Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Một số giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.06 KB, 38 trang )

Lời mở đầu
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới hợp lí vừa
là điều kiện vừa là mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia. Từ năm 1986, Việt Nam đã tiến hành
công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực và thu được những thành công đáng kể nhưng nhìn
chung nước ta vẫn là một nước nông nghiệp, nền kinh tế chưa có bước phát triển vững chắc, còn
gặp nhiều khó khăn đặc biệt trong khu vực nông thôn. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là
chúng ta chưa có một thị trường sức lao động nông nghiệp nông thôn phát triển để đáp ứng yêu
cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực này. Một thị trường sức lao động phát
triển cả về số lượng và chất luợng không những giúp tăng trưởng kinh tế, thuận lợi cho quá trình
chuyển dịch mà còn đảm bảo cho quá trình chuyển dịch ổn định, bền vững.
Đây chính là lí do để em lựa chọn đề tài “Một số giải pháp phát triển thị trường sức lao
động ở Việt Nam hiện nay”.
Đề tài gồm 3 chương
Chương 1: Vai trò của thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn.
Chương 2: Thực trạng thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn nước ta.
Chương 3: Giải pháp phát triển thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Chương 1
Vai trò của thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và
nông thôn
1.1. Một số vấn đề lý luận chung
1.1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
Sự phát triển của một nền kinh tế gắn với sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là
một quốc gia đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá như Việt Nam. Yêu
cầu của sụ phát triển luôn đòi hỏi một cơ cấu kinh tế hợp lý, nội dung là xác định các bộ phận
1
1
hợp thành và quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận đó. Cụ thể xác định rõ mối quan hệ giữa các thành
phần kinh tế quốc dân, quan hệ giữa các thành phần kinh tế, quan hệ giữa các vùng kinh tế.


Cơ cấu kinh tế là tập hợp các bộ phận (các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế)
cấu thành tổng thể các ngành sản xuất kinh doanh và mối tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận cấu
thành so với tổng thể.
Khối ngành nông nghiệp và khu vực nông thôn đóng góp 30% GDP và chiếm hơn 76%
dân số cả nước. Vì vậy, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một bộ phận cấu thành vô
cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã
hội nước ta.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong
khu vực nông thôn. Các bộ phận hợp thành cơ cấu có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau theo
những tỉ lệ nhất định về mặt luợng và liên quan chặt chẽ về mặt chất trong không gian và thời
gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế nhất định, tạo thành một hệ thống kinh tế ở
nông thôn – một bộ phận hợp thành không thể tách rời của hệ thống kinh tế quốc dân.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn bao gồm:
- Cơ cấu ngành và cơ cấu nội bộ ngành
Ngành là một tổng thể các đơn vị kinh tế cùng thực hiện một loại chức năng trong hệ
thống phân công lao động xã hội. Các ngành trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn bao
gồm:
+ Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm Nông nghiệp (trồng trọt chăn nuôi, Lâm nghiệp
và Thuỷ sản.
+ Công nghiệp nông thôn: là một bộ phận cấu thành nền kinh tế lãnh thổ, là ngành bao
gồm hoạt động của thợ thủ công chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp, các doanh nghiệp tư
nhân,các công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã, các tổ hợp, tổ chức sản xuất công nghiệp
và thủ công nghiệp, các xí nghiệp quốc doanh chế biến lương thực, thực phẩm hoặc các xí
nghiệp công nghiệp khác có quy mô vừa và nhỏ mà hoạt dộng của nó trực tiếp gắn với kinh tế
trên địa bàn nông thôn.
2
2
Công nghiệp nông thôn bao gồm: công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản, sản xuất
công cụ thường, công cụ cải biến và sửa chữa máy móc trong nông thôn, công nghiệp sản xuất
vật liệu xây dựng, ngành thủ công mỹ nghệ

Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, các ngành
nghề công nghiệp tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn được phát triển thành các ngành nghề độc
lập nhưng có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động kinh tế khác ở nông thôn. Ngành này có xu
hướng tăng tỉ trọng trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
+ Dịch vụ: là một bộ phận của ngành dịch vụ cả nước, là một bộ phận cấu thành kinh tế
lãnh thổ nông thôn. Dịch vụ nông thôn bao gồm nhiều loại: ngân hàng, tín dụng, bưu điện,
thông tin liên lạc, cung ứng điện nước, và tiêu nước, sửa chữa máy móc và công cụ sản xuất;
cung ứng giống cây trồng, gia súc, phòng trừ sâu bệnh cây trồng gia súc, khám chữa bệnh gia
súc...
Những hoạt động dịch vụ đầu vào đầu ra ngày càng được mở rộng, tỉ trọng của nó trong
cơ cấu nông nghiệp nông thôn ngày càng lớn hơn.
- Cơ cấu các thành phần kinh tế: Bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau như thành
phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, tư nhân họ gia đình. Trong đó hộ gia đình và các trang
trại gia đình đóng vai trò quan trọng để sản xuất nông sản phẩm.
- Cơ cấu kinh tế vùng là sự phân công lao động theo lãnh thổ. Sự phân công lao động
theo lãnh thổ gắn liền với những không gian nhất định. Trên các vùng không gian nhất định có
sự bố trí các ngành và sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Cơ cấu vùng hợp lí cho phép
khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng của vùng. Hình thành các vùng chuyên môn hoá để
sản xuất khối lượng hàng hoá lớn phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu là
một xu thế tất yếu.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
1.1.2.1. Lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
Xác định cơ cấu kinh tế đã bao trùm cả chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây không chỉ đơn
thuần là sự thay đổi vị trí mà là sự biến đổi cả về số lượng và chất lượng. Việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế phải dựa trên một cơ cấu kinh tế hiện có, do đó nội dung của nó là cải tạo cơ cấu cũ
lạc hậu chưa phù hợp để xây dựng một cơ cấu kinh tế tiên tiến, hoàn thiện bổ sung hơn cơ cấu
3
3
cũ thành cơ cấu mới cho phù hợp hơn. Sự thay đổi về lượng đển một mức độ tích luỹ nhất định
sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất. Quá trình chuyển hoá từ cơ cấu cũ thành cơ cấu mới đòi hỏi phải

