Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp điện tử thông qua phương thức liên kết sản xuất quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.42 KB, 91 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Lời mở đầu
******
Ngành CNĐT Việt Nam xuất hiện từ giữa những năm 60 của thế kỷ XX nhưng
chỉ thực sự hình thành vào cuối những năm 80 và dần hoàn thiện vào năm 2000 khi
luồng đầu tư nước ngoài vào ngành điện tử bắt đầu có hiệu ứng lan toả. Từ năm 1994
trở lại đây, ngành Điện tử trong nước bắt đầu có những bước tiến vượt bậc, tốc độ
tăng trưởng hàng năm đạt từ 20-30%. Từ chỗ hàng điện tử trong nước chưa có gì, đến
nay ngành Công nghiệp Điện tử Việt Nam đã xuất khẩu vào 35 nước, kim ngạch xuất
khẩu tăng từ 90 triệu USD năm 1996 lên 1,5 tỷ USD năm 2005 và 1,77tỷ USD năm
2006. Như vậy, trong vòng 10 năm kim ngạch xuất khẩu của hàng điện tử tăng lên 18
lần. Trong cơ cấu ngành điện tử thì ngành điện tử tiêu dùng (sản xuất radio, tivi, thiết
bị truyền thông) giữ vai trò chi phối, chiếm hơn 80% giá trị sản xuất công nghiệp. Tuy
nhiên, ngành CNĐT Việt Nam vẫn còn nhiều những khó khăn và hạn chế . Kinh
nghiệm của nhiều nước cho thấy, thông thường ngành điện tử của họ chỉ trải qua giai
đoạn lắp ráp từ 5 đến 10 năm sau đó mới đi vào sản xuất linh kiện, thiết kế và hoàn
thành sản phẩm. Trong khi đó, trải qua 30 năm mà ngành điện tử Việt Nam vẫn gần
như khai thác các sản phẩm cũ, lợi nhuận thấp, giá trị gia tăng ước tính đạt 5-10% và
đáng cảnh báo hơn là vẫn chưa có dấu hiệu gì chứng tỏ ngành CNĐT Việt Nam sắp
vượt qua thời kỳ “lắp ráp”. Bên cạnh đó, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp
CNĐT Việt Nam còn lệ thuộc rất lớn vào khả năng sản xuất của các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước chưa có một chiến lược chủ
động hơn trong sản xuất, định hướng của ngành chưa được rõ nét. Năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam còn rất yếu ngay cả trên thị trường nội
địa, các doanh nghiệp trong nước quy mô đa phần là nhỏ, công nghệ ở mức trung
bình, có động lực nhưng chưa có chuyển biến về sự đổi mới công nghệ, phương thức
sản xuất và quản lý, chủ yếu dừng ở mức lắp ráp. Việc tổ chức sản xuất linh kiện
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chưa phát triển mạnh, đơn lẻ, manh mún và chủ yếu phát triển ở các doanh nghiệp có


vốn đầu tư nước ngoài…
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia trên thế giới. Khi Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế thế giới, các doanh
nghiệp điện tử Việt Nam sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển nhưng cũng có hàng
loạt những thách thức đặt ra. Các doanh nghiệp điện tử Việt Nam sẽ phải cạnh tranh
gay gắt hơn với các hãng điện tử danh tiếng trên thế giới. Trong khi đó, NLCT của
chúng ta vẫn còn rất yếu cả về năng lực, trình độ quản lý, công nghệ, nhân sự, kỹ
thuật... Vậy, các ngành CNĐT Việt Nam cần phải làm gì trước thách thức lớn này?
Thực tế hiện nay đã có một số doanh nghiệp Việt Nam đã tiến hành liên kết, liên
doanh sản xuất với các thương hiệu nước ngoài. Chính nhờ việc này mà thương hiệu
và chất lượng sản phẩm của họ đã được nâng cao và có chỗ đứng nhất định trong thị
trường điện tử. Vậy, LKSX quốc tế trong ngành công nghiệp điện tử Việt Nam có vai
trò và ý nghĩa như thế nào trong việc nâng cao NLCT của ngành? Thực trạng của việc
LKSX quốc tế này ở Việt Nam như thế nào? Để trả lời những câu hỏi trên, tôi đã lựa
chọn đề tài :”Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong
ngành công nghiệp điện tử thông qua phương thức liên kết sản xuất quốc tế”.
Đề tài nghiên cứu nhằm các mục tiêu: Khảo sát, đánh giá tổng quát thực trạng
phát triển của ngành điện tử Việt Nam, ngoài ra còn tác giả còn tiến hành phân tích
bối cảnh phát triển mới, đặc biệt là môi trường WTO của ngành điện tử khu vực và
thế giới, dự báo xu hướng phát triển, xu hướng đầu tư của các nước vào ngành
CNĐT, làm cơ sở định vị ngành điện tử Việt Nam trong chuỗi LKSX toàn cầu từ đó
rút ra được NLCT của ngành CNĐT Việt Nam. Tiếp đó tác giả phân tích vấn đề
LKSX giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài và đưa ra
được sự cần thiết, tính tất yếu của việc LKSX trong ngành CNĐT Việt Nam. Cuối
cùng, thông qua việc phân tích thực trạng NLCT và thực trạng LKSX quốc tế trong
ngành, tác giả đã đưa ra đề xuất chính sách vĩ mô, các giải pháp cấp ngành và cấp
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
doanh nghiệp nhằm phát triển LKSX quốc tế, đưa ngành CNĐT Việt Nam trở thành

một ngành kinh tế mũi nhọn.
Phương pháp nghiên cứu: tác giả áp dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ
bản sau:
- Phương pháp thu thập thông tin, tài liệu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp chuyên gia, điều tra, khảo sát.
- Phương pháp hệ thống hóa và dự báo…
Kết cấu đề tài gồm ba phần:
Chương I. Một số luận cứ cơ bản về năng lực cạnh tranh ngành và liên kết sản
xuất công nghiệp
Chương II. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành CNĐT Việt Nam và
vấn đề LKSX quốc tế trong ngành
Chương III. Giải pháp tăng cường liên kết sản xuất quốc tế nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngành CNĐT Việt Nam
Qua đây, tôi cũng chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của giáo viên
hướng dẫn ThS. Vũ Cương, cùng sự giúp đỡ của Chánh Văn Phòng TS.Vũ Ngọc
Thanh, Trưởng phòng Quản lý khoa học và Hợp tác Quốc tế ThS.Hồ Lê Nghĩa thuộc
Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công nghiệp, Bộ Công Thương đã tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành chuyên đề thực tập này. Do khả năng và trình độ hiểu biết còn
hạn chế nên trong quá trình hoàn thành chuyên đề không tránh khỏi những sai sót,
nhiều phân tích chưa sâu, số liệu thực tế không nhiều. Chính vì vậy rất mong được sự
đánh giá và góp ý tận tình của độc giả. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 04 năm 2009
Sinh viên
Nguyễn Thị Thu Huyền
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương I. Một số luận cứ cơ bản về năng lực cạnh tranh ngành và liên kết
sản xuất công nghiệp

