Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

CHUYÊN ĐỀ 3: Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.95 KB, 43 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN HÀ NỘI

CHUYÊN ĐỀ TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
CHUYÊN ĐỀ 3: Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của cán
cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
Nhóm chuyên đề: - Đỗ Thị Ánh Hồng
- Lê Thị Thuý Hồng
- Đoàn Thị Huế
- Bùi Tuấn Hùng
- Mai Thị Hương
- Đặng Hoàng Lan
- Đào Thị Thanh Loan
Người hướng dẫn: TS. Đặng Ngọc Đức


1
Hà Nội - 2013
2
Chuyên đề 3: Cải thiện cơ cấu và hạn chế thâm hụt của
cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô
quan trọng phản ánh hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại
của thế giới. Nó có quan hệ chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác như
bảng cân đối ngân sách, cân đối tiền tệ, hệ thống tài khoản quốc gia. Chính vì vậy,
cán cân thanh toán đã trở thành công cụ quan trọng để đề ra các chính sách phát
triển kinh tế và những diễn biến trong cán cân thanh toán của một nước là mối
quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách.

Tuy nhiên, để lập được một bản cán cân thanh toán quốc tế đầy đủ chính
xác và kịp thời là một việc rất khó khăn do phạm vi thu thập số liệu cán cân thanh
toán quốc tế quá rộng. Việc phân tích các tình trạng và đưa ra các giải pháp điều
chỉnh cán cân thanh toán trong từng thời kì phát triển kinh tế của một quốc gia
cũng là việc khó do các khu vực trong nền kinh tế có quan hệ tác động lẫn nhau.
Có thể nói rằng việc thành lập, phân tích điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế đối
với Việt Nam là rất mới mẻ và thiếu kinh nghiệm, để cán cân thanh toán quốc tế
trở thành một công cụ phân tích, quản lý tốt các hoạt động kinh tế đối ngoại thì
vấn đề cấp thiết là phải có sự nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn trong việc
thành lập, phân tích và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế.
I/ Tổng quan về cán cân thanh toán quốc tế
1.1 Những vấn đề cơ bản về cán cân thanh toán quốc tế

1.1.1 Khái niệm hay quan niệm về CCTTQT
- Là bảng cân đối, so sánh và đối chiếu giữa các khoản tiền thu được từ ở
nước ngoài với các khoản tiền phải chi trả cho nước ngoài của một quốc gia trong
một thời kỳ nhất định.
- Là một biểu tổng hợp phản ánh tất cả các giao dịch dưới hình thức tiền tệ
của một nước với các nước khác.
3
- Là một bản báo cáo thống kê ghi chép và phản ánh các giao dịch kinh tế
giữa những người cư trú với người không cư trú trong một khoảng thời gian nhất
định (thường là một năm)
(Theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/2009 của Chính phủ về
quản lý CCTT quốc tế của Việt Nam)

1.1.2 Phân loại cán cân thanh toán quốc tế
- Cán cân thời điểm khác với cán cân thời kỳ:
+ Cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định là bản đối chiếu giữa các
khoản tiền đã và sẽ thu về và chi ra ở một thời điểm cụ thể nào đó. Vậy trong loại
cán cân thanh toán này chứa đựng cả những số liệu phản ánh các khoản tiền nợ
nước ngoài và nước ngoài nợ nước đó mà thời hạn thanh toán rơi đúng vào ngày
của cán cân.
+ Cán cân thanh toán trong một thời kỳ là bản đối chiếu giữa những khoản
tiền thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế nước đó chi
ra cho nước ngoài trong một thời kỳ nhất định. Vậy loại cán cân này chỉ phản ánh
số liệu thực thu và thực chi của một nước đối với nước ngoài trong thời kỳ đã qua.
1.1.3.Vai trò của cán cân thanh toán quốc tế

- Ở tầm quản lý kinh tế vĩ mô:
+ Chính sách đối ngoại nói chung và chính sách thương mại quốc tế nói
riêng
+ Kiểm soát sự di chuyển của các luồng vốn: Đầu tư nước ngoài và xuất
khẩu vốn
+ Điều hành chính sách tỷ giá
- Ở tầm vi mô:
+ Cung cầu ngoại tệ và dự đoán sự biến động tỷ giá
4
+ Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
+ Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
1.1.4 Nguyên tắc hạch toán

- Bên thu: khoản thu từ người không cư trú được ghi “có” và biểu hiện
bằng dấu “+”: phản ánh sự gia tăng của cung ngoại tệ
- Bên chi: Khoản chi cho người không cư trú được ghi “nợ” và biểu hiện
bằng dấu “-”, phản ánh sự gia tăng về cầu ngoại tệ
Việc ghi chép theo các nguyên tắc nhất định và thống nhất:
- Nguyên tắc ghi nợ và ghi có:
Ghi nợ phản ánh lượng giá trị bị giảm xuống (khoản chuyển ra nước ngoài)
và được ghi dấu âm (-) trong CCTT.
Ghi có phản ánh lượng giá trị tăng lên (khoản nhận từ nước ngoài) và được
ghi dấu (+) trong CCTT.
Việc phân biệt khoản có hoặc khoản nợ có thể dựa vào luồng tiền di chuyển
giá trị hoặc luồng tiền thanh toán. Các giao dịch chưa được thực hiện trong kỳ

không được hạch toán trong CCTT, nghĩa là CCTT chỉ hạch toán những giao dịch
diễn ra thực sự.
- Nguyên tắc ghi sổ kép:
Tất cả các giao dịch phát sinh ghi có đều phải được cân bằng lại bằng cách
ghi nợ vào khoản mục tương ứng và ngược lại.
Tổng số các khoản ghi nợ phải bằng tổng số các khoản ghi có.
Do đó tổng đại số các giao dịch trong CCTT bằng 0.
Việc thực hiện nguyên tắc trên thông qua tài khoản ghi chép các khoản nợ
và có của giao dịch.
5
1.2 Nội dung của cán cân thanh toán quốc tế
1.2.1. Cán cân vãng lai – current account balance:

