hoá. Sức lao động trở thành hàng hóa là điều kiện quyết định để
tiền biến thành tư bản. Tuy nhiên để tiền biến thành tư bản thì lưu thơng hàng hóa
và lưu thông tiền tệ phải phát triển đến một mức nhật định.
Dưới chủ nghĩa tư bản, đã xuất hiện đầy đủ hai điều kiện đó. Một mặt, cách
mạng tư sản đã giải phóng người lao động khỏi sự lệ thuộc về thân thể vào chủ nô
và chúa phong kiến. Mặt khác, do tác động của quy luật giá trị và các biện pháp
tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản đã làm phá sản những người sản xuất nhỏ, biến họ
trở thành vô sản và tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay một số ít người. Việc
mua bán sức lao động được thực hiện dưới hình thức thuê mướn.
Trong các hình thái trước tư bản chủ nghĩa (TBCN) chỉ có sản phẩm của lao
động mới là hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ
nhất định nào đó, các hình thái sản xuất xã hội cũ bị phá vỡ thì mới xuất hiện điều
kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. Chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao
động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu sự
ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội - thời đại của chủ nghĩa tư bản.
II. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
Cũng như mọi hàng hố khác, hàng hố - sức lao động cũng có hai thuộc
tính: giá trị và giá trị sử dụng.
1/ Giá trị hàng hoá sức lao động:
Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá khác được quy
định bởi số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra
sức lao động. Nhưng, sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người.
Để sản xuất và tái sản xuất ra năng lực đó, người cơng nhân phải tiêu dùng một số
lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Ngoài ra, người lao động cịn phải thỏa mãn
những nhu cầu của gia đình và con cái anh ta nữa. Chỉ có như vậy thì sức lao động
mới được sản xuất và tái sản xuất liên tục.
Vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động sẽ quy
thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy,
hay nói một cách khác, số lượng giá trị sức lao động được xác định bằng giá trị của
những tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất ra sức lao động.
Khác với hàng hoá thơng thường, giá trị hàng hố sức lao động bao hàm cả
yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó thể hiện ở chỗ: nhu cầu của công nhân không
chỉ có nhu cầu về vật chất mà cịn gồm cả những nhu cầu về tinh thần (giải trí, học
hành,…). Nhu cầu đó, cả về khối lượng lẫn cơ cấu những tư liệu sinh hoạt cần thiết
cho công nhân không phải lúc nào và ở đâu cũng giống nhau. Nó tùy thuộc hoàn
cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt
được của mỗi nước, ngồi ra cịn phụ thuộc vào tập qn, vào điều kiện địa lý và
khí hậu, vào điều kiện hình thành giai cấp cơng nhân.
Nhưng, đối với một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định thì quy
mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất
định. Do đó, có thể xác định do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái
sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người cơng nhân.
Hai là, phí tổn đào tạo người cơng nhân
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho gia đình người cơng nhân.
Để nêu ra được sự biến đổi của giá trị sức lao động trong một thời kỳ nhất
định, cần nghiên cứu sự tác động lẫn nhau của hai xu hướng đối lập nhau. Một mặt
là sự tăng nhu cầu trung bình xã hội về hàng hố và dịch vụ, về học tập và trình độ
lành nghề, do đó làm tăng giá trị sức lao động. Mặt khác là sự tăng năng suất lao
động xã hội, do đó làm giảm giá trị sức lao động. Trong điều kiện tư bản hiện đại,
dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật và những điều kiện khác ,
sự khác biệt của công nhân về trình độ lành nghề, về sự phức tạp của lao động và
mức độ sử dụng năng lực trí óc và tinh thần của họ tăng lên. Tất cả những điều
kiện đó khơng thể khơng ảnh hưởng đến các giá trị sức lao động. Không thể không
dẫn đến sự khác biệt theo ngành và theo lĩnh vực của nền kinh tế bị che lấp đằng
sau đại lượng trung bình của giá trị sức lao động.