1.1. Năng lực cạnh tranh ngành
1.1.1. Khái niệm NLCT ngành
Thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” được sử dụng khá rộng rãi trong phạm vi
toàn cầu nhưng cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao giữa các học giả, các nhà
chuyên môn về khái niệm cũng như cách thức đo lường, phân tích năng lực cạnh
tranh ở cấp độ quốc gia, cấp ngành, cấp sản phẩm và cấp doanh nghiệp. Do phạm vi
đề tài chỉ nghiên cứu đến NLCT ở cấp độ ngành nên tác giả sẽ chỉ đưa ra những khái
niệm về NLCT ở cấp độ ngành.
Theo quan điểm tân cổ điển dựa trên lý thuyết thương mại truyền thống thì
“NLCT ngành được xem xét qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất.
Hiệu quả của việc nâng cao năng lực cạnh tranh được đánh giá dựa trên chi phí thấp.
Chi phí sản xuất thấp không chỉ là điều kiện cơ bản, quan trọng của lợi thế cạnh tranh
mà còn đóng góp tích cực vào nền kinh tế”. Định nghĩa này tuy đã nêu rõ được vấn đề
cạnh tranh nhưng lại chỉ tập trung vào lợi thế về chi phí sản xuất thấp để nâng cao
năng lực cạnh tranh.
Lý thuyết Tổ chức công nghiệp cho rằng: “NLCT ngành dựa trên khả năng sản
xuất ra sản phẩm ở một mức giá ngành bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà
không có trợ cấp, bảo đảm cho ngành đứng vững trước các đối thủ hay sản phẩm thay
thế”. Định nghĩa này lại quá tập trung vào chiến lược cạnh tranh về giá mà không đề
cập gì đến rất những các yếu tố khác.
Phân tích NLCT theo quan điểm tổng hợp thì lại cho rằng “NLCT ngành là
năng lực duy trì được lợi nhuận, thị phần trên các thì trường trong và ngoài nước”.
Qua quá trình tìm hiểu, tác giả thấy quan điểm tổng hợp là hợp lý nhưng vẫn
chưa nói rõ được “năng lực duy trì” cụ thể là gì, chính vì vậy, tác giả dựa trên quan
điểm tổng hợp đã đưa ra khái niệm về NLCT ngành đó là: “NLCT ngành là khả năng
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sử dụng các nguồn lực, các phương thức quản lý để duy trì hoặc nâng cao được lợi
nhuận và thị phần trên thị trường trong nước và quốc tế”.

1.1.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh ngành
Dựa vào quan điểm tổng hợp, kết hợp với quan điểm quản trị chiến lược của
M.Porter và quan điểm tân cổ điển và kinh tế học về tổ chức công nghiệp, có thể giúp
chúng ta đo lường được NLCT đồng thời cũng chỉ ra được những nhân tố thúc đẩy
hay cản trở NLCT. Dưới đây là một số tiêu chí phản ánh NLCT ngành:
1.1.2.1. Năng suất
Năng suất là khả năng sản xuất một khối lượng sản phẩm trong một đơn vị
thời gian. Năng suất ảnh hưởng rất lớn tới chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Năng suất cao sẽ làm cho giá thành sản phẩm hạ và giá cả hàng hoá giảm. Điều này
chứng tỏ khả năng thâm nhập thị trường cũng như sức cạnh tranh sản phẩm ngành
làm ra được. Còn nếu năng suất lao động thấp thì giá thành sản phẩm sẽ cao, giá cả
trong nước của các hàng hoá cũng sẽ cao, từ đó sẽ làm cho mức độ tiêu thụ kém, hàng
hoá bị ứ đọng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành sẽ không cao. Khi tới một
chừng mực nhất định nào đó, ngành hàng sẽ không chịu được sức ép.
1.1.2.2. Công nghệ
Bao gồm các chi phí cho hoạt động nghiên cứu triển khai, cấp độ sử dụng và
khả năng, phương hướng thay đổi công nghệ nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh nội
bộ ngành.
1.1.2.3. Sản phẩm
Bao gồm chất lượng sản phẩm, tính độc đáo, khác biệt của sản phẩm. Đây là
hệ thống những đặc tính nội tại của sản phẩm được xác định bằng thông số có thể đo
được và so sánh được, phù hợp với điều kiện kinh tế và thỏa mãn được nhu cầu nhất
định nào đó của xã hội. Chất lượng sản phẩm đang là vấn đề sống còn của ngành, nó
giúp ngành mở rộng thị phần tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và đạt lợi nhuận cao.
1.1.2.4. Đầu vào và chi phí sản xuất
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Phân tích dựa trên cơ sở giá cả đầu vào chủ yếu và hệ số chi phí các nguồn lực
phục vụ quá trình sản xuất sản phẩm.

Giá cả đầu vào là bộ phận quan trọng tạo nên giá thành sản phẩm. Giá cả đầu
vào thấp sẽ tạo ra sản phẩm có giá thành cuối cùng hạ và ngược lại.
Hệ số chi phí và các nguồn lực phục vụ quá trình sản xuất sản phẩm là mức chi
phí bỏ ra cuối cùng với giá cả đầu vào chủ yếu để tạo nên giá thành sản xuất. Đây là
hai yếu tố quan trọng tạo nên giá thành sản phẩm. Đầu vào và chi phí sản xuất thấp sẽ
làm cho giá thành sản phẩm hạ, đây cũng là một lợi thế cho ngành trong việc tạo ra
chiến lược cạnh tranh bằng giá cả.
1.1.2.5. Mức độ tập trung
Đây là tiêu chí phản ánh mức độ tập trung về hoạt động sản xuất kinh doanh
đối với một loại sản phẩm, hàng hóa nào đó trên thị trường. Mức độ tập trung cao,
điều này chứng tỏ được ngành có sức mạnh trong việc tập trung vốn đầu tư cho sản
xuất, thiết lập kênh phân phối sản xuất có hiệu quả, không ảnh hưởng đến những biến
đổi khó lường của thị trường.
Tuy nhiên, nếu mức độ tập trung quá cao hoặc không được điều hợp lý sẽ dẫn
tới độc quyền. Nếu mức độ tập trung về hoạt động sản xuất kinh doanh đổi với một
loại sản phẩm hàng hóa nào quá thấp sẽ chứng tỏ được sản xuất phân tán, nhỏ lẻ và
ngành khó đủ sức cạnh tranh.
1.1.2.6. Điều kiện cầu
Tiêu chí này thể hiện khả năng tiêu thụ một loại sản phẩm nào đó trên thị
trường trong nước và quốc tế. Thông qua tiêu chí này, ngành sẽ xác định được cầu
hiện nay của thị trường là gì, từ đó sẽ đưa ra được những định hướng, chiến lược kinh
doanh cụ thể. Để xác định được tiêu chí này cũng là một việc làm khó khăn vì nó còn
phụ thuộc vào sức mua, phong tụ tập quán, thói quen tiêu dùng của từng cá nhân, từng
vùng. Chính vì vậy, để nâng cao NLCT của ngành, ngành cần phải chú trọng đầu tư
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vào việc nghiên cứu thị trường phù hợp với từng vùng, từng địa phương để từ đó có
thể đưa ra được những sản phẩm phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng.
1.1.2.7. Độ liên kết

Đây là một tiêu chí thể hiện vị thế của người cung ứng với nhau hoặc là vị thế
của người cung ứng với người mua đối với một loại sản phẩm hay mặt hàng nhất
định.
1.1.2.8. Thị phần
Thị phần là tiêu chí dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh của các sản phẩm
mà ngành sản xuất ra, nó cho biết khả năng chấp nhận của thị trường đối với sản
phẩm mà ngành cung cấp. Thông qua thị phần chúng ta còn biết được sản phẩm của
ngành có tính cạnh tranh quốc tế không hay đơn thuần chỉ là cạnh tranh nội địa. Ngoài
ra, thị phần còn phản ánh mức độ tập trung trong sản xuất kinh doanh đối với loại sản
phẩm hàng hóa của ngành với vị thế cảu người mua đối với loại sản phẩm hay hàng
hóa nhất định, biểu hiện uy tín của ngành, sự tin cậy của người mua trong việc cung
ứng, thanh toán, giá cả, chất lượng dịch vụ sau bán hàng của hàng hóa đó trên thị
trường.
(%)
MP
P
MS
+
=
Trong đó:
MS: Thị phần của ngành trên thị trường trong nước
P : Sản lượng của ngành (được tính bằng hiện vật hoặc doanh thu)
M : Sản lượng nhập khẩu mặt hàng đang xét hoặc giá trị hàng nhập khẩu
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của ngành
Theo M.Porter, sự thành công của một ngành chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố
sau:
- Điều kiện về nhân tố nguồn lực
- Điều kiện về nhu cầu
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
7