- Cán cân vãng lai được tổng hợp toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế
giữa Người cư trú và Người không cư trú về hàng hóa, dịch vụ, thu nhập của
người lao động, thu nhập từ đầu tư trực tiếp, thu nhập từ đầu tư vào giấy tờ có giá,
lãi vay và lãi tiền gửi nước ngoài, chuyển giao vãng lai một chiều và các giao dịch
khác theo quy định của pháp luật.
+ Cán cân thương mại
+ Cán cân dịch vụ
+ Cán cân thu nhập
+ Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều
- Cán cân thương mại: Hạch toán tất cả các khoản thu từ xuất khẩu hàng
hoá và các khoản chi để nhập khẩu hàng hoá. Bảng cân đối thu chi của phần này
được gọi là cán cân thương mại. Thông thường đây là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn

nhất trong tài khoản vãng lai. Tất cả các số liệu xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá
được ghi chép trong cán cân thanh toán được tính theo giá FOB hoặc FAS.
- Cán cân dịch vụ: Hạch toán các khoản thu từ xuất khẩu và chi để nhập
khẩu các loại hình dịch vụ. Bảng cân đối thu và chi của phần này gọi là cán cân
dịch vụ. Theo tiêu chuẩn của IMF, hạng mục này có thể phân chia thành:
a. Dịch vụ vận chuyển: cước phí, hành khách, các khoản khác
b. Dịch vụ du lịch: bao gồm các chi phí khách sạn và nhà trọ, các chi phí du
lịch khác (nhà hàng, các chuyến thăm quan ).
c. Các dịch vụ khác. Bao gồm:
- Dịch vụ chính phủ:
6
+ Các giao dịch của các Đại sứ quán, các nhà tư vấn, các cơ quan quân sự

quốc phòng.
+ Các giao dịch với các cơ quan khác như: Phái đoàn viện trợ, các phái
đoàn du lịch Chính phủ, thông tin và các văn phòng thúc đẩy thương mại.
- Dịch vụ tư nhân:
+ Các dịch vụ thông tin và tin học.
+ Các dịch vụ xây dựng.
+ Các dịch vụ bảo hiểm.
+ Các chi phí bản quyền và giấy phép.
+ Các dịch vụ tài chính.
+ Các dịch vụ kinh doanh khác.
+ Các dịch vụ phục vụ cá nhân.
- Cán cân thu nhập: Hạch toán tất cả các khoản thu nhập từ hai yếu tố sản

xuất: Lao động và vốn. Thu nhập từ lao động gọi là thu nhập của người lao động.
Thu nhập từ vốn gọi là thu nhập đầu tư.
a. Thu nhập của người lao động bao gồm lương, thưởng và các khoản thu
nhập khác bằng tiền hoặc bằng hàng do người không cư trú trả cho người cư trú
và ngược lại.
b. Thu nhập đầu tư bao gồm:
+ Thu nhập đầu tư trực tiếp (các khoản thu nhập đầu tư và tái đầu tư)
+ Thu nhập đầu tư vào giấy tờ có giá (thu nhập do nắm giữ cổ phiếu, trái
phiếu,các giấy tờ có giá và các công cụ tài chính khác).
+ Thu nhập đầu tư khác: các khoản thu về tài sản của người cư trú
7
- Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều: Ghi chép các khoản chuyển giao

dưới dạng không hoàn lại như quà tặng, viện trợ và các khoản chuyển giao khác
bằng tiền mặt hoặc hiện vật giữa người cư trú và người không cư trú cho mục đích
tiêu dùng này bao gồm:
a. Chuyển giao khu vực chính phủ
- Các khoản viện trợ không hoàn lại (các khoản chuyển giao bằng tiền hoặc
bằng hàng ví dụ như quà tặng về thực phẩm, quần áo, thuốc men và hàng tiêu
dùng khác với mục đích cứu trợ)
- Các khoản chuyển giao khác
b. Chuyển giao khu vực phi chính phủ
Chuyển tiền của người lao động bao gồm những khoản chuyển tiền của
công nhân lao động ở nước ngoài hơn một năm chuyển về nước. Tiền lương của
lao động ở nước ngoài dưới một năm cần hạch toán trong mục thu nhập của người

lao động.
Các khoản viện trợ của tổ chức phi chính phủ (như tổ chức chữ thập đỏ
quốc tế ) bằng tiền hoặc bằng hàng hoặc trợ giúp dưới hình thức kỹ thuật.
1.2.2 Cán cân di chuyển vốn – capital account balance
- Cán cân vốn và tài chính tổng hợp toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh
tế giữa Người cư trú với Người không cư trú về chuyển vốn từ nước ngoài vào
Việt Nam và chuyển vốn từ Việt Nam ra nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp, đầu tư vào giấy tờ có giá, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ
nước ngoài, chuyển giao vốn một chiều, các hình thức đầu tư khác và các giao
dịch khác theo quy định của pháp luật Việt Nam làm tăng hoặc giảm tài sản có
hoặc tài sản nợ.
Cán cân di chuyển vốn dài hạn

Cán cân di chuyển vốn ngắn hạn
8
Cán cân di chuyển vốn một chiều
- Cán cân di chuyển vốn dài hạn
Bao gồm các khoản vốn đi ra hay đi vào của khu vực tư nhân và khu vực
nhà nước dưới các hình thức đầu tư trực tiếp, gián tiếp và các hình thức đầu tư dài
hạn khác.
Luồng vốn đi vào phản ánh sự gia tăng của Nguồn vốn (TSN), nhưng làm
tăng cung ngoại tệ nên vẫn được ghi “Có” với dấu “+”. Ngược lại, luồng vốn đi ra
phản ánh sự ra tăng của TS (TSC) song lại làm tăng cầu ngoại tệ nên vẫn được ghi
vào bên “Nợ” với dấu “-”.
Quy mô và tình trạng cán cân vốn dài hạn phụ thuộc vào các nhân tố như:

Tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng dài hạn, hiệu quả biên của vốn đầu tư (MEI hay ICOR)
và các yếu tố thuộc về môi trường đầu tư, sự ổn định về chính trị, xã hội.
- Cán cân di chuyển vốn ngắn hạn
Cũng bao gồm các khoản vốn đi ra hay đi vào của khu vực tư nhân (chiếm
tỷ trọng lớn) và khu vực nhà nước nhưng dưới rất nhiều các các hình thức khác
nhau: Tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, các hoạt động trên kinh doanh
ngoại hối và giấy tờ có giá ngắn hạn kể cả các luồng vốn đầu cơ.
Luồng vốn đi vào phản ánh sự gia tăng của NV (TSN), như đã đề được cập,
do làm tăng cung ngoại tệ nên vẫn được ghi “Có” với dấu “+”. Ngược lại, luồng
vốn đi ra phản ánh sự ra tăng của TS (TSC) song lại làm tăng cầu ngoại tệ nên vẫn
được ghi vào bên “Nợ” với dấu “-”.
Khác với cán cân vốn dài hạn, quy mô và tình trạng cán cân vốn ngắn hạn

phụ thuộc vào các nhân tố như: Chênh lệch tỷ giá, tỷ suất lợi tức kỳ vọng ngắn
hạn, lãi suất và các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế, chính trị - xã hội.
- Cán cân chuyển giao vốn một chiều
9
Bao gồm các khoản chuyển giao vốn một chiều như viện trợ không hoàn lại
với mục đích đầu tư, các khoản nợ được xoá.
Khi được nhận các khoản viện trợ không hoàn lại và được xoá nợ, tương tự
như luồng vốn đi vào, gia tăng NV (TSN), làm tăng cung ngoại tệ nên được ghi
“Có” với dấu “+”. Ngược lại, khi viện trợ hay xoá nợ cho người không cư trú,
luồng vốn đã đi ra làm tăng cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên “Nợ” với dấu “-”.
Khác với các cán cân vốn trên đây, quy mô và tình trạng cán cân chuyển
giao vốn một chiều phụ thuộc chủ yếu vào các mối quan hệ ngoại giao, hợp tác

kinh tế - chính trị - xã hội giữa các nước có chung lợi ích và tình hữu nghị đặc
biệt.
1.2.3. Tài khoản dự trữ:
- Ghi lại những thay đổi về tài sản dự trữ của cơ quan quản lư tiền tệ để tài
trợ và điều hoà sự mất cân đối của cán cân thanh toán. Nó có thể là những dạng
sau:
a, Vàng tiền tệ: Vàng tinh chế thuộc sở hữu của các cơ quan quản lư tiền tệ.
Các giao dịch bằng vàng tiền tệ chỉ xảy ra giữa các ngân hàng Trung ương các
nước hoặc với các tổ chức tiền tệ Quốc tế.
b, Quyền rút vốn đặc biệt (SDR): Đơn vị tiền tệ của quỹ IMF.
c, Ngoại hối: Các phương tiện có giá trị được dùng để tiến hành thanh toán
giữa các quốc gia (ví dụ: Ngoại tệ tiền mặt, tiền gửi và các phương tiện thanh toán

Quốc tế ghi bằng ngoại tệ )
1.2.4. Sai sót thống kê:
Phản ánh phần chênh lệch do sai sót thống kê của tất cả các hạng mục trong
cán cân thanh toán.
1.3. Một số phân tích cơ bản
Cán cân vãng lai = Cán cân hữu hình + cán cân vô hình
10
Cán cân cơ bản = Cán cân vãng lai + cán cân di chuyển vốn dài hạn
Cán cân tổng thể = Cán cân vãng lai + Cán cân di chuyển vốn + Sai sót
Cán cân bù đắp chính thức = - Cán cân tổng thể
A. Dư thừa và thiếu hụt cán cân thanh toán.
Theo hệ thống kế toán bút toán kép, tổng các khoản ghi nợ bằng tổng các

khoản ghi có cán cân thanh toán luôn cân bằng. Về nguyên tắc, các giao dịch được
ghi trong cán cân thanh toán được chia làm hai loại chính: giao dịch tự định và
giao dịch điều chỉnh. Giao dịch tự định là những giao dịch được thực hiện vì lợi
của bản thân chúng. Điểm đặc trưng của giao dịch tự định là chúng được thực hiện
độc lập không phụ thuộc vào trạng thái của cán cân thanh toán của nước lập báo
cáo. Tất cả các giao dịch khác được gọi là giao dịch điều chỉnh. Các giao dịch điều
chỉnh không được thực hiện vì lợi ích của chính nó. Đúng hơn, khi các giao dịch
tự định để lại một lỗ hổng cần phải được bù đắp thì giao dịch điều chỉnh phải được
thực hiện để bù đắp lỗ hổng đó (vì thế mà giao dịch tự điều chỉnh còn được gọi là
giao dịch bù đắp).
Hăy tưởng tượng một đường nằm ngang được vẽ xuyên qua một bảng cán
cân thanh toán. Phía trên đường tưởng tượng đó, đặt tất cả các giao dịch tự định;

phía dưới, đặt các giao dịch điều chỉnh. Khi số dư các giao dịch tự định bằng
không (có nghĩa là các khoản thu tự định bằng các khoản chi tự định), cán cân
thanh toán là cân bằng. Khi tổng các khoản thu tự định (những khoản có) lớn
hơn tổng các khoản chi tự định (những khoản nợ), có một thặng dư; và khi tổng
số các khoản thu tự định nhỏ hơn tổng số các khoản chi tự định, có một thâm
hụt. Trong mỗi trường hợp, sự đo lượng mất cân bằng kế toán (thặng dư hay
thiếu hụt) được xác định bằng chênh lệch giữa tổng số những khoản thu tự định
và tổng số những khoản chi tự định.
Do cán cân thanh toán là đồng nhất thức, chúng ta luôn có:
Tổng các giao dịch tự định + tổng các giao dịch điều chỉnh = 0
11
Hay: Tổng các giao dịch tự định = - Tổng các giao dịch điều chỉnh