2/ Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động:
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng giống như các hàng hoá
khác chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là q trình người
cơng nhân tiến hành lao động sản xuất.
Nhưng tính chất đặc biệt của hàng hố sức lao động được thể hiện đó là:
Thứ nhất, sự khác biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với
giá trị sử dụng của các hàng hố khác là ở chỗ: hàng hóa thơng thường sau quá
trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị và giá trị sử dụng của nó đều biến mất
theo thơi gian. Trái lại, q trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động, đó lại là q
trình sản xuất ra một loại hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới
lớn hơn giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng
dư. Như vậy, hàng hố sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó
là đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với các
hàng hố khác. Nó là chìa khố để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của
tư bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi sức lao động trở thành hàng hoá.
Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hố sức lao động vì vậy, việc cung
ứng sức lao động phụ thuộc vào những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của
người lao động. Đối với hầu hết các thị trường khác thì cầu phụ thuộc vào con
người với những đặc điểm của họ, nhưng đối với thị trường lao động thì con người
lại có ảnh hưởng quyết định tới cung.
CHƯƠNG II
VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM
Việc nghiên cứu hàng hố sức lao động có ý nghĩa quan trọng trong việc giải
quyết vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam hiện nay. Đảng và Nhà nước ta đã
thừa nhận sức lao động là hàng hoá (khi có đủ các điều kiện trở thành hàng hố)
cho nên việc xây dựng thị trường sức lao động là tất yếu. Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề cốt lõi, trọng tâm của Đảng ta. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi phải có sự phát
triển đồng bộ các loại thị trường và Nghị quyết Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh phải
tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, thị trường lao động từ chỗ không tồn
tại đã bắt đầu hình thành và phát triển.
Thị trường sức lao động là thị trường mà trong đó các dịch vụ lao động được
mua bán thơng qua một q trình để xác định số lượng lao động được sử dụng
cũng như mức tiền công và tiền lương. Thị trường lao động là một trong những
loại thị trường cơ bản và có một vị trí đặc biệt trong hệ thống các thị trường của
nền kinh tế. Quá trình hình thành và phát triển cũng như sự vận động của thị
trường lao động có những đặc điểm hết sức riêng biệt. Thị trường lao động cũng
như các loại thị trường khác tuân thủ theo những quy luật của thị trường như quy
luật cung cầu, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh. Điểm khác biệt lớn nhất ở
đây là do tính chất đặc biệt của hàng hố sức lao động (như đã trình bày ở trên).
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống các
chính sách và cơ chế quản lý cho sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để các ngành, cách hình thức kinh tế, các vùng phát
triển, tạo nhiều việc làm đáp ứng một bước yêu cầu việc làm và đời sống của người
lao động, do đó cơ hội lựa chọn việc làm của người lao động ngày càng được mở
rộng. Đại hội VIII của Đảng nêu rõ: “Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi
công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc cho người lao
động. Mọi công dân đều được tự do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp
luật. Phát triển dịch vụ việc làm. Tiếp tục phân bố lại dân cư và lao động trên địa
bàn cả nước, tăng dân cư trên các địa bàn có tính chiến lược về kinh tế, an ninh
quốc phòng. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu. Giảm đáng kể tỷ lệ
thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn” ( Văn kiện Đại hội đại biểu
tồn quốc lần thứ VIII, trang 114-115) vì vậy người lao động từ chỗ thụ động,
trông chờ vào sự bố trí cơng việc của Nhà nước (trong thời kỳ bao cấp), người lao
động đã trở nên năng động hơn, chủ động tự tìm việc làm trong các thành phần
kinh tế. Các quan hệ lao động – việc làm thay đổi theo hướng các cá nhân được tự
do phát huy năng lực của mình và tự chủ hơn trong việc tìm kiếm việc làm phù hợp
với quan hệ cung cầu lao động trên thị trường.