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Công nghiệp hỗ trợ và có liên quan
- Chiến lược, cơ cấu và sự đối nghịch giữa các công ty
Thep tác giả, để phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới NLCT của ngành thì nên
phân tích những nhân tố sau:
1.1.3.1. Năng lực sản xuất
Là khả năng tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá thành rẻ và quy mô sản
xuất đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước, đánh bại sản phẩm
trong ngành của các doanh nghiệp, quốc gia khác.
1.1.3.2. Công nghệ và trang thiết bị sản xuất
Việc lựa chọn công nghệ nào có ý nghĩa quyết định đến khả năng cạnh tranh
của ngành. Ngành nào, doanh nghiệp nào biết nắm bắt được công nghệ và trang thiết
bị sản xuất tốt, hiện đại sẽ tạo ra được lợi thế về sản phẩm, tạo năng suất cao, nâng
cao được vị thế của mình trên thị trường.
1.1.3.3. Nguồn nhân lực
Con người là yếu tố quan trọng quyết định đến sự tồn tại, phát triển của doanh
nghiệp, của ngành. Trình độ, chất lượng của đội ngũ lao động ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm mà ngành đang cung cấp. Con người có trình độ cao cùng với lòng
hay say làm việc thì mới tiếp cận, vận hành được những máy móc, thiết bị công nghệ
cao, có thể sáng tạo, thiết kế được những sản phẩm mới, chất lượng cao…đó là cơ sở
để tạo nên sức mạnh cạnh tranh của ngành.
1.1.3.4. Thị trường tiêu thụ
Đây là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn tới năng lực cạnh tranh của ngành. Một
sản phẩm khi sản xuất ra nếu không có thị trường tiêu thụ hoặc không đáp ứng được
yêu cầu của thị trường thì sản phẩm đó khó lòng có thể tồn tại và phát triển được. Thị
trường tiêu thụ có thể là thị trường trong nước hay ngoài nước. Các doanh nghiệp hay
ngành muốn tồn tại và phát triển lâu dài thì cần phải tích cực tìm kiếm cho mình thị
trường tiêu thụ tiềm năng, an toàn. Thị trường tiêu thụ càng lớn, sản phẩm tiêu thụ
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
8

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
càng nhiều thì ngành càng có nhiều cơ hội để phát triển nhưng cũng đồng nghĩa với
việc phải cạnh tranh với nhiều loại sản phẩm hơn, với nhiều đối thủ hơn. Nếu không
biết dựa vào những nguồn lực của mình để tạo ra những sản phẩm khác biệt, có ưu
thế hơn hẳn thì dù thị trường tiêu thụ có lớn đến đâu, có tiềm năng đến mấy thì các
sản phẩm trong ngành cũng khó mà cạnh tranh được. Từ đó sẽ làm giảm NLCT của
toàn ngành.
1.1.3.5. Công nghiệp phụ trợ
Công nghiệp phụ trợ liên quan đến hầu hết các ngành công nghiệp chế tạo như
ôtô, xe máy, cơ khí…Công nghiệp phụ trợ phát triển, ngành sẽ không phải đi nhập
khẩu hay mua linh kiện từ các doanh nghiệp, quốc gia khác trong ngành, điều này sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất của các doanh nghiệp trong ngành.
1.1.3.6. Thương hiệu
Đây là nhân tố có vai trò quyết định đến sự phát triển, sống còn của doanh
nghiệp. Thương hiệu mang lại các giá trị to lớn sau: tạo nên sự khác biệt trong suốt
quá trình phát triển sản phẩm, đưa sản phẩm khắc sâu vào tâm trí khách hàng, tạo nên
định hướng và ý nghĩa cho sản phẩm…
1.1.4. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp điện
tử Việt Nam
1.1.4.1.Định nghĩa và phân loại ngành Điện tử
CNĐT là ngành sản xuất thiết bị điện tử (điện tử dân dụng, điện tử công
nghiệp, điện tử chuyên dụng, công nghệ thông tin, viễn thông), sản xuất vật liệu, linh
phụ kiện điện tử, các sản phẩm phần mềm, các dịch vụ (tin học, điện tử công nghiệp
và chuyên dụng, viễn thông).
Có rất nhiều cách phân loại ngành Điện tử nhưng trong phạm vi đề tài, tác giả
phân loại các sản phẩm điện tử như sau:
* Thiết bị tự thiết kế chế tạo
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Mặc dù các thiết bị điện tử nhập ngoại rất đa dạng, có tính chuẩn hóa cao, đa
dạng chức năng, chất lượng tốt nhưng hầu như tất cả các nước trên thế giới, không kể
phát triển hay đang phát triển đều quan tâm nghiên cứu để sản xuất và phát triển các
thiết bị điện tử nội địa cho riêng mình. Điều này có thể lý giải bởi mỗi nước đều
mong giải quyết bài toán đặc thù của nước mình. Tuy nhiên do không có tính tập
trung để ổn định thị trường nên số lượng nhân bản không lớn, tản mạn về đặc tính và
cấu trúc sản phẩm.
*Thiết bị gia công lắp ráp theo mẫu nước ngoài
Các loại thiết bị này thường được sản xuất trong các công ty liên doanh hoặc
liên kết với nước ngoài. Sản phẩm chủ yếu gồm các thiết bị nghe nhìn, các thiết bị
điện tử viễn thông, máy tính, thiết bị điện tử công nghiệp…Xu hướng này có tính ổn
định tạm thời, do chu kỳ sống của các sản phẩm mà đơn vị sản xuất đã được xác lập
không lâu dài và luôn phải chịu sự tác động của việc xuất hiện thị trường tiêu thụ sản
phẩm và nhân công mới. Ví dụ điển hình cho xu hướng này là việc nhiều công ty
Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…do có sự biến động của thị trường đã và đang chuyển các
cơ sở của mình từ Singapore sang Trung Quốc làm ảnh hưởng không nhỏ đến ngành
CNĐT Singapore.
Để có thể tồn tại và phát triển lâu dài và ổn định, nước sở tại cần phải tham gia
vào quản lý doanh nghiệp liên doanh hoặc liên kết một cách mạnh mẽ hơn, đồng thời
tăng cường linh động trong thiết kế, nhanh chóng nâng cấp công nghệ, thực hiện tự
động hóa các dây chuyền sản xuất nhằm tạo ra các sản phẩm có mẫu mã đẹp, độ đồng
nhất cao, năng suất cao và chất lượng tốt, giá cả hợp lý, đủ sức mạnh cạnh tranh trên
thị trường. Hiện nay, do nhu cầu hội nhập, với mục tiêu nội địa hóa các sản phẩm lắp
ráp theo mẫu nước ngoài đang được nhiều nước trong khu vực triển khai.
* Thiết bị có hàm lượng chất xám cao
Hiện nay, việc sản xuất các thiết bị có hàm lượng chất xám cao không còn là
độc quyền chỉ riêng các nước phát triển mà cả các nước đang phát triển hoặc chậm
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