Do đó, đo lường sự mất cân bằng các cân thanh toán cũng có thể xác định
được là số âm của chênh lệch giữa các khoản thu và chi của giao dịch điều chỉnh.
Tuy nhiên, sự phân biệt giữa giao dịch tự định và giao dịch điều chỉnh
trong thực tế là không rõ ràng do đó không có cách đo lường kế toán duy nhất về
sự mất cân bằng cán cân thanh toán. Nói chung, để phản ánh trạng thái của cán
cân thanh toán quốc tế của một nước người ta thường dùng cán cân tổng thể (tổng
hợp cán cân vãng lai và cán cân vốn và tài chính). Tuy nhiên, cán cân tổng thể đôi
khi không được đánh giá chính xác bằng cán cân vãng lai bởi vì nó không phản
ánh đúng năng lực sản xuất hay khả năng cạnh tranh kinh tế của một nước. Chẳng
hạn, khi một nước thặng dư cán cân thanh toán, điều này nghe có vẻ lành mạnh
nhưng nếu đi sâu vào phân tích từng chỉ tiêu lại thấy cán cân vãng lai bị thiếu hụt
lớn và được tài trợ hoàn toàn bằng vay nợ, đầu tư nước ngoài. Do đó, sự phân tích

thoả đáng về cơ cấu tài trợ liên quan đến sự ổn định các cân vãng lai trong tương
lai là rất cần thiết.
B. Phân tích tài khoản vãng lai:
Như ta đã biết, trong cán cân thanh toán, cán cân vãng lai giữ vai trò đặc
biệt quan trọng. Vì vậy, khi phân tích cán cân thanh toán cần phải chú trọng phân
tích cán cân vãng lai và số dư tài khoản vãng lai.
Các nhà kinh tế học cho rằng những định nghĩa khác nhau thể hiện những
mặt khác nhau của cán cân vãng lai. Trên thực tế, có bốn định nghĩa về cán cân
vãng lai và sự lựa chọn định nghĩa nào phụ thuộc vào mục đích phân tích.
Thứ nhất: cán cân vãng lai đo lường các giao dịch kinh tế của một nước
với phần còn lại của thế giới về hàng hoá, dịch vụ, thu nhập và chuyển giao một
chiều (định nghĩa trong Rivera-Batiz, 1989, trang 119). Hay nói cách khác, cán

cân vãng lai là tổng của chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá và dịch
vụ (X-M) cộng với thu nhập yếu tố ròng từ nước ngoài (NF) và chuyển khoản
ròng từ nước ngoài (NTR). Theo định nghĩa này, tài khoản vãng lai (CA) sẽ bằng:
12
CA= X-M+NF+NTR
Theo định nghĩa này, khi thâm hụt ngân sách vượt quá 5% đến 6% GDP có
thể có vấn đề và cần chú trọng yếu tố nào đã gây ra thâm hụt. Liệu có phải do
người dân đã nhập quá nhiều hàng hoá và dịch vụ? Phần thâm hụt do tiêu dùng
bùng nổ có thể được tài trợ bởi phần rót ra từ các tài khoản dự trữ hoặc tăng các
khoản nợ. Trong cả hai trường hợp đều có thể gây ra nhiều vấn đề song tăng các
khoản nợ, đặc biệt là các khoản vay ngắn hạn có thể cho thấy dấu hiệu của một
nền kinh tế suy yếu và các chính sách gia cần có những hành động khẩn trương.

Người đảm nhiệm công tác phân tích cán cân thanh toán cần được cung cấp đầy
đủ các thông tin chi tiết để cố vấn cho các nhà hoạch định chính sách giúp họ đưa
ra các quyết định đúng đắn và kịp thời.
Thứ hai: cán cân vãng lai được định nghĩa như chênh lệch giữa thu nhập
và chi tiêu của nền kinh tế.
CA= Y- A
A= C + I + G
Trong đó:
Y: thu nhập
A: chi tiêu
C: tiêu dùng tư nhân
I : Đầu tư tư nhân

G: Chi tiêu và đầu tư của chính phủ
Định nghĩa này được Alexander đưa ra vào năm 1950. Từ định nghĩa trên
ta thấy, cán cân vãng lai của một nước chỉ có thể được cải thiện bằng sự tăng tương
đối của thu nhập quốc dân so với chi tiêu hay sự giảm tương đối chi tiêu so với thu nhập
quốc dân.
13
Thứ ba: cán cân vãng lai là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư của toàn bộ
nền kinh tế.
CA = S - I
S: Tiết kiệm trong nước I: Đầu tư trong nước CA : Cán cân vãng lai
Nếu chia tổng tiết kiệm (S) và đầu tư (I) của toàn bộ nền kinh tế thành các
phần về khu vực chính phủ và tư nhân. Ta có:

CA = (Sp+Sg) – (IP+Ig) hay CA= (Sp-Ip) + (Sg-Ig)
hay: CA = (Sp-Ip) + (Sg-Ig)
Công thức trên cho thấy cán cân vãng lai bằng chênh lệch của khu vực tư
nhân cộng khu vực chính phủ. Vì vậy, khi đề ra các biện pháp, chính sách nhằm
cải thiện cán cân vãng lai phải nghiên cứu tác động của chúng tới hành vi tiết
kiệm và đầu tư. Nếu thâm hụt tài khoản vãng lai xuất hiện do các hoạt động đầu tư
mạnh dẫn đến phần thâm hụt này cần được tài trợ bởi đầu tư trực tiếp tại nước báo
cáo hoặc phần tăng trong các khoản vay bên ngoài hay bởi đầu tư chứng khoán.
Tỷ lệ thâm hụt tài khoản vãng lai tương đối lớn (6% hoặc 7%) có thể là bền vững
nếu nó liên quan đến các hoạt động đầu tư trực tiếp mạnh ở nước báo cáo.
Thứ tư: khi công dân một nước cho vay hay mượn một lượng tiền của
nước ngoài, họ đã tạo ra mét quan hệ tài sản với phần còn lại của thế giới. Vì vậy,

khi phân tích tiết kiệm và đầu tư, phải tính đến nguồn tài chính nước ngoài. Từ đó,
có thể định nghĩa tài khoản vãng lai như những thay đổi trong tài sản nước ngoài
ròng của quốc gia lập báo cáo với phần còn lại của thế giới.
CA= B*
t
- B
t-1
*
B*
t
: Tài sản nước ngoài ròng giai đoạn hiện tại
B