có thời gian và phải qua các thang bậc nhất định của sự phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng tăng dần tỷ trọng của các hoạt động công nghiệp, dịch vụ, là quá trình thay đổi
phương pháp, công cụ và công nghệ sản xuất chủ yếu còn tự túc, tập quán sống cổ truyền ở
nông thôn bằng các phương pháp công cụ và công nghệ tiên tiến đạt hiệu quả cao đi dần lên
hiện đại trong đó thuỷ lợi hoá, cơ khí hoá, điện khí hoá, sinh học hoá và những nội dung then
chốt nhất và tập quán sống văn minh lành mạnh của nền văn minh công nghiệp mang nặng bản
sắc dân tộc.
1.1.2.2. Một số vấn đề có tính quy luật trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn
Dù là cơ cấu kinh tế của cả nước hay cơ cấu kinh tế nông thôn đều mang tính khách
quan, một cơ cấu kinh tế hợp lý, bao giờ cũng phù hợp với quy luật vận động khách quan của
nền kinh tế. Con người thông qua nhận thức quy luật khách quan tìm ra phương án chuyển dịch
cơ cấu kinh tế có hiệu quả nhất. Trong thời đại ngày nay, khi xây dựng một cơ cấu kinh tế của
một nước, không thể không xem xét mối quan hệ của nó với thế giới bên ngoài. Sự phát triển
đan xen, cũng như sự phân công lao động quốc tế, sự thâm nhập kinh tế giữa các nước với nhau,
đều chỉ rõ tính đa dạng phương pháp và tính quốc té của một cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế
thị trường mở cửa, nếu không chú ý đúng mức đến đặc trưng này sẽ hạn chế sự phát huy các nội
lực bên trong.
Trên cơ sở nghiên cứu các đặc trưng của cơ cấu kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng đến sự
hình thành cơ cấu kinh tế, ta thấy một số vấn đề có tính quy luật trong việc xác lập và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn như sau:
- Cơ cấu kinh tế nông thôn cần được xác lập và dịch chuyển theo hướng từ một nền
nông nghiệp độc canh chuyển sang một nền nông nghiệp đa canh, phát triển sản xuất hàng hoá
với ngành nghề đa dạng, Tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm và tỷ trọng các ngành công
nghiệp và tiểu thủ nghiệp và dịch vụ càng tăng.
4
4
- Nông nghiệp hàng hoá chỉ có thể phát triển với sự tác động mạnh mẽ của công nghiệp.
Công nghiệp hoá nông nghiệp là một tất yếu.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước không thể tách rời với sự phát triển kinh tế
của cộng đồng quốc tế cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn không thể tách rời cơ
cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế chung của cả nước.
- Phân công lại lao động theo hướng lao động nông nghiệp ngày càng giảm và lao động
các ngành nghề khác (công nghiệp, thương mại, dịch vụ) ngày càng tăng, là hiện tượng khách
quan, thể hiện sự tiến bộ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông thôn
nói riêng.
- Phát triển kinh tế hộ gắn với phát triển kinh tế hợp tác
- Xu hướng tích tụ ruộng đất
- Sự phân hoá giàu nghèo vừa là kết vừa là động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
1.1.2.3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp:
Từ vấn đề có tính quy luật trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn,
Đảng và Nhà nước ta có đề ra xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn như
sau.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Từ chỗ năng về trồng trọt chủ yếu là cây lương thực sang sản xuất các cây trồng vật nuôi
có giá trị hàng hoá cao, từ chỗ chủ yếu làm nông nghiệp sang phát triển các ngành công nghiệp
tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.Cần tập trung phát triển sản xuất lương thực ở những vùng và
tiểu vùng trọng điểm; phấn đấu tăng sản lượng lương thực bình quân đầu người; nâng cao chất
lượng sản xuất và chế biến lương thực dáp ứng nhu cầu chăn nuôi, dự trữ và xuất khẩu.Trong đó
phải giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản như quan hệ trồng trọt với chăn nuôi, giữa nông
nghiệp với nông nghiệp, giữa nông nghiệp với lâm nghiệp, giữa nông lâm nghiệp với công
nghiệp và dịch vụ, giữa đẩy mạnh sản xuất hàng hoá với mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm...
nhằm tạo ra thế chủ động và hành lang an toàn thực phẩm, nâng cao thu nhập, xoá đói giảm
nghèo, xây dựng xã hội nông thôn nước ta văn minh hiện đại.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu nông thôn nước ta
5
5
- Chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá; từng bước

hình thành các vùng, tiểu vùng sản xuất chuyên môn hoá, khôi phục và phát triển các làng nghề,
các tụ điểm công nghiệp – thương mại – dịch vụ cho nông thôn, tăng nhanh tỷ trọng các ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá: phát
triển công nghiệp chế biến và bảo quản nông – lâm – thuỷ sản, phát triển các ngành công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có tính chất trực tiếp phục vụ sản xuất nông- lâm – ngư
nghiệp hoặc sử dụng nguyên liệu của các ngành này. Cân phải đưa máy móc thiết bị hiện đại
vào thay thế lao động thủ công và công cụ lao động thô sơ nhưng chủ yếu là nâng cao trình độ
kĩ thuật và công nghệ bằng cách nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm và năng suất lao động, đồng thời phù hợp lao động thủ công
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trên cơ sở phát huy vai trò và tác dụng tích cực
của mọi thành phần kinh tế trong nông thôn.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trên nguyên tắc bảo đảm khai thác hợp lí, có
hiệu quả các nguồn tài nguyen và bảo vệ môi trường sinh thái.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cần phải lựa chọn các vùng ưu tiên, ngành ưu
tiên để đầu tư phát triển có hiệu quả.
Trong thời gian chúng ta vừa tiến hành mở cửa nền kinh tế, công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước, xu hướng chung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn còn chịu sự
tác động của nhiều nhân tố như: thị trường, trình độ phát triển của các ngành kinh tế liên quan,
nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, nhân tố tự nhiên, vấn đề đối ngoại, ….Vì vậy việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế phải dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất
nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, nhu cầu đời sống
nhân dân và quốc phòng, an ninh.
1.2. Vai trò của thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn.
Thị trường là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trước hết là cơ
cấu kinh tế ngành bởi thị trường hàng hoá, thị trường vốn, thị trường lao động… là yếu tố
hướng dẫn, điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của các doanh nghiệp. Dù là
6
6