phát triển cũng đang quan tâm đầu tư nghiên cứu thiết kế, chế tạo nhằm tạo thế chủ
động của nước mình ở mọi phương diện trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu.
* Chế tạo linh kiện điện tử
Trong hai thập kỷ vừa qua, các nước công nghiệp phát triển đã chuyển sản
xuất phụ tùng linh kiện điện tử có độ tích hợp thấp và trung bình sang các nước đang
phát triển thông qua đầu tư nước ngoài để lập cơ sở sản xuất. Các nước công nghiệp
phát triển tập trung thiết kế và sản xuất các loại phụ tùng linh kiện điện tử độ tích hợp
và hàm lượng chất xám cao với hai xu hướng cơ bản:
- Đầu tư để tạo ra các loại phụ tùng linh kiện cho các hệ thống thiết bị điện tử có mức
độ tự động hóa cao.
- Đầu tư để tạo ra các loại phụ tùng linh kiện nhằm giảm công suất tiêu thụ và tăng
khả năng tác động nhanh cho các thiêt bị và hệ thống thiết bị điện.
Ở các nước đang phát triển, đặc biệt các nước trong khu vực, để tìm lối đi
riêng cho mình, hầu hết các doanh nghiệp điện tử đã lựa chọn con đường phát triển
công nghệ ASIC nhằm tạo ra các loại IC chuyên phục vụ cho sản xuất các thiết bị nội
địa hoàn chỉnh, chất lượng cao, giá thành rẻ, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và
chiếm lĩnh thị trường thế giới.
1.4.1.2. Đặc trưng của ngành CNĐT và ảnh hưởng của những đặc trưng tới năng lực
cạnh tranh ngành CNĐT
Mặc dù ra đời chậm hơn so với các ngành công nghiệp khác nhưng ngành
CNĐT là ngành phát triển nhanh và mạnh nhất trong hai thập kỷ qua. Ngành CNĐT
có những đặc trưng sau:
1.1.4.2.1. CNĐT là ngành có công nghệ cao, ứng dụng nhiều kết quả nghiên cứu khoa
học tiên tiến
Công nghiệp điện tử là ngành được xây dựng dựa trên những thành tựu tiên
tiến trong các lĩnh vực vật lý như quang học, công nghệ laser, vật lý bán dẫn…Điều
này thấy rõ hơn qua công nghệ chế tạo các mạch tích hợp lớn như bộ vi xử lý, một
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

trong những bộ phận quan trọng nhất của các thiết bị điện tử tin học. Các bộ vi xử lý
hiện có trên thị trường là kết quả của nhiều cải tiến liên tiếp về công nghệ trong ngành
công nghiệp chế tạo bán dẫn. Các công nghệ chế tạo bán dẫn mới nhất được đưa vào
chế tạo bộ vi xử lý như công nghệ làm tăng số lượng transitor/chip, công nghệ cấu
trúc khoảng cách giữa các thành phần tử trong bộ vi xử lý, kích thước đường nối giữa
các phần tử giảm xuống chỉ còn 1,13 Micro – met (130 nano – met) và có thể giảm
xuống 90 nano – met trong thời gian không xa. Người ta đang cố gắng để giảm nhỏ
kích thước các transitor, phần tử cơ bản tạo nên chip. Nếu như năm 1974 bộ vi xử lý
Intel 8080 được sản xuất với công nghệ 6 micro – met chứa 6000 transitor thì năm
2002, bộ vi xử lý Pentium 4 cũng của Intel sản xuất ứng dụng công nghệ 0,13 micro –
met chứa tới 42.000.000 transitor. Qua đây ta có thể thấy được thành quả từ các thành
tựu của các ngành khoa học khác nhau đã tạo nên những bộ vi xử lý ngày càng có tốc
độ nhanh hơn.
Chính vì đặc điểm này mà các nước có ngành CNĐT phát triển rất coi trọng
việc nghiên cứu, phát minh, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, tiên tiến, có như vậy
mới tạo ra được những sản phẩm khác biệt, nâng cao được NLCT, nhanh chóng
chiếm lĩnh được thị trường cả trong nước và thế giới. Còn đối với những quốc gia có
trình độ khoa học kém phát triển, khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học tiên
tiến chưa cao, hoạt động nghiên cứu, phát minh những sáng chế khoa học trong ngành
CNĐT còn yếu kém…điều hiển nhiên là những quốc gia này không thể cạnh tranh
được với những quốc gia có nền khoa học tiên tiến, từ đó làm giảm khả năng cạnh
tranh của toàn ngành.
1.1.4.2.2. CNĐT là ngành phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng
Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường cùng với việc đổi mới công nghệ và
nhanh chóng ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất và sản xuất đã thúc
đẩy CNĐT phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng. Khả năng đổi mới liên
tục và đưa nhanh sản phẩm vào thị trường đã trở thành ưu thế cạnh tranh quan trọng
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

của ngành. Khoảng thời gian từ khi đưa sản phẩm ra thị trường cho đến ngày nay bị
thay thế bởi sản phẩm khác tốt hơn ngày càng rút ngắn. Sự phát triển như vũ bão của
công nghệ thông tin trong thời gian qua cũng là kết quả của các tiến bộ công nghệ
trong lĩnh vực điện tử. Chính vì vậy mà tốc độ phát triển nhanh chóng không chỉ về số
lượng mà cả về chất lượng đã trở thành tiêu chuẩn sống còn của ngành CNĐT.
1.1.4.2.3. CNĐT cần vốn đầu tư lớn, thu lợi nhuận cao, cạnh tranh gay gắt và độ rủi
ro cao
Để tạo ra các sản phẩm điện tử đòi hỏi sự đầu tư lớn về nghiên cứu và phát
triển sản phẩm, xây dựng nhà máy, đào tạo nhân lực…Vì vậy, vốn đầu tư cho ngành
CNĐT là rất lớn để xây dựng cơ sở vật chất ban đầu nhưng nếu chỉ trông chờ vào thị
trường trong nước thì rất khó thu hồi vốn, rủi ro cũng lớn vì không có thị trường tiêu
thụ và giá thành lại cao. Vì vậy, cần phải tính đến thị trường quốc tế và liên doanh,
liên kết với các công ty đa quốc gia để tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ thuật và cả nguồn
nhân lực…Ngành CNĐT là ngành mang lại lợi nhuận khá là cao chính vì vậy mà khả
năng cạnh tranh rất gay gắt và độ rủi ro đầu tư cũng khá lớn.
1.1.4.2.4. CNĐT có xu hướng chuyển dịch công nghệ từ các nước phát triển sang các
nước đang phát triển nơi có nhân công rẻ hơn
Toàn cầu hoá kinh tế đang là xu hướng phát triển của thế giới. Theo xu hướng
toàn cầu hóa, để tăng khả năng cạnh tranh và có lợi nhuận cao, các nước có nền công
nghiệp điện tử phát triển sẽ dịch chuyển việc sản xuất sản phẩm có công nghệ thấp
sang các nước đang phát triển có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Nhờ đó,
các nước đang phát triển có cơ hội tiếp thu công nghệ, thu hút đầu tư đào tạo nguồn
nhân lực nhằm phát triển sản phẩm có công nghệ cao hơn. Chính vì vậy mà những
quốc gia nào có nguồn nhân công dồi dào, giá rẻ có thể được coi là lợi thế cạnh tranh
so với các quốc gia khác trong việc thu hút đầu tư vào ngành CNĐT.
1.1.4.2.5. CNĐT có giá thành sản phẩm giảm nhanh và sản phẩm nhanh chóng lạc hậu
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sự phát triển không ngừng của công nghệ bán dẫn đã làm cho khả năng tích