t-1
*: Tài sản nước ngoài ròng giai đoạn trước
Định nghĩa này được Sarch và Larrain mở rộng từ định nghĩa trên. Theo
đó, các thay đổi tài sản nước ngoài có thể bù đắp được tình trạng thâm hụt của tài
14
khoản vãng lai. Thặng dư tài khoản vãng lai có nghĩa là nước này đang tích luỹ tài
sản quốc tế. Ngược lại, thâm hụt tài khoản vãng lai nghĩa là nước này đang giảm
dần tài sản quốc tế ròng hoặc tăng thêm nghĩa vụ nợ nước ngoài. Như vậy, có thể
định nghĩa tài khoản vãng lai là sự thay đổi vị thế đầu tư quốc tế của một nước.
Như vậy, để tìm ra nguyên nhân dẫn đến sự thâm hụt tài khoản vãng lai
cũng như đưa ra những biện pháp điều chỉnh có hiệu quả để cải thiện tình trạng,
cần phải có sự phân tích cụ thể từng khoản mục trong cán cân vãng lai, đặc biệt là

cán cân thương mại.
Thâm hụt cán cân vãng lai không phải bao giờ cũng xấu, điều đó còn phụ
thuộc vào khả năng thanh toán của một nước. Khả năng thanh toán được đánh giá
thông qua các chỉ số vĩ mô như: tỷ lệ xuất khẩu/GDP, tỷ giá hối đoái thực tế, tiết
kiệm với đầu tư nội địa. Nếu một quốc gia có tỷ lệ xuất khẩu/GDP lớn, tỷ giá hối
đoái ổn định và sát với thực tế, mức tiết kiệm và đầu tư cao dẫn đến thâm hụt cán
cân thương mại nếu có cũng làm cho khả năng gây ra khủng hoảng kinh tế. Một
tiêu chí quan trọng khác để đánh giá tình trạng cán cân thanh toán quốc tế của một
nước là khả năng chịu đựng của cán cân thanh toán vì nó chú trọng đến những yếu
tố nói trên. Đối với một nước có nợ nước ngoài dương và thâm hụt cán cân vãng
lai, một "điểm uốn" giữa thâm hụt và thặng dư là cần thiết để đảm bảo khả năng
thanh toán và khả năng chịu đựng. Một tiêu chuẩn cần được xét đến khi đánh giá

khả năng chịu đựng là liệu "điểm uốn" có thể đạt được một cách suôn sẻ và không
gây những bất ổn cho nền kinh tế khi cán cân thương mại đảo chiều đột ngột từ
thâm hụt sang thặng dư, không tạo ra sự thay đổi lớn trong chính sách (ví dụ:
chính sách thắt chặt đột ngột) và không gây ra tình trạng rệu rã của nền kinh tế.
Ngoài ra, tài khoản vãng lai bao gồm tài khoản thương mại hàng hoá và
dịch vụ, tài khoản thu nhập và tài khoản chuyển giao vãng lai. Do đó cần phải
phân tích cụ thể từng tài khoản này để tìm ra nguyên nhân của thâm hụt tài khoản
vãng lai và đưa ra được các biện pháp điều chỉnh thích hợp. Trong đó cần đặc biệt
phân tích cán cân thương mại vì đây thường là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thiếu
hụt cán cân vãng lai và cũng là đối tượng chính khi cán cân thanh toán mất cân
bằng cơ bản.
15

C. Phân tích tài khoản vốn và tài chính
Tài khoản vốn và tài chính bao gồm các luồng vốn dài hạn và ngắn hạn,
chạy vào hoặc chạy ra khỏi một nước. Hay nói cách khác, nó là tổng đầu tư của
nước ngoài và số vay nợ nước ngoài. Như vậy, tình trạng của cán cân thanh toán
có liên quan trực tiếp đến tình trạng tài sản ngoại tệ của một nền kinh tế. Vì vậy,
một gợi ý nhằm giảm bớt thâm hụt cán cân thanh toán là sự điều chỉnh chính sách
của chính phủ nhằm thu hút đầu tư tư nhân hoặc tìm kiếm các khoản vay nước
ngoài.
Đối với bất cứ nước nào, con đường phát triển cũng đầy rẫy trở ngại. Một
trong những trở ngại là tiết kiệm không đáp ứng nhu cầu đầu tư. Vì vậy, sự phụ
thuộc vào nguồn tư bản nước ngoài để bổ sung cho nguồn vốn trong nước giai
đoạn đầu phát triển là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, vì lượng tư bản vay hôm nay sẽ

phải trả trong tương lai nên việc sử dụng chúng một cách có hiệu quả là một điều
vô cùng quan trọng.
Có nhiều nguồn tài trợ cho sự thâm hụt cán cân vãng lai nhưng xét về mặt
hiệu quả sử dụng vốn, đầu tư trực tiếp nước ngoài được đánh giá cao hơn cả vì nó
không ảnh hưởng nhiều tới cán cân thanh toán, tới tổng nợ nước ngoài cũng như
tăng trưởng kinh tế và không tạo ra dư nợ. Ngoài ra, nó còn là nhịp cầu để chuyển
giao công nghệ, kỹ thuật quản lý hiện đại giúp đất nước đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hoá và dịch vụ. Tuy nhiên, cần chú ý rằng các nguồn vốn đầu tư này sẽ làm tăng
nguồn chuyển giao ra nước ngoài, một khi lợi nhuận và cổ tức được các nhà đầu
tư nước ngoài chuyển về nước.
Nhìn chung, các luồng đầu tư nước ngoài khác nhau, dù có tạo ra dư nợ hay
không đều tiềm ẩn những mất mát nhất định đối với nước tiếp nhận. Beceer và