hoạt động trong lĩnh vực nào của nền kinh tế quốc dân (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) thì
các doanh nghiệp luôn phải hướng ra thị trường, xuất phát từ quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị
trường để định hướng chiến lược kinh doanh của mình. Sự thay đổi trong chiến lược sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng với điều kiện của thị trường từng bước dẫn đến thúc
đẩy sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Như vậy, thị trường thông qua quan hệ cung
cầu mà tín hiệu của nó là giá cả hàng hoá sẽ thúc đẩy hay hạn chế sản xuất và tiêudùng.
1.2.1.Thị trường sức lao động
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở mỗi nước đều chịu sự tác động của nhiều nhân tố
trên thị trường khác nhau ở mức độ khác nhau. Trong đó, thị trường sức lao động với tư cách là
một bộ phận hợp thành hữu cơ của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng đã đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập và hình
thành một cơ cấu kinh tế hợp lí.
Thị trường sức lao động là một không gian của sự trao dổi tiến tới thoả thuận giữa người
sở hữu sức lao động và người cần có sức lao động để sử dụng. Kết quả của quá trình trao đổi
thoả thuận đó là tiền công được xác lập cùng với điều kiện làm việc cho một công việc cụ thể.
Đó chính là sự mua và bán về sức lao động giữa hai chủ thể.
Thị trường sức lao động phát triển cả về số lượng và chất lượng sẽ đảm bảo đáp ứng nhu
cầu về nguồn lực con người cho các ngành nghề sản xuất kinh doanh một cách kịp thời, đầy đủ
với chất lượng cao và giá cả hợp lí. Mỗi một ngành sản xuất kinh doanh, mỗi một doanh nghiệp
đều có yêu cầu khác nhau về yếu tố lao động tuỳ theo đặc điểm sản xuất của ngành, của doanh
nghiệp: một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao đòi hỏi trình độ chuyên
môn người lao động rất cao, một số ngành khác chỉ cần những kĩ thuật đơn giản… Vì vậy khi
xây dựng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vào bất cứ ngành nào, không một doanh nghiệp nào lại
không xem xét, phân tích và đánh giávề khả năng cung ứng của thị trường sức lao động. Thị
trường sức lao động cùng với yếu tố lao động càng phát triển và hoàn thiện sẽ thúc đẩy quá
trình tăng trưởng, phát triển kinh tế, do đó làm sâu sắc thêm quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không thể có được một chính sách chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đáng kể nếu không có các điều kiện hỗ trợ cần thiết về mặt nguồn lực con người.
7
7

Mặt khác, ta cũng nhận thấy rằng cơ cấu kinh tế mang tính khách quan nhưng nó hình
thành nhanh hay chậm, hợp lí hay không hợp lí là do sự tác động chủ quan của con người. Rõ
ràng là ở đâu trình độ dân trí thấp kém, thị trường sức lao động còn manh mún, kém phát triển
thì ở đó việc xác lập và chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ gặp rất nhiều khó khăn và khó tránh khỏi
sai lầm. Sở dĩ như vậy là do muốn xác lập và chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lí thì phải có con
người với trình độ cao để nắm vững quy luật khách quan và vận dụng quy luật, để dự báo và
nắm bắt được những diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế trước mắt và lâu dài, tình hình
trong nước và quốc tế, để vạch được chiến lược sát đúng và thực hiện có hiệu quả chiến lược
đó…Con người thông qua nhận thức các quy luật khách quan, tìm ra phương án chuyển dịch cơ
cấu kinh tế có hiệu quả nhất.
Một trong những yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó là phải đảm bảo phát triển
kinh tế bền vững, ổn định. Để đạt được yêu cầu này không còn cách nào khác là phải phát triển
nguồn lực, phát triển thị trường sức lao động bởi vì đây là nhân tố quyết định việc tổ chức và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực khác. Không dựa trên nền tảng phát triển cao của thị trường sức
lao động và yếu tố nguồn lao động về thể chất, trình độ văn hoá, tri thức và kĩ năng nghề
nghiệp, kinh nghiệm quản lí và lòng nhiệt tình… thì sẽ sử dụng lãng phí không chỉ bản thân
nguồn lực con người mà còn có thể làm lãng phí, cạn kiệt và huỷ hoại các nguồn lực khác. Trên
ý nghĩa này thị trường sức lao động có vai trò quyết định đến quá trình phát triển, tăng trưởng
kinh tế do đó sẽ quyết định đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.2.2. Thị trường sức lao động phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn
Như ở trên chúng ta đã tìm hiểu, thị trường sức lao động đã vô cùng cần thiết cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân; nhưng trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế vai trò của thị trường này còn quan trọng hơn rất nhiều. Nông nghiệp, nông thôn là
lĩnh vực chỉ sử dụng hai nguồn lực chính là đất đai và lao động. Đất đai là yếu tố thụ động và bị
giới hạn, nguồn lực lao động quyết định đến việc sử dụng đất đai có hiệu quả do vậy trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cần đặc biệt chú trọng đến phát triển thị
trường sức lao động.
8
8