Người sử dụng lao động được khuyến khích làm giàu hợp pháp, nên đẩy
mạnh đầu tư tạo việc làm. Khu vực kinh tế tư nhân được thừa nhận và khuyến
khích phát triển, mở ra khả năng to lớn giải quyết việc làm tạo ra nhiều cơ hội cho
người lao động bán sức lao động của mình.
Ngày nay, vai trò của Nhà nước trong giải quyết việc làm đã thay đổi cơ bản.
Thay vì bao cấp trong giải quyết việc làm, Nhà nước tập trung vào việc tạo ra cơ
chế, chính sách thơng thống, tạo hành lang pháp luật, xố bỏ hàng rào về hành
chính và tạo điều kiện vật chất đảm bảo cho mọi người được tự do đầu tư phát triển
sản xuất, tạo thêm việc làm, tự do hành nghề, hợp tác và thuê muớn lao động. Cơ
hội việc làm được tăng lên và ít bị ràng buộc bởi các nguyên tắc hành chính và ý
chí chủ quan của Nhà nước. Từng bước hình thành cơ chế phân bố lao động theo
các quy luật của thị trường lao động, đổi mới cơ chế và chính sách xuất khẩu lao
động….
Theo Luật Lao động, Nhà nước đã chuyển hẳn từ cơ chế quản lý hành chính
về lao động sang cơ chế thị trường. Việc triển khai bộ luật này đã góp phần quan
trọng vào cơng cuộc xây dựng đất nước và ổn định xã hội trong thời gian qua. Nhà
nước cũng đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật: Luật Đầu tư nước ngoài,
Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư trong nước…, nên đã
thúc đẩy các yếu tố của các thị trường, trong đó thị trường sức lao động hình thành,
mở ra tiềm năng mới giải phóng các tiềm năng lao động và tạo mở việc làm. Đồng
thời với các cải tiến trong quản lý hành chính, hộ khẩu, hồn thiện chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiền tệ hoá tiền lương, tách chính sách tiền lương, thu
nhập khỏi chính sách xã hội đã góp phần làm tăng tính cơ động của lao động.
Quan hệ cung - cầu về lao động trên thị trường sức lao động ở nước ta hiện
nay có những biểu hiện sau:
Một là, trên phạm vi cả nước, cung lớn hơn cầu về lao động và tình trạng
này tiếp tục kéo dài trong những năm tới, dẫn đến sức ép rất lớn về việc làm, vì
chúng ta thiếu vốn đầu tư nghiêm trọng, chiến lược lựa chọn công nghệ thích hợp
chưa được xác định rõ ràng, cơ cấu kinh tế đang trong quá trình chuyển dịch,
nhưng diễn ra chậm chạm và khó khăn. Cung lớn hơn cầu về lao động còn do lao
động còn tăng với tỷ lệ cao 3,2%-3,5%/năm, dẫn đến mỗi năm có khoảng 1,1 triệu
thanh niên bước vào tuổi lao động. Số này tham gia vào thị trường lao động ngày
một đông và với khả năng tự giải quyết việc làm rất khác nhau, nhưng có điểm
thường là khơng được đào tạo nghề. Vì vậy, công tác dạy nghề và phổ cập nghề trở
thành vấn đề cấp bách và có tính chiến lược, là khâu then chốt nâng cao chất lượng
và sức cạch tranh của lao động trên thị trường.
Hai là, lao động nông thôn chiếm hơn 70% lao động của cả nước, nếu chỉ
làm thuần nơng, tự cung, tự cấp, thì số lao động thiếu hoặc khơng có việc làm lên
đến 30%. Số này sẽ tự phát di chuyển ra thành phố hoặc khu cơng nghiệp tập trung
để tìm kiếm việc làm, làm cho cung về lao động trên thị trường lao động càng lớn.