Hargin gợi ý rằng: "Khi thu hút đầu tư nước ngoài, trước hết các công ty trong
nước cần xác định những khó khăn mà họ phải chấp nhận đối với từng hình thức
đầu tư và sau đó cân nhắc xem liệu tại những thời điểm nhất định nó có đem lại
lợi ích để duy trì hay không?".
16
Nhiều nước đang phát triển sử dụng nguồn vốn nước ngoài trong tài khoản
tài chính để hỗ trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai và tốc độ phát triển kinh tế trong
tài sản dự trữ. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích thiết thực, những thay đổi của
nguồn vốn này cũng gây lo lắng cho những nhà hoạch định chính sách vĩ mô. Vì
vậy, khi xác định rủi ro và khó khăn của mỗi dạng đầu tư nước ngoài, chúng ta cần
quan tâm ba vấn đề sau:
- Vấn đề thời hạn vay nợ: những khoản nợ ngắn hạn thường rủi ro hơn vì

chủ nợ thường yêu cầu trả nợ gốc hơn là nhận lãi trong giai đoạn ngắn.
- Liệu nguồn tư bản nước ngoài có tạo ra gánh nặng nợ nần hay không? Ví
dụ: Nếu đi vay thì tình hình kinh doanh tốt hay xấu, việc trả nợ vẫn phải tiến hành.
Trong khi đó, cổ đông chỉ nhận được cổ tức khi công ty bán cổ phiếu cho họ làm
ăn phát đạt.
- Nguồn vốn trên từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hay là
những khoản vay mang tính chất thương mại.
Theo ngân hàng thế giới, một nước được coi là nợ nần nghiêm trọng nếu
như tỷ lệ giữa giá trị hiện tại ròng của tổng các khoản trả nợ (PV) và GDP vượt
quá 80% hoặc tỷ lệ giữa giá trị hiện tại ròng của tổng các khoản trả nợ và tổng
xuất khẩu lớn hơn 220%. Ngược lại một quốc gia được coi là có khả năng chịu
đựng nợ nếu như chính phủ có thể thực hiện được toàn bộ các nghĩa vụ trả nợ quá

hạn trong một thời gian dài, nếu như các khoản nợ đến hạn chiếm tối đa từ 20-
25% xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Bên cạnh việc xem xét các khoản nợ theo chủng loại và thời hạn của các
công cụ nhận nợ, vì thế cũng nên phân tích xu hướng thay đổi theo khu vực các tổ
chức. Cụ thể là khu vực chính phủ và tư nhân bởi vì những khu vực này chịu ảnh
hưởng của những yếu tố khác nhau. Các luồng thay đổi của khu vực chính phủ
chủ yếu được quy định bởi nhu cầu của ngân sách nhà nước. Ngược lại, các luồng
thay đổi trong khu vực tư nhân lại tuỳ thuộc vào mức sinh lời của tài sản trong và
ngoài nước.
17
Nhiều nước đang phát triển sử dụng các luồng vốn vào trong tài khoản tài
chính để hỗ trợ bù đắp cho mức thâm hụt cán cân vãng lai do nhập khẩu và tốc độ

phát triển kinh tế tăng lên, hoặc tăng tài sản dự trữ. Mặc dù có nhiều lợi ích như
vậy, nhưng những thay đổi đột ngột của số vốn rất lớn này cũng gây ra nhiều lo
lắng cho các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô. Luồng vốn có 4 vấn đề cần
quan tâm chủ yếu sau đây:
+ Các luồng vốn chảy vào có thể chỉ mang tính tạm thời, và do vậy có thể
được rót ra rất nhanh.
+ Các luồng chảy vào này có thể kích thích tăng cung tiền và làm tăng mức
lạm phát trong nước nếu như ngân hàng trung ương can thiệp vào thụ trường
ngoại hối để mua ngoại tệ cung ứng dư thừa. Những hậu quả gây lạm phát như
vậy có thể tránh được nếu như hoạt động can thiệp này mang tính chất có khả
năng triệt tiêu hiệu ứng tăng cung tiền.
+ Nếu ngân hàng trung ương không can thiệp thì luồng vốn chảy vào có thể

làm cho giá của đồng bản tệ tăng lên.
+ Các luồng chảy vào có thể đảm bảo cho hiện tượng tiêu dùng tăng tạm
thời và điều này cuối cùng sẽ dẫn đến việc cắt giảm chi tiêu để trả số nợ tích luỹ.
Từ đó, đưa ra những nghiên cứu sử dụng chúng một cách hiệu quả. Ví dụ:
nguồn vốn ODA nên đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo tiền đề cho luồng
FDI chảy vào trong nước.
D. Phân tích tài khoản dự trữ và tài trợ:
Trước đây, tổng tài sản dự trữ được coi là nguồn bù đắp chủ yếu cho thiếu
hụt cán cân thanh toán và hỗ trợ cho chính sách tỷ giá cố định. Ngày nay, trong
điều kiện chế độ tỷ giá thả nổi và xu hướng toàn cầu hoá trở nên phổ biến, nhiều
hình thức bù đắp khác đã được áp dụng (ví dụ: vay nước ngoài). Vì thế, sự thay
đổi trong tài sản dự trữ không phải lúc nào cũng phản ánh độ lớn trạng thái mất

cân bằng của cán cân thanh toán.
18
- Công thức tính tài sản dự trữ ròng:
Tài sản dự trữ ròng = Tổng tài sản dự trữ - Các khoản nợ ngoại tệ của hệ
thống ngân hàng
Về nguyên tắc, mức dự trữ cần thiết được đánh giá trên cơ sở tổng trị giá
hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu dự kiến hoặc khả năng dễ bị tổn thương về tài
chính. Nhưng dù sử dụng chỉ số nào thì mức dự trữ cần thiết cũng phụ thuộc rất
nhiều vào chế độ tỷ giá hối đoái. Thông thường, một quốc gia theo chế độ tỷ giá
cố định cần nhiều dự trữ hơn so với một quốc gia theo chế độ tỷ giá thả nổi với
chế độ tỷ giá thả nổi, mức dự trữ cần thiết chỉ để cải thiện những biến động xấu do
tỷ giá gây ra. Ngoài ra, về cơ bản thì mức độ tin cậy của các chính sách kinh tế và

lòng tin của thị trường vào các chính sách này là yếu tố quan trọng để đánh giá
mức độ dự trữ cần thiết.
Theo thông lệ quốc tế, dự trữ ngoại tệ thường được tính theo tháng nhập
khẩu. Chỉ số này đo lường tổng tài sản dự trữ ngoại tệ của một nước so với giá trị
nhập khẩu hàng tháng.
II. Thực trạng cán cân thanh toán quốc tế tại Việt Nam
2.1 Giai đoạn 2005-2007
2.1.1. Cán cân vãng lai
2.1.1.1. Cán cân thương mại
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2005 2006 2007
XK 32.447 39.826 48.561