Thị trường sức lao động và yếu tố nguồn lao động là nhân tố đầu vào không thể thiếu
được trong nông nghiệp, nông thôn. Đây là lĩnh vực ở trình độ thủ công lạc hậu, trình độ khoa
học công nghệ còn rất thấp cho nên huy động số lượng lớn lao động vào quá trình phát triển.
Bên cạnh đó, để thực hiện thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đòi hỏi thị trường sức lao động phải phát triển
về chất lượng, đặc biệt là về trình độ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp, tính năng
động sáng tạo của nguồn lao động. Trình độ học vấn của người lao động sẽ cho họ khả năng
lĩnh hội được những kiến thức, kinh ngiệm sản xuất kinh doanh từ các chương trình khuyến
nông, khả năng làm được những ngành nghề mới xuất hiện trong quá trình chuyển dịch. Một khi
thị trường sức lao động phát triển, cung cấp được những lao động có trình độ chuyên môn, kĩ
thuật cao phù hợp với nhiều ngành nghề mới hiện nay, các vùng nông thôn và các vùng phụ cận
sẽ thu hút được nhiều doanh nghiệp, các liên doanh với nước ngoài tiến hành sản xuất kinh
doanh ở đây. Từ đấy thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh chóng. Do vậy thị trường sức
lao động (xét cả về mặt chất lượng cũng như số lượng) là yếu tố hết sức quan trọng đối với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Mặt khác, ta cũng nhận thấy rằng ở nông nghiệp, nông thôn một số lượng lớn người lao
động có trình độ trung bình sẽ điều hành công việc riêng của họ nhưng những người có trình độ
cao hơn sẽ đi làm thuê với mức lương hấp dẫn hơn. Điều đó cũng có nghĩa là khi thị trường sức
lao động phát triển về chất lượng, số lượng người tự điều hành công việc của mình sẽ giảm,
trình độ của họ được nâng lên, họ có nhu cầu đi làm thuê nhiều hơn; qua đó cũng thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Chương 2
Thực trạng thị trường sức lao động đối với
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn nước ta
2.1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Nông thôn Việt Nam có số hộ thuần nông bao gồm cả nông nghiệp, ngư nghiệp chiếm
62,3%, số hộ kiêm nông nghiệp và ngành nghề chiếm 26,5%, số hộ và doanh nghiệp chuyên
9
9