Ba là, quan hệ cung cầu về lao động còn căng thẳng về mặt kết cấu, dẫn đến
tình trạng “thất nghiệp kết cấu”. Điều này thể hiện ở chỗ: một số ngành tiềm năng
cịn lớn, có khả năng thành hiện thực (về vốn, kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, công nghệ,
thị trường tiêu thụ…) như lâm nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ và du lịch… ở một số
vùng miền núi, đồng bằng sông Cửu Long, ven biển vẫn thiếu lao động, nhưng khả
năng di dân và di chuyển lao động đến rất hạn chế.
Trong khi đang có xu hướng lao động bị đẩy ra ở một số lĩnh vực, thì đồng
thời một số lĩnh vực và hình thức khác lại xuất hiện khả năng thu hút thêm lao
động như kinh tế hộ gia đình, khu vực phi kết cấu, doanh nghiệp nhỏ, nhưng lại
chưa có chính sách khuyến khích thoả đáng. Đặc biệt là thiếu một đội ngũ lao động
có trình độ cao để làm việc trong một số lĩnh vực áp dụng công nghệ mới hoặc
trong các khu chế xuất, các đơn vị kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi….
Chính sự thiếu ổn định trong quan hệ cung cầu trên thị trường sức lao động
đang là nhân tố làm cho thị trường này hoạt động kém hiệu quả. Người lao động
khi được tiếp nhận vẫn chưa thực sự gắn bó và n tâm với cơng việc. Người sử
dụng lao động chưa thực sự tin tưởng vào người lao động. Hiện tượng này không
chỉ dẫn đến mất cân đối cung cầu mà còn làm cho chi phí lao động tăng lên, tiền
lương khơng thể hiện được giá trị đích thực của sức lao động. Tâm lý bất ổn còn
dẫn đến sức hút của các doanh nghiệp và tổ chức nhà nước mạnh hơn so với các
công ty và tổ chức cá nhân, trong khi khả năng tạo thêm việc làm mới lại chủ yếu
thuộc về khu vực tư nhân.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta vận động và phát triển gắn liền với quá
trình CNH, HĐH. Vì vậy, khi vận dụng lý luận hàng hố sức lao động vào phát
triển thị trường lao động cần phải quan tâm giải quyết vấn đề nguồn cung lao động
chất lượng cao cho quá trình CNH, HĐH. Mặt khác, trong xu thế hội nhập quốc
tếnền kinh tế thị trường ở các nước phát triển là hướng đến nền kinh tế tri thức.
Đây là nền kinh tế đòi hỏi lao động trí tuệ cao, vì vậy, người lao động phải biết
nắm bắt và xử lý thông tin nhanh nhạy, đặc biệt là trong những ngành công nghệ
mới. Xu thế này của nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc vận dụng lý luận hàng hoá
sức lao động phải đặc biệt quan tâm nhằm nâng cao giá trị sử dụng của hàng hố
sức lao động. Tuy nhiên, q trình nhận thức và vận dụng lý luận hàng hoá sức lao
động của C.Mác vẫn còn những giới hạn nhất định, chưa đáp ứng được những yêu
cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong tiến trình tồn cầu hố
kinh tế, cụ thể như: về giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động cịn thấp làm hạn
chế phần nào sự cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị hàng hố
sức lao động cịn bất cập, chưa bao hàm hết những yếu tốt đáp ứng yêu cầu tái sản
xuất mở rộng sức lao động cho một bộ phận lớn những người làm công ăn lương.