NK 34.886 42.602 58.921
TB = XK - NK -2.439 -2.776 -10.360
% so với GDP -4,6 -4,6 -14,5
19
Năm 2005, 2006 mức thâm hụt cán cân thương mại tuy có giảm so với
những năm trước nhưng vẫn ở mức cao. Đặc biệt trong năm 2007, cán cân thương
mại thâm hụt ở mức kỷ lục cao lên tới 10.360 triệu USD, chủ yếu do cả tiêu thụ
trong nước và xuất khẩu tăng cao. Tuy nhiên, tốc độ tăng của xuất khẩu nhỏ hơn
tốc độ tăng của nhập khẩu nên gây ra thâm hụt tăng một cách đột biến.
2.1.1.2. Cán cân dịch vụ (Se)
Đối với nhiều nước phát triển thì cán cân dịch vụ là một phần quan trọng
trong cán cân vãng lai nói riêng và cán cân thanh toán quốc tế nói chung, tuy

nhiên đối với Việt Nam thì cán cân dịch vụ chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cán
cân vãng lai cũng như toàn bộ cán cân thanh toán.
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2005 2006 2007
Se -219 -8 -894
Nhìn vào bảng số liệu trên, có thể thấy quy mô xuất khẩu của Việt Nam nói
chung còn rất nhỏ. Xét trên khía cạnh về tỷ trọng của xuất khẩu dịch vụ trong tổng
kim ngạch của xuất khẩu nói chung (bao gồm cả hàng hóa dịch vụ) thì tỷ trọng
của xuất khẩu dịch vụ vừa nhỏ lại vừa có xu hướng giảm đi, nguyên nhân chính là
do sức cạnh tranh của ngành dịch vụ nước ta trên thị trường thế giới còn chưa cao,
tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu dịch vụ luôn thấp, còn thấp hơn tốc độ tăng
của xuất khẩu hàng hóa.

Mặt khác, cơ cấu xuất khẩu dịch vụ còn một số điểm bất hợp lí và chuyển
dịch chậm. Dịch vụ du lịch (xuất khẩu tại chỗ) luôn chiếm tỷ trọng cao nhất
(55,2% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ) nhưng tốc độ tăng còn thấp và “mật
độ” khách du lịch quốc tế đến Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực, ở
Châu Á và trên thế giới.
Ngoài du lịch, một số dịch vụ khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ, như dịch vụ bảo
hiểm, chỉ chiếm 1,1%, dịch vụ bưu chính viễn thông chiếm tỷ trọng 1,7%, dịch vụ
tài chính chỉ chiếm 5,5%.
20
2.1.1.3. Cán cân thu nhập (Ic)
Theo IMF cán cân thu nhập bao gồm cả các khoản thu nhập của người lao
động (là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền,

hiện vật do người không cư trú trả cho người cư trú và ngược lại) và các khoản thu
nhập đầu tư (là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư vào giấy
tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay giữa người cư trú và
người không cư trú). Tuy nhiên, trong cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
công bố cũng như của Ngân hàng thế giới và IMF thì hạng mục này chỉ bao gồm
thu nhập đầu tư do thiếu dữ liệu của người thu nhập lao động. Do vậy trong phạm
vi bài nghiên cứu của nhóm chúng tôi cũng chỉ xin đề cập tới các khoản thu nhập
về đầu tư trong cán cân thu nhập của Việt Nam.
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2005 2006 2007
Ic -1.219 -1.429 -2.168
Thu 364 668 1093

Chi 1.583 2.097 3.261
Phần thu từ đầu tư của Việt Nam thì chủ yếu là tiền lãi của các khoản tiền
gửi của người cư trú Việt Nam ở các ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên những
khoản tiền lãi đó rất nhỏ, thậm chí còn giảm đi vì ta rút ngoại tệ về cho vay trong
nước. Ngược lại, những khoản phải thanh toán ngày càng tăng lên do phải trả lãi
cho các khoản nợ nước ngoài. Những khoản nợ này khá lớn, hàng năm Việt Nam
phải trả lãi khoảng mấy trăm triệu USD. Thêm vào đó những khoản chuyển lợi
nhuận đầu tư cũng tăng lên do các dự án FDI được thực hiện dần. Tuy các khoản
lãi tiền gửi có tăng lên nhưng các khoản chuyển lợi nhuận và trả lãi nợ nước ngoài
tăng mạnh dẫn đến thu nhập đầu tư ngày càng bị thâm hụt.
2.1.1.4. Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều (Tr)
21

Đơn vị: Triệu USD
Năm 2005 2006 2007
Tr 3.380 4.049 6.430
Tư nhân 3.150 3.800 6.180
Chính phủ 230 249 250
Nhìn vào bảng số liệu trên có thể thấy, trong cán cân chuyển giao vãng lai
của Việt Nam thì bộ phận chiếm tỷ trọng chủ yếu là chuyển giao tư nhân, còn bộ
phận chuyển giao chính phủ chiếm tỷ trọng không đáng kể và thường xu hướng ổn
định. Chuyển giao tư nhân của Việt Nam chủ yếu là chuyển tiền của người Việt
Nam sống ở nước ngoài (kiều hối)… Việc thiết lập thêm những kênh chuyển tiền
mới đã giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm chuyển tiền qua các kênh
chính thức và giúp giảm các chi phí chuyển tiền cũng như các rủi ro. Thêm vào

đó, chính sách thu hút kiều hối ngày càng thông thoáng chẳng hạn như cho phép
người Việt Nam trực tiếp mang tiền về nước mà không giới hạn số lượng chỉ cần
khai báo hải quan, cho phép Việt kiều mua nhà hay đầu tư tại Việt Nam… Đặc
biệt, việc Chính Phủ cho phép mở rộng đối tượng làm đại lí chi trả kiều hối đã tạo
thêm nhiều kênh chuyển tiền từ nước ngoài về, làm tăng sự cạnh tranh giữa các tổ
chức dịch vụ chi trả ngoại tệ tạo áp lực buộc các tổ chức này phải giảm chi phí
chuyển tiền và nâng cao chất lượng dịch vụ. Chính những điều này đã tạo nên sự
tăng vọt của lượng kiều hối chuyển về nước khiến cho chuyển giao tư nhân của
Việt Nam tăng lên không ngừng, nhờ đó Chính phủ bù đắp được một phần thâm
hụt của cán cân vãng lai.
2.1.2. Cán cân vốn
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)