hợp và xử lý của các vi mạch điện tử không ngừng tăng. Đi cùng với sự gia tăng khả
năng xử lý thì giá thành “chip” điện tử cũng không ngừng giảm với tốc độ 25%/năm.
Thực tế thị trường cho thấy từ năm 1991 đến nay, cứ 12 tháng, giá các bộ vi xử lý
giảm 2 lần. Đồng thời với sự giảm giá sản phẩm điện tử là sự lạc hậu nhanh chóng
của nó. Ví dụ, đầu năm 2000 bộ vi xử lý Pentium PIII – 800MHz của Intel xuất hiện
thì cuối năm 2000 Intel đã đưa ra bộ vi xử lý P4 có tốc độ 1 GHz và đến tháng 8 năm
2001 Intel đã đưa ra bộ vi xử lý P4 có tốc độ 1,8 GHz và đã có phiên bản với tốc độ
lên tới 3GHz. Đặc trưng này có ý nghĩa khá quan trọng đối với ngành CNĐT. Chính
vì đặc điểm này mà những doanh nghiệp nào biết nhanh chóng nắm bắt được những
thành tựu khoa học tiến tiến, nhanh chóng cải tiến mẫu mã sản phẩm, giá thành lại
tương đối thì những doanh nghiệp đó sẽ ngày càng phát triển và có chỗ đứng vững
chắc trên cả thị trường trong nước và quốc tế từ đó có thể nâng cao được vị thế của
toàn ngành. Ngược lại, những doanh nghiệp nào chậm cải tiến, không biết ứng dụng
những công nghệ tiên tiến, hiện đại thì doanh nghiệp này sẽ nhanh chóng thất bại
ngay từ thị trường trong nước.
1.1.4.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành CNĐT Việt Nam
1.1.4.3.1. Tác động của xu hướng phát triển ngành CNĐT khu vực và thế giới
Ngành CNĐT là một trong những ngành có tiềm năng phát triển lớn và có vị
trí theo chốt trong nền kinh tế hiện đại của nhiều quốc gia trên thế giới. Từ đầu những
năm 90 của thế kỷ trước, CNĐT thế giới đã hướng vào phát triển các loại sản phẩm
công nghệ cao, có độ tích hợp lớn, tăng cường các tính năng của sản phẩm đồng thời
giảm kích thước, trọng lượng và giá thành.
Ở hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến, ngành CNĐT đều phát triển rất
nhanh và có ảnh hưởng lớn tới các ngành công nghiệp khác và toàn bộ nền kinh tế.
Chỉ trong vòng 25 năm, tỷ lệ sản phẩm điện tử trong công nghiệp chế tạo của Nhật đã
tăng từ 9% đến 22%, ở Mỹ tăng gấp đôi từ 8% lên 15%, còn ở Hàn Quốc tăng từ
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
10% lên 25%. Ngành điện tử Trung Quốc đang nổi lên như một thế lực mới. Chỉ sau

5 thập kỷ xây dựng và phát triển, CNĐT của Trung Quốc đã đạt được giá trị tổng sản
lượng 128 tỷ USD vào năm 2000 và 235 tỷ USD vào năm 2003.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, sự chia nhỏ quy trình sản xuất
thành các công đoạn và quốc tế hóa từng công đoạn đang diễn ra rất nhanh chóng
trong ngành công nghiệp đặc biệt là CNĐT. Xu thế này làm biến đổi cơ cấu công
nghiệp của các nước phát triển, đồng thời ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển công
nghiệp của các nước đang phát triển. Việc chia nhỏ quy trình sản xuất này sẽ dẫn tới
sự xóa bỏ ranh giới giữa các vùng sản xuất. Trong bối cảnh cạnh tranh giữa các công
ty về công nghệ, giá thành và tốc độ phát triển sản phẩm ngày càng quyết liệt, các
công ty đa quốc gia luôn tìm kiếm những nơi sản xuất thích hợp nhất để di chuyển các
cơ sở sản xuất ra nước ngoài hoặc thông qua hình thức gia công cho công ty khác. Để
thích ứng với thị trường và tận dụng nguồn nhân lực, một số công ty Nhật có xu
hướng di chuyển cả công đoạn thiết kế và phát triển sản phẩm ra nước ngoài. Vì vậy,
một công ty đa quốc gia có thể có nhà máy sản xuất và các cơ sở nghiên cứu phát
triển, các kênh cung cấp sản phẩm và dịch vụ ở các nước khác nhau trên thế giới.
Cùng với việc tự do di chuyển vốn đầu tư, tài sản, dịch vụ, kỹ thuật công nghệ và
nguồn nhân lực, quá trình xóa bỏ đường biên giới trong hoạt động của các công ty đa
quốc gia trong ngành CNĐT cũng sẽ tiến triển mạnh mẽ. Thực hiện quá trình này cần
có sự hợp nhất thông qua trao đổi thương mại giữa các cơ sở sản xuất ở nước ngoài
và mối LK giữa các doanh nghiệp. Các công ty đa quốc gia trong ngành CNĐT điều
phối rất có hiệu quả của các công ty con nằm rải rác khắp thế giới. Chính vì xu hướng
chuyển dịch này mà những quốc gia nào có lợi thế về nhân lực, về công nghiệp phụ
trợ sẽ thu hút được các nhà đầu tư, từ đó dần dần từng bước phát triển ngành theo
chuỗi giá trị toàn cầu.
Dưới đây sẽ là một số xu hướng phát triển chính của ngành CNĐT trên thế
giới trong thời gian tới.
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.1.4.3.1.1. Xu hướng nâng cao giá trị sản xuất

* Tăng giá trị sản xuất theo từng mặt hàng
Có thể xem xét giá trị sản xuất cho hai loại đối tượng sản phẩm, loại sản phẩm
điện tử phổ biến và loại điện tử có hàm lượng chất xám cao.
- Đối với các sản phẩm điện tử loại phổ biến, giá trị sản xuất không cao nhưng lại có
số lượng sử dụng vô cùng lớn nên có thể đem lại tổng giá trị sử dụng khổng lồ. Nhật
Bản nhiều năm đầu tư vào lĩnh vực này và hàng loạt sản phẩm từ radio, cassetts, tivi,
máy ảnh điện tử số, trò chơi điện tử, máy điện thoại… đã tràn ngập thị trường thế
giới. Để tăng giá trị sản xuất trong miền sản phẩm này các nước trong khu vực và trên
thế giới có xu hướng đổi mới công nghệ, tự động hóa sản xuất, nghiên cứu thiết kế
các sản phẩm điện tử mới để thu hút khách hàng và mở rộng thị trường.
- Đối với các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, mang tính hệ thống, công nghệ
cao có quy mô toàn cầu như các trạm viễn thông quốc tế, vũ trụ, hàng không, máy
tính lớn…giá trị sản xuất cao nhưng số lượng sử dụng không nhiều nên chủ yếu chỉ
các nước phát triển mạnh như Mỹ, các nước thuộc cộng đồng Châu Âu, Nga nghiên
cứu sản xuất. Hiện nay, các chuyên gia khoa học đã xác định 6 ngành công nghệ cao
là Công nghệ Hàng Không Vũ Trụ, Tin học và Thiết bị văn phòng, Điện tử và Cấu
kiện điện tử, Dược phẩm, chế tạo thiết bị điện. Các ngành này có hàm lượng R&D
chiếm khoảng 11,4% (so với 4% của ngành công nghiệp chế tạo).
* Giá trị sản xuất các sản phẩm điện tử loại phổ biến có xu hướng giảm ở các nước
công nghiệp phát triển và tăng ở khu vực các nước đang phát triển
Việc đầu tư công nghệ cao thực tế đã đem lại hiệu quả vô cùng to lớn cho các
nước công nghiệp phát triển. Vì vậy, có một xu hướng hiện nay là các nước phát triển
chuyển giao cho các nước đang phát triển sản xuất các mặt hàng có mức độ công
nghệ không phức tạp và lãi suất không cao để tận dụng ưu thế nhân công rẻ và thị
trường ở những nước này. Các nước phát triển nhờ đó được giải phóng để tập trung
phát triển sản xuất các loại sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, lãi suất lớn.
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Các nước có trình độ sản xuất không cao cũng có khuynh hướng tăng giá trị