ngành nghề phi nông nghiệp chỉ chiếm 11,3%. Ngành nghề nông thôn rất đa dạng phong phú, có
hàng trămn ngành ngghề khác nhau. Theo kết quả khảo sát của Cục chế biến nông – lâm sản và
ngành nghề nông thôn (Bộ Nông nghiệp vsà phát triển nông thôn) cad ngành nghề phi nông
nghiệp ở nông thôn, hiện nay có khoảng 17,26% số cơ sở thuộc nhóm chế biến nông – lâm –
thuỷ sản, 32,86% thuộc nhóm công nghiệp thủ công nghiệp xây dựngvà 49,88% thuộc nhóm các
ngành nghề dịch vụ. Trong tổng số 1.350.000 đơn vị cơ sở chuyên ngành nghề phi nông nghiệp,
chỉ cóa 3% là các doanh nghiệp còn lại 97% là các hộ gia đình, đại bộ phận tập trung trong các
làng nghề.Trong số 3%, cơ sở là doanh nghiệp nhà nước là 14,16%; hợp tác xã 5,73%, doanh
nghiệp tư nhân 80,08%. Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn là chính.
2.1.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong nông nghiệp nông thôn
Cơ cấu nông-lâm nghiệp- thuỷ sản đã có sự chuyển dịch theo hướng hiệu quả, tăng thu
nhập trên một đơn vị diện tích
- Cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát triển chăn
nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành chính trong nông nghiệp.Tỷ trọng chăn nuôi tăng từ 16,5%
năm 2000,16,8% năm 2001 lên 17,5% năm 2002
- Ngành thuỷ sản đã chuyển hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế thị trường, thực
hiện tự cân đối tự trang trải, vừa phát triển đánh bắt ven và xa bờ, vừa phát triển nuôi trồng, tạo
ra những chuyển biến lớn trong cơ cấu kinh tế thuỷ sản và kinh tế nông nghiệp vùng ven biển.
Tỷ trọng của thuỷ sản trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp – thuỷ sản đã tăng từ 10,9%
năm 90, lên 13,4% năm 1995, 15,6%năm 2000, 17,4% năm 2001 và 17,8% năm 2002. Tỷ trọng
giá trị sản xuất nuôi trồng trong tổng giá trị sản xuất thuỷ sản đã tăng từ 31,9% năm 1995, lên
36,2% năm 2000, 43,7% năm 2001 và 47,2% năm 2002
Trong lĩnh vực lâm nghiệp, chuyển từ lâm nghiệp nhà nước sang lâm nghiệp xã hội. Nhà
nước giao khoán rừng cho các hộ quản lí, gắn trách nhiệm người bảo vệ, quản lí tài nguyên rừng
với lợi ích do rừng đem lại, kết hợp trồng rừng với trồng cây công nghiệp, làm vườn và chăn
nuôi, góp phần tạo ra sự bền vững về sinh thái và xã hội để phát triển rừng. Trên 1 triệu ha đất
lâm nghiệp đã được giao cho các hộ gia đình hơn 5 triệu ha cho các tổ chức kinh tế xã hội quản
lí. Tuy nhiên tỷ trọng lâm nghiệp trong cơ cấu giá trị toàn ngành nông nghiệp vẫn nhỏ bé và
ngày càng có xu hướng giảm. Năm 1991 là 7,99%, năm 1995 là 6,41%, năm 1997 là 5,5%.
10

10
Tốc độ tăng và cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp – thuỷ sản (giá so sánh) qua các
năm (%)
Năm Toàn khu vực Các ngành
Nông nghiệp Lâm nghiệp Thuỷ sản
Tổng số Trong đó Tổng số Chia ra
Trồng trọt Chăn nuôi Khai thác Nuôi
trồng
1990 1,9 (100) 1,6 (82,5) 1,4 2,4 2,8 (6,6) 3,7 (10,9) -4,9
9,0
1991 4,1 (100) 2,7 (81,4) 3,3 0,1 3,8 (6,7) 14,4 (11,9) 17,9
6,8
1992 7,4 (100) 8,4 (82,2) 7,6 13,2 -1,2 (6,1) 5,3 (11,7) 6,2
3,1
1993 6,5 (100) 6,6 (82,3) 6,8 5,6 -1,0 (5,7) 9,3 (12,0) 8,1
12,1
1994 6,8 (100) 4,9 (80,9) 4,7 5,6 3,3 (5,4) 21,7 (13,7) 21,2
22,8
1995 5,9 (100) 6,9 (81,6) 7,3 4,8 -3,3 (5,0) 3,8 (13,4) 1,0
10,3
1996 7,7 (100) 6,5 (80,7) 6,9 5,3 11,8 (5,2) 13,6 (14,1) 17,2
6,1
1997 6,4 (100) 7,0 (81,7) 7,0 7,8 -3,2 (4,8) 6,3 (14,1) 7,3
4,1
1998 4,9 (100) 5,7 (81,7) 6,0 4,8 -3,5 (4,3) 3,5 (14,0) 2,1
7,1
1999 7,4 (100) 7,3 7,6 7,0 7,0 7,9 7,0 10,0
2000 7,3 (100) 5,4 (80,2) 5,3 6,4 4,9 (4,2) 19,3 (15,6) 9,9
40,4
11