22
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2005 2006 2007
FDI 1.889 2.315 6.550
Năm 2005, hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam mới thật sự khởi sắc,
khi Việt Nam thật sự trở thành một điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước
ngoài với sự thông thoáng hơn trong cơ chế cũng như nhiều ưu đãi hấp dẫn cho
các nhà đầu tư nước ngoài, con số dự án đăng ký có vốn đầu tư nước ngoài năm
2005 là 970 dự án, với tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 2 tỷ USD.
Năm 2006 đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Tới năm 2007
thì đầu tư nước ngoài đã thực sự bùng nổ ở Việt Nam với những con số hết sức ấn

tượng, tổng số đã có 1.544 dự án đăng ký với tổng số vốn đăng ký đạt 20,3 tỷ
USD, tổng số vốn giải ngân là 6,5 tỷ USD, nguyên nhân chính là do năm 2007 là
năm đầu Việt Nam thực hiện các cam kết của mình khi gia nhập WTO, tạo điều
kiện thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư.
2.2. Cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam từ năm 2008 đến 2010
2.2.1 Cán cân vãng lai (Current Account – CA)
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ vào cuối năm 2007 đã lan
nhanh và ảnh hưởng sâu rộng, trở thành cuộc khủng hoảng lớn nhất kể từ cuộc đại
suy thoái 1929-1933. Các tác động của cuộc khủng hoảng trên lan tràn trên diện
rộng, không chỉ trong hoạt động của các ngân hàng, mà tất cả các nền kinh tế, các
thị trường bước vào thời kì suy thoái nghiêm trọng, cán cân vãng lai của hầu hết
các quốc gia đều bị ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam.

Theo số liệu ước tính của IMF, trong năm 2008 cán cân vãng lai của Việt
Nam thâm hụt 11.100 triệu USD, tương đương 10,3 % GDP, vượt ngưỡng an toàn
2 lần, cao hơn nhiều so với con số cao kỉ lục của thâm hụt cán cân vãng lai 2007,
tất cả những con số này cho thấy thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam đã thật
sự đáng báo động. Nguyên nhân do những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng
23
kinh tế thế giới tới nền kinh tế Việt Nam., lạm phát trong nước tăng cao trong
những tháng đầu năm 2008, giá xăng dầu trên thế giới tăng cao… Sang năm 2009,
thâm hụt cán cân vãng lai tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. Năm 2010, thâm hụt
cán cân thương mại ở Việt Nam đã giảm xuống còn 3500 triệu USD.
Năm 2008 2009 2010
CA -11,1 -8,0 -3,5

Nguồn: SBV, IMF, WB
2.2.1.1 Cán cân thương mại (TB)
Năm 2008 2009 2010
TB -14,2 -8,9 -5,1
Nguồn: SBV, IMF, WB
Năm 2008. cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt cao hơn năm 2007, lên tới
14,2 tỷ USD. Nguyên nhân chính là do giá cả hàng hóa trên thế giới tăng cao.
Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tháng 12/2008 ước tính
đạt 4,9 tỷ USD, tăng 16,2% so với tháng trước chủ yếu do sản lượng dầu thô khai
thác tăng, mức tiêu thụ hàng dệt may mạnh hơn vào tháng cuối năm và lượng gạo
xuất khẩu đã tăng trở lại.
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu ước tính đạt 62,9

tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
(kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất
khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%. Trong
tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng công nghiệp nặng và
khoáng sản chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%.
Năm 2009 là năm kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới, giá cả hàng hóa thế giới sau thời kì tăng giá vào khoảng 3
quý đầu năm 2008 đã có chiều hướng giảm mạnh trên thị trường thế giới cùng với
xu hướng giảm mạnh của giá dầu, điều này gây ra khó khăn cho hoạt động xuất
khẩu của nhiều nước và Việt Nam.
24
Nếu như trong các năm 2005-2006, kiều hối (chiếm hơn 90% khoản mục

“Chuyển giao”) đã vượt quá nhu cầu cần bù đắp thâm hụt cán cân thương mại,
làm giảm nhẹ đáng kể thâm hụt của cán cân vãng lai, thì nay, tình hình trên đã trở
nên xấu hơn nhiều trong năm 2009. Thông tin từ Ngân Hàng Nhà nước chi nhánh
TPHCM cho biết, trong 10 tháng đầu năm, lượng kiều hối nhận được tại các ngân
hàng trên địa bàn vào khoảng 2,6 tỉ đô la Mỹ, chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm
ngoái. Chúng ta biết rằng, TPHCM là nơi nhận gần 60% tiền kiều hối cả nước.
Con số kiều hối cả nước nhận được trong năm 2009 được giới chuyên môn ước
tính sẽ xấp xỉ 6 tỉ đô la.
Nhìn lại cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thấy một nền kinh tế
được bù đắp thương mại dựa vào kiều hối và vay nợ thì chưa thể bền vững. Vấn
đề mấu chốt để giải quyết vấn đề thâm hụt cán cân vãng lai và ổn định sức mua
của đồng VN là phải giảm nhập siêu về từ 20%/tổng kim ngạch xuất khẩu trở

xuống.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng phải thu hút được tất cả các nguồn ngoại
tệ có trong nước và tập trung lại để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ. Để thực hiện được
hai vấn đề trên thì vai trò điều tiết của Nhà nước (áp dụng những biện pháp để ảnh
hưởng đến thị trường ngoại hối) là rất quan trọng.
2.2.1.2 Cán cân dịch vụ (Se)
Năm 2008 2009 2010
S
E
-1 -1,2 -2,5
Nguồn: SBV, IMF, WB
Nhìn vào bảng số liệu trên, có thể thấy quy mô xuất khẩu của Việt Nam nói

chung còn rất nhỏ. Xét trên khía cạnh về tỷ trọng của xuất khẩu dịch vụ trong tổng
kim ngạch của xuất khẩu nói chung (bao gồm cả hàng hóa dịch vụ) thì tỷ trọng
của xuất khẩu dịch vụ vừa nhỏ lại vừa có xu hướng giảm đi, nguyên nhân chính là
do sức cạnh tranh của ngành dịch vụ nước ta trên thị trường thế giới còn chưa cao,
25

×