Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Vai trò quản lý nhà nước trong các tình huống bất thường ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.36 KB, 17 trang )




Khoa học pháp lý

Vai trò quản lý nhà nước trong
các tình huống bất thường
Ảnh chụp trên đường Trần
Duy Hưng, Hà Nội, tháng 11/2008 khi trận lụt lịch sử diễn ra