sản xuất các sản phẩm công nghệ cao. Đầu tư nước ngoài đồng thời cũng là chỗ dựa
cho sự phát triển ban đầu của ngành CNĐT ở mỗi nước nhằm tạo nền móng cho phát
triển sản phẩm, thị trường và chuyển dần từ lao động đơn giản sang lao động kỹ
thuật…Giai đoạn này kéo dài vài chục năm và vẫn diễn ra ở các nước trong khu vực.
Tuy nhiên, để có thể tăng cường giá trị sản xuất, hầu hết các quốc gia đều xác định là
phải đầu tư ngày từ ban đầu những lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật đảm bảo cho phát
triển sản xuất các loại sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
Hiện nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, với vai
trò xuyên suốt của khoa học công nghệ thông tin, tính chuẩn hóa của thiết bị, nhiều
vấn đề kỹ thuật trước đây chưa giải quyết được nay đã được nghiên cứu và thực hiện
thành công. Vì vậy, ngày càng có nhiều nước trên thế giới, trong đó có cả các nước
đang phát triển tham gia các hoạt động nhằm tạo ra các sản phẩm có hàm lượng chất
xám cao để nâng cao giá trị sản xuất cho nền kinh tế.
1.1.4.3.1.2. Xu hướng phát triển sản phẩm
Đối với các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản nhờ ứng dụng
rộng rãi kỹ thuật số, các vi mạch có độ tích hợp cực lớn nên các sản phẩm điện tử
được tạo ra đã đạt trình độ kỹ thuật cao. Xu hướng phát triển của các nước này đến
năm 2010 là tiến tới chế tạo các sản phẩm và thiết bị có độ tích hợp cao, đa chức
năng, tốc độ lớn và có quy mô toàn cầu như các trạm viễn thông quốc tế, vũ trụ, hàng
không, máy tính lớn…
1.1.4.3.2. Tác động của khoa học và công nghệ
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng có những bước tiến khổng
lồ, khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những tiến bộ
của khoa học và công nghệ đã đưa toàn thế giới vào một thời kỳ phát triển mới: thời
kỳ phát triển tri thức. Ngành CNĐT là ngành kinh tế có giàu hàm lượng chất xám
phát triển mạnh, chu kỳ đổi mới công nghệ và sản phẩm được rút ngắn. Sự phân công
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
theo ngành và theo sản phẩm được chuyển dần sang phân công theo chi tiết sản phẩm

và quy trình công nghệ. Do đó, sự khác biệt về điều kiện tự nhiên không đóng vai trò
quyết định trong phân công lao động quốc tế nữa. Khả năng về tiềm lực khoa học và
công nghệ trong ngành CNĐT đang dần dần trở thành yếu tố quan trọng trong công
cuộc cạnh tranh quốc tế.
Xuất phát điểm của CNĐT Việt Nam là thấp trong điều kiện CNĐT thế giới đã
phát triển ở trình độ cao, vai trò của CNĐT càng trở nên đặc biệt quan trọng trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là trong việc phục vụ sự phát triển trong tự
động hóa trong sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm, y tế, hiện đại hóa ngân
hàng và các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, quốc phòng, an ninh… Để phát triển ngành
CNĐT mũi nhọn, nước ta cần phải lựa chọn con đường đi của mình. Với lợi thế của
nước đi sau ngành CNĐT có thể tận dụng được những thành tựu khoa học và công
nghệ và những kinh nghiệm của các nước đi trước, đồng thời cần tranh thủ mọi cơ
hội để đi sâu vào công nghệ hiện đại.
Với đường lối kinh tế của Đảng ta là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, để
giảm sự phụ thuộc của khu vực sản xuất vào công nghệ của nước ngoài đòi hỏi ngành
CNĐT phải nhanh chóng vươn lên làm chủ và sáng tạo công nghệ mới. Có như vậy
mới có thể tạo dựng được một ngành CNĐT phát triển độc lập và các sản phẩm của
ngành mới có khả năng cạnh tranh, thâm nhập thị trường thế giới.
1.1.4.3.3. Tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đang là một xu thế lớn tạo nhiều cơ hội cũng
như nhiều khó khăn và thách thức cho các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát
triển và chậm phát triển. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang có tác
động tích cực đối với ngành CNĐT Việt Nam như: giúp ngành có khả năng thu hút
nhiều nguồn lực như vốn, chất xám, công nghệ, khoa học kỹ thuật, thông tin, quản
lý…của các nước đang phát triển; mở ra khả năng to lớn để các sản phẩm điện tử Việt
Nam có thêm cơ hội xâm nhập vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, toàn cầu hóa và hội
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhập kinh tế cũng gây ra những tác động tiêu cực đến ngành CNĐT Việt Nam như:

khi tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, Việt Nam phải giảm dần thuế quan và
dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, nghĩa là bỏ hàng rào mậu dịch, do vậy mà sản phẩm
của nước ngoài có sức cạnh tranh cao sẽ có điều kiện thâm nhập mạnh vào thị trường
trong nước. Nếu như các sản phẩm điện tử sản xuất trong nước không có sự thay đổi
về chất thì chắc chắn sẽ không đứng vững ngay trên thị trường trong nước và điều đó
cũng có nghĩa là ngành CNĐT non trẻ sẽ không thể phát triển nếu không có những
biện pháp đẩy mạnh NLCT.
1.1.4.3.4. Đường lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam
Đúc kết và học hỏi được kinh nghiệm của các nước trong và ngoài khu vực,
Việt Nam cũng đã nhận thức việc phải coi trọng sản xuất để xuất khẩu, coi trọng việc
thu hút các nguồn lực bên ngoài. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX, Đảng ta đã lựa chọn đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2001 – 2010 là: “Đẩy mạnh CNH - HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất.
Muốn công nghiệp hóa thành công, Việt Nam phải lựa chọn được những ngành công
nghiệp mũi nhọn vừa phát huy được lợi thế so sánh của đất nước, vừa tiếp cận nhanh
những kỹ thuật công nghệ tiên tiến của thế giới, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy
các ngành khác phát triển”. Việc lựa chọn đúng có ý nghĩa sống còn. Chính vì vậy,
Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ
cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử, tự động hóa. CNĐT – thông tin
trở thành ngành mũi nhọn, công nghiệp sản xuất phần mềm tin học thành ngành kinh
tế có tốc độ tăng trưởng vượt trội. Phát triển những ngành này vừa để đáp ứng yêu
cầu hiện đại hóa nền kinh tế, vừa để tăng nhanh giá trị xuất khẩu mà nguồn nhân lực
nước ta có khả năng vươn lên, vừa tạo điều kiện để nước ta từng bước phát triển kinh
tế tri thức”.
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CNĐT là một trong những ngành công nghiệp chính, là ngành sản xuất vật
chất cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Trình độ phát triển của CNĐT là một trong

những tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. CNĐT là
động lực cho sự nghiệp CNH, HĐH bởi nó được áp dụng trong nhiều lĩnh vực như ô
tô, xe máy, hệ thống chế tạo tự động, cơ khí chính xác, thiết bị y tế, công nghệ thông
tin. Như vậy, CNĐT luôn luôn phát triển đi trước một bước so với toàn bộ các ngành
công nghiệp nói chung. Thực tế, CNĐT đang là ngành mũi nhọn trong nền KTQD
như Đảng ta đã khẳng định.
1.2. Liên kết sản xuất công nghiệp
1.2.1. Thực chất của hoạt động liên kết kinh tế
Theo tác giả, LKKT được nhận thức một cách khái quát là phạm trù phản ánh
mối quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau, để thực
hiện những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhất định, nhằm đem lại hiệu quả kinh tế
cao nhất cho mỗi bên tham gia.
Đến đây ta có thể thấy, LKSX quốc tế thực chất cũng là một hình thức của
hoạt động LKKT. Đó là hình thức các doanh nghiệp trong cùng một ngành ở những
quốc gia khác nhau tiến hành LK để cùng sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó, cùng
nhau hưởng lợi nhuận và phân chia cả rủi ro. Chính vì vậy mà hoạt động này cũng
mang những đặc điểm và đặc trưng cơ bản của hoạt động LKKT.
Đặc điểm cơ bản của quan hệ LKKT là xuất phát từ mối quan tâm “cùng có
lợi ích kinh tế” mà các bên tham gia tự nguyện thiết lập các mối quan hệ “phối hợp”.
Các chủ thể LKKT có sự ràng buộc lẫn nhau khá chặt chẽ và có trách nhiệm cao trong
tổ chức thực hiện các hoạt động phối hợp.
Các chủ thể tham gia hoạt động LKKT có thể là doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, các tổ chức kinh tế - xã hội, chính quyền địa phương, cơ quan quản lý cấp
ngành, cấp quốc gia.
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Trong hoạt động kinh tế, có thể thiết lập quan hệ kinh tế với những nội dung
khá phong phú ở tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất mở rộng như khâu chuẩn
bị các yếu tố cho sản xuất, sản xuất, phục vụ sản xuất, nghiên cứu ứng dụng khoa học

– công nghệ, đào tạo, bảo vệ tài nguyên môi trường, tổ chức triển khai khai thác thị
trường, thúc đẩy quá trình lưu thông tiêu thụ sản phẩm…
Thực chất hay bản chất của LKKT chính là quá trình xã hội hoá về phương
diện kinh tế nền sản xuất xã hội, Sự phát triển của LKKT làm cho lực lượng sản xuất
ngày càng phát triển, mức độ tập trung hoá ngày càng cao, làm cho các khu vực kinh
tế ngày càng xích lại gần nhau, gắn bó, cố kết với nhau hơn. Động cơ và mục đích
chủ yếu của LKKT là nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa và ổn định, là nhằm tăng cường
sức mạnh trong cạnh tranh trên thị trường ngày càng mở rộng phạm vi. Lợi ích kinh tế
là sợi dây, là chất nhựa làm gắn bó các doanh nghiệp, các chủ thể LK lại với nhau.
Cạnh tranh là nhân tố khách quan thúc đẩy các doanh nghiệp “tự nguyện bắt buộc”
LK lại với nhau trên cơ sở đảm bảo lợi ích sống còn trên thị trường. Để đạt tới lợi
nhuận tối đa và ổn định, hoạt động LKKT là nhằm phát triển, tìm kiếm, khai thác
ngày càng nhiều nguồn nguyên liệu cho sản xuất, đa dạng hoá mặt hàng, tăng nhanh
khối lượng và chất lượng sản phẩm, rút ngắn và đẩy nhanh quá trình lưu thông, tiêu
thụ sản phẩm, mở rộng phát triển thị trường, tức là nâng cao năng suất lao động, tồn
tại, phát triển và mang lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
1.2.2. Tính tất yếu của LKSX quốc tế và vai trò của LKSX quốc tế đối với việc nâng
cao NLCT của ngành CNĐT Việt Nam
1.2.2.1. Tính tất yếu của LKSX quốc tế
Sự ra đời của LKSX là tất yếu do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do yêu cầu bảo đảm tính thống nhất của quá trình tái sản xuất – xã
hội, tái sản xuất mở rộng là một quá trình thống nhất. Nhưng do tác động của sự phát
triển phân công lao động xã hội và lực lượng sản xuất làm cho quá trình đó phân chia
thành nhiều khâu độc lập, tách rời nhau. Đảm bảo tính thống nhất của quá trình tái
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sản xuất xã hội đòi hỏi phải kết hợp các khâu đó lại với nhau. Có nhiều cách để thể
hiện sự kết hợp trên trong đó, sự kết hợp thông qua quan hệ kinh tế thường mang tính
chặt chẽ và đảm bảo hiệu quả kinh tế cao hơn.

Thứ hai, do tác động của quy luật tích tụ, tập trung hoá sản xuất và xã hội hoá
sản xuất. Mỗi doanh nghiệp độc lập là một tế bào của nền kinh tế, nó không ngừng
vận động phát triển dưới tác động của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó có
quy luật tích tụ, tập trung hoá. LKSX giữa các doanh nghiệp với nhau để tích luỹ vốn,
tăng khả năng sản xuất sản phẩm, nâng cao trình độ xã hội hoá của nền sản xuất là xu
thế khách quan hợp quy luật.
Thứ ba, do tác động của quy luật cạnh tranh và quy luật tối đa hoá lợi nhuận.
Cạnh tranh để giành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là quy luật vốn có của
các doanh nghiệp trong nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. LKSX là hoạt
động có quan hệ gắn bó mật thiết với cạnh tranh. Các doanh nghiệp phát triển quan hệ
LKSX để tăng sức mạnh thực hiện cạnh tranh thắng lợi với các đối thủ. Cạnh tranh
thúc đẩy LK, LK lại dẫn đến làm tăng khả năng cạnh tranh của các chủ thể. Trong
kinh doanh hàng hóa, các doanh nghiệp đều mong đạt được lợi nhuận tối đa trong khả
năng vốn có của mình. Hoạt động LK có thể cho phép doanh nghiệp bù đắp chỗ yếu,
khai thác điểm mạnh lẫn nhau. LK có thể cho phép các doanh nghiệp thực hiện được
những hợp đồng kinh doanh mà tự mình không thể đảm nhận được hoặc thực hiện
nhanh chóng và ít tốn kém nhất. Qua đó, các doanh nghiệp có thể tận dụng được lợi
thế so sánh của các bên và biến lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh.
Thứ tư, do tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại. Trong
mấy thập kỷ lại đây, cuộc cánh mạng khoa học – công nghệ có bước phát triển mới
sâu rộng chưa từng có, trực tiếp tác động vào mọi ngành KTQD, mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội của các quốc gia trên thế giới. Các ngành, các doanh nghiệp trong ngành
phải tăng cường LKSX để nắm bắt, ứng dụng nhanh các thành tựu mới của tiến bộ
khoa học – công nghệ ngày càng phát triển với tốc độ cao, có chu kỳ nghiên cứu phát
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
minh - ứng dụng ngày càng rút ngắn. LKSX để tăng khả năng sản xuất ra các sản
phẩm mới, đáp ứng kịp thời nhu cầu mới phát sinh do tác động của tiến bộ khoa học –
công nghệ hiện đại để tăng khối lượng lợi nhuận.