11
2001 4,9 (100) 2,6 (78,5) 2,3 4,2 1,9 (4,1) 17,4 (17,4) 3,5
41,9
2002 5,4 (100) 5,2 (78,3) 4,3 9,9 0,2 (3,9) 7,3 (17,8) 0,7
15,8
Nguồn: Kinh tế 2002-2003 Việt Nam và thế giới- Thời báo kinh tế Việt Nam
Trong cơ cấu kinh tế nông thôn, các ngành phi nông nghiệp (công nghiệp, ngành nghề và
dịch vụ) tăng dần từ dưới 10% năm 1989 lên 30% năm 1999 trong GDP nông thôn. Trong nông
nghiệp đang hình thành các mô hình kinh tế trang trại, mô hình kinh tế vườn + ao + chuồng +
rừng đã và đang tạo ra nhiều nông, lâm, thuỷ sản có giá trị tiêu dùng và xuất khẩu. Thời kì
1991-1995, trong tổng số 10 mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn nhất thì nông lâm thuỷ sản có 6
mặt hàng, đó là thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su, hạt điều và lạc nhân.
2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế trong nông nghiệp
nông thôn
Kinh tế hộ nông dân trở thành đơn vị tự chủ sản xuất kinh doanh, người nông dân đã bắt
đầu tính toán và quyết định cơ cấu sản xuất cây con, ngành nghề, gắn với quyền làm chủ đất đai
đồng ruông, vườn đồi. Điều đó cho phép tạo ra nghiều nông sản hàng hoá. Kinh tế hợp tác và
kinh tế quốc doanh trong nông nghiệp cũng đã đổi mới cả về nội dung và tổ chức hoạt dộng.
Hộ gia đình là cơ sở của kinh tế hộ gia đình cá thể, không chỉ có trong nông nghiệp mà
còn trong cả lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp. Kinh tế hộ gia đình cá thể nói chung và hộ gia đình
nông dân cá thể mang tính chất tự cấp, tự túc. Tính đến năm 2000, cả nước có đến hơn 12 triệu
hộ nông dân cá thể. Hình thức hộ gia dình cá thể đang có sự chuyển biến sâu sắc, là nguồn bổ
sung cho các hình thức kinh doanh.
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt.
Hợp tác xã dựa trên chế độ tư hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những
người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ, các thành phần kinh tế.
Các hợp tác xã trong nông nghiệp nông thôn được tổ chức lại, chuyển đổi thành các hợp
tác xã “dịch vụ nông nghiệp” hay “hợp tác xã chế biến nông sản”, “hợp tác xã vận tải”…Các
hợp tác xã mới hoạt động đã làm giảm chi phí đầu vào cho các hộ nông dân và giảm giá một số
dịch vụ, tăng thêm hiệu quả kinh tế của các hộ gia đình nông dân. Các hợp tác xã dịch vụ đảm