Hệ thống thông tin lao động, việc làm chưa được quản lý chặt chẽ. Hệ thống giáo
dục - đào tạo chưa đủ khả năng cung ứng nguồn lao động chất lượng cao cho sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trước các vấn đề trên, chúng tôi đưa ra một số giải pháp cơ bản vận dụng lý
luận hàng hoá sức lao động để đảm bảo nguồn nhân lực cho thị trường lao động
trong thời kỳ hội nhập quốc tế như sau:
Thứ nhất, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể nền kinh tế thị trường sự định hướng xã hội chủ nghĩa: Vì
lợi ích của người sử dụng lao động và lợi ích của người lao động phải có sự hài
hồ. Quan hệ lao động ở các doanh nghiệp cần được được luật hoá, theo đó, quan
hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động không phải là quan hệ đối
kháng, lợi ích tư nhân của người sử dụng lao động và lợi ích cá nhân của người lao
động khơng mâu thuẫn gay gắt với nhau mà được chuyển hoá để kết hợp thành một
thể thống nhất, tạo hợp lực chung vì sự phát triển của xã hội, sự gắn kết hài hoà
giữa các lợi ích là yếu tố cơ bản để tạo lập mối quan hệ lao động thân thiện giữa
người sử dụng lao động.
Thứ hai, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phù hợp với quá trình
hội nhập quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức. Điều đó địi hỏi các
doanh nghiệp phải chủ động xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng
và chất lượng, nhất là về trình độ chun mơn, kỹ thuật, về phẩm chất, năng lực thì
mới có thể tiếp cận được nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, tôn trọng nhân cách, phát huy vai trò làm chủ, năng động sáng tạo,
tinh thần yêu nước, yêu dân tộc của người lao động. Nhân cách của người lao động
được thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác và cộng
đồng trách nhiệm trong mọi công việc được giao. Do đó, tơn trọng nhân cách là
làm cho những tố chất đó khơng hề bị vi phạm, ngược lại, nó được phát huy một
cách mạnh mẽ trong lao động sản xuất, khiến cho người lao động toàn tâm, tồn ý,
đem hết tài năng, sức lực của mình để đóng góp cho xã hội, cho doanh nghiệp vì
lợi ích chung.
Thứ tư, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải gắn liền với việc hình
thành đội ngũ lao động có trình độ và cơ cấu hợp lý đáp ứng u cầu của sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Điều đó có nghĩa là phải xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Đó là những người
biết nắm bắt và sử dụng có hiệu quả những phương tiện kỹ thuật hiện đại; những
người có năng lực sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, trong quản lý vĩ mô và vi
mơ; là những người ứng xử có văn hố cũng như có đạo đức nghề nghiệp... Đi đơi
với đào tạo nghề, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật cho người lao động, cần
quan tâm giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, cho dù người lao động
đó làm việc trong bất cứ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào.
Thứ năm, thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động bằng các hình thức
như; phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, tăng cường quản lý Nhà
nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu
lao động, phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động; hoàn thiện hệ
thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lý và vận hành có
hiệu quả thị trường lao động, nâng cao hơn nữa vai trò của các tổ chức đại diện cho
người lao động và tổ chức đại diện cho chủ sử dụng lao động, tiếp tục hồn thiện
các chính sách thị trường lao động, chính sách tiền lương.
KẾT LUẬN
Sự biến đổi giá trị của số tiền cần phải chuyển hóa Như vậy sức lao động là
hàng hố đặc biệt. Trong thời gian tới cần phải có những giải pháp hồn thiện cơ
chế chính sách đi đơi với nâng cao chất lượng nguồn lao động tạo điều kiện thuận
lợi cho mọi người lao động được tự do bán sức lao động, tự do di chuyển sức lao
động giữa các vùng, các miền khác nhau … nhằm phát huy hết tiềm năng nguồn
lực lao động của nước ta với mục đích xây dựng một thị trường lao động sơi động,
ổn định và có hiệu quả tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những ngun lí cơ bản chủ nghĩa Mác – Lênin (Dành cho
sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh) của Bộ giáo dục đào tạo, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà
Nội 2010
2. Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2002
3. Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2002
4. Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2003
5. />
%A9c-lao-%C4%91%E1%BB%99ng
6. />
option=com_content&view=article&id=931:tim-hiu-mt-loi-hang-hoa-c-bit-sclao-ng&catid=134:tt&Itemid=49