Thứ năm, do sự gia tăng ngày càng mạnh mẽ của quá trình hội nhập, toàn cầu
hóa. Trong bối cảnh Việt Nam là thành viên WTO, việc mở của nền kinh tế, hạ thấp
hàng rào thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan sẽ được thực hiện một cách triệt
để trong một thời gian ngắn, hơn bao giờ hết đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành
cần phải hợp tác, LK với nhau trong toàn bộ quá trình sản xuất, kinh doanh, đặc biệt
là trong lĩnh vực thiết lập thị trường và thương hiệu hàng hóa trong và ngoài nước.
Những cơ hội và thách thức mà hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh quốc tế theo
các nguyên tắc kinh tế thị trường đã và sẽ vượt quá khả năng của bất kỳ doanh nghiệp
“đơn thương độc mã” khép kín nào. Nói cách khác, không một doanh nghiệp và nhà
đầu tư dù hùng mạnh đến đâu có thể đủ sức mạnh và thu được hiệu quả cao nến tự
minh tổ chức sản xuất kinh doanh từ A – Z trong tất cả các công đoạn, quy trình tái
sản xuất cả ở cấp độ vi mô lẫn vĩ mô, quốc gia lẫn quốc tế. Bên cạnh đó, việc phân
công, hợp tác, LK giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp, nhà đầu tư
nước ngoài dưới các hình thức và quy mô thích hợp sẽ cho phép các bên tham gia hợp
tác khai thác và phát huy được lợi thế so sánh của mình cũng như tạo ra sức mạnh
cộng hưởng mới để tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn cả ở thị trường trong
nước cũng như thị trường nước ngoài. Có thể nói, chính sự hợp tác, LK được tổ chức
và thực hiện một cách chặt chẽ sẽ góp phần khai thác một cách hợp lý các nguồn lực
và lợi thế của từng doanh nghiệp, qua đó xây dựng nên những doanh nghiệp, ngành
nghề, sản phẩm có sức cạnh tranh và thu được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất
trong môi trường đầu tư và thị trượng rộng mở khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ
chức Thương mại Thế giới WTO.
Phát triển LKSX quốc tế ngày càng có vai trò, tác dụng to lớn. Đối với từng
doanh nghiệp trong ngành, LK tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể đi sâu và phát
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
triển chuyên môn hoá có hiệu quả, khai thác được những điểm mạnh, khắc phục
những điểm yếu, thích ứng với cơ chế thị trường, chiến thắng trong cạnh tranh, đẩy
nhanh ứng dụng những thành tựu của tiến bộ khoa học – công nghệ, nâng cao hiệu

quả sản xuất kinh doanh, thu được lợi nhuận cao…Đối với toàn xã hội, phát triển
LKSX quốc tế góp phần thúc đẩy phân công lao động xã hội giữa các vùng, các doanh
nghiệp trong nước và quốc tế; thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung, xã hội hoá
sản xuất công nghiệp, huy động có hiệu quả mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế,
thực hiện thành công công cuộc CNH – HĐH đất nước. LK tạo và tăng cường sức
mạnh, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng mở cửa, hợp tác và hội
nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, góp phần khắc phục nguy cơ tụt hậu, khai
thác mọi lợi thế của đất nước.
1.2.2.2. Vai trò của LKSX quốc tế đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành công nghiệp điện tử Việt Nam
Thứ nhất, LKSX quốc tế giúp ngành CNĐT khắc phục được những bất lợi về
quy mô: mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành đều có một hoặc một vài lĩnh vực hoạt động
chủ đạo, mang tính đặc thụ, chuyên biệt. Bên cạnh đó, là một loạt các hoạt động phụ
mà bản thân ngành không thể thực hiện được, nhưng nó lại không thể thiếu đối với
dây chuyền sản xuất chính. Vì vậy, LKSX quốc tế giúp ngành mở rộng được quy mô,
giảm thiểu được chi phí sản xuất và có thể tìm kiếm được lợi nhuận cao.
Thứ hai, LKSX quốc tế giúp ngành CNĐT có thể phản ứng nhanh được với sự
thay đổi của thị trường. Nhu cầu của thị trường luôn luôn biến đổi, đặc biệt là trong
ngành CNĐT, để có được những thay đổi phù hợp với nhu cầu của thị trường, ngành
cần phải có thông tin và có đủ khả năng triển khai nhanh các phương án sản xuất mới.
Do ngành CNĐT Việt Nam có xuất phát điểm còn thấp, thông tin chưa kịp thời vì vậy
mà việc triển khai các phương án sản xuất mới còn gặp nhiều khó khăn. Và chỉ có
LKSX quốc tế mới giúp các doanh nghiệp, ngành có thể nắm bắt được thông tin một
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cách nhanh nhạy, có điều kiện về vốn, cơ sở vật chất để có thể triển khai được các
phương án sản xuất mới một cách hiệu quả.
LKSX quốc tế giúp ngành tiêu thụ sản phẩm một cách nhanh hơn: LKSX quốc
tế giúp ngành CNĐT nước ta có thể gắn được với những tên tuổi nổi tiếng như Sony,

JVC, LG,…là những thương hiệu mà người tiêu dùng đã biết đến rất nhiều, thị trường
tiêu thụ có sẵn...Trong quá trình LKSX sẽ tạo ra những sản phẩm vừa có chất lượng
cao, kiểu dáng hợp lý mà lại gắn với những thương hiệu nổi tiếng như vậy, giá thành
lại tương đối, điều này giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm một cách dễ dàng, mang lại
nhiều lợi nhuận cao hơn, từ đó, giúp ngành CNĐT nước ta dần dần từng bước tiến lên
trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành CNĐT.
LKSX quốc tế giúp ngành có thể tiếp cận nhanh chóng với các công nghệ, kỹ
thuật mới. Trong quá trình LKSX quốc tế, các nhà LK tiến hành chuyển giao công
nghệ mới, hiện đại cho các nhà sản xuất trong nước, từ đó, chúng ta có thể tiếp cận
với công nghệ, kỹ thuật mới một cách dễ dàng.
Thứ ba, LKSX quốc tế giúp ngành có thể giảm thiểu được rủi ro trong kinh
doanh. Phát triển sản xuất là một quá trình vận động không ngừng, tích tụ tập trung
rồi lại chia tách, sát nhập để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và phù hợp với khả
năng nội tại của doanh nghiệp, với mục đích tìm kiếm lợi nhuận cao nhất mà lại giảm
thiểu được rủi ro. Quá trình đó diễn ra thực chất là thông qua các hoạt động LKSX.
Đứng trước một dự án sản xuất lớn, thị trường tiêu thụ tiềm năng…nếu doanh nghiệp
bỏ lỡ sẽ mất cơ hội làm ăn nhưng nếu doanh nghiệp đơn độc một mình thực hiện
trong khi năng lực còn yếu sẽ dẫn đến hiệu quả thấp, thậm chí thua lỗ. Để tránh hiện
tượng này, nhiều doanh nghiệp đã biết phân tán rủi ro bằng cách mời gọi các doanh
nghiệp khác tham gia thực hiện dự án đặc biệt là những doanh nghiệp nước ngoài có
đầy đủ tiềm năng về nguồn lực, vốn, kỹ thuật…Qua đấy, mỗi doanh nghiệp sẽ đảm
nhận một phần công việc, tùy theo năng lực của doanh nghiệp. Như vậy, mỗi doanh
nghiệp sẽ chịu một phần rủi ro.
Nguyễn Thị Thu Huyền Lớp: Kinh tế phát triển B
25

×