12
12
nhiệm 1-2 công việc chiếm 30%, các hợp tác xã dịch vụ đảm nhiệm nhiều khâu chiếm 60%, các
hợp tác xã dịch vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp chiếm 10%.
Kinh tế trang trại: chúng ta có trên 110.000 trang trại, trong đó riêng các tỉnh phía Bắc
có 67.000. Trong 3.044 trang trại điều tra ở 15 tỉnh: Hướng sản xuất kinh doanh chủ yếu là: Cây
công nghiệp lâu năm (1588trang trại)rải đều trên cả 3 vùng: Miền Bắc, Tây Nguyên và Duyên
hải miền Trung, Nam Bộ; sau đó là đến cây hàng năm (42 trang trại)tập trung ở miền Bắc và
Nam Bộ; cây ăn quả (344 trang trại); chăn nuôi lợn, gia cầm, gia súc…
2.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng
Cùng với sự chuyển biến của nền kinh tế, trên tất cả các vùng thành thị và nông thôn đều
có nhiều chuyển biến, bộ mặt thành thị và nông thôn đã khởi sắc. Riêng trong nông thôn có thể
thấy rõ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo các vùng như sau
- Nông nghiệp đã giải quyết về cơ bản mục tiêu lương thực, đảm bảo đủ lương thực cho
nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu với số lượng ngày càng tăng.
Các vùng đất cạn, vùng trung du và miền núi đã quan tâm phát triển các cây công
nghiệp, cây ăn qủa và chăn nuôi đại gia súc.Vùng đồng bằng kết hợp giữa luân canh cây lúa với
đa dạng các cây công nghiệp ngắn ngày, trồng rau, trồng các cây có giá trị kinh tế cao. Vùng
đồng bằng ven biển và mặt nước có thể cải tạo kết hợp phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và
nuôi trồng thuỷ sản.
- Nhà nước đã có những chương trình đầu tư trọng điểm khai thác tiềm năng và thế
mạnh của các vùng kinh tế – sinh thái trong cả nước, taok động lực thúc đẩy kinh tế của các
vùng.
- Trong nông thôn đã phục hồi và chấn hưng các làng nghề truyền thống, phát triển đa
dạng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thủ công mỹ nghệ truyền thống và một số ngành mới
như chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, may mặc… Thay đổi kết cấu các ngành sản
xuất trong nông thôn theo hướng “ly nông bất ly hương”.
- Trông khu vực nông thôn các hoạt động dịch vụ cũng được mở mang, bao gồm cả dịch
vụ phục vụ sản xuất, dịch vụ công cộng và đời sống
* Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vẫn còn tồn tại những bất cập sau:

13
13
Cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung và cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu kinh tế ngành
nông nghiệp nói riêng còn chuyển biến rất chậm. Hiện nay có khoảng 80% số hộ nông thôn
sống chủ yếu bằng nghề nông. Trong cơ cấu GDP nông thôn, tỷ trọng nông nghiệp vẫn chiếm
ưu thế tuyệt đối. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh tự cấp tự túc,
trình độ sản xuất hàng hoá vẫn còn thấp, tính chất quảng canh còn khá phổ biến và hiệu quả sản
xuất thấp. Sản xuất hàng hoá còn kém phát triển, nhiều vùng, nhiều địa phương, trồng trọt chăn
nuôi theo hướng tự cấp tự túc là chính.
Trong sản xuất nông nghiệp, trồng trọt thuần nông vẫn còn là phổ biến. Trong trồng trọt,
lương thực vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất, còn cây ăn quả, cây công nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ.
Thuỷ sản có phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Lâm nghiệp còn kém phát triển.
Nhìn chung cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chưa thoát khỏi tình trạng độc canh, tự cấp tự túc
và sản xuất hàng hoá nhỏ.
Công nghiệp nông thôn mới bước đầu phát triển còn rất nhiều yếu kém. Tình trạng phổ
biến ở nông thôn là thủ công, phân tán và công nghệ lạc hậu và có nguy cơ huỷ hoại môi trường
sinh thái. Tỷ trọng nông sản được chế biến công nghiệp còn quá thấp, mới chỉ đạt 30% sản
lượng mía, gần 60% chè, 5% rau quả, 1% thịt hơi… Nhìn chung ngành công nghiệp chế biến và
công nghệ sau thu hoạch chưa theo kịp tốc độ sản xuất nguyên liệu và có khoảng cách xa so với
yêu cầu về nâng cao chất lượng, hiệu quả nông sản.
Các ngành nông – lâm – ngư nghiệp chưa gắn bó với nhau trong một cơ cấu kinh tế
thống nhất. Tình trạng phổ biến trong các mô hình công nông nghiệp, mô hình nông nghiệp –
công nghiệp chế biến là phát triển rời rạc chưa tạo thành tổng thể chặt chẽ, thậm chí còn xảy ra
tình trạng gây trở ngại mâu thuẫn cho nhau. Tổ chức tiêu thụ nông sản chưa đáp ứng kịp tốc độ
phát triển sản xuất hàng hoá…
Như vậy cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chưa gắn chặt với cơ cấu kinh tế nông thôn,
chưa hướng tới công nghiệp hoá, cơ sở hạ tầng còn nhiều điểm chưa phù hợp và đồng bộ gây
trở ngại cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
2.2. Thị trường sức lao động đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
nước ta thời gian qua

2.2.1.Những thành tựu của thị trường sức lao động nông nghiệp, nông thôn.
14
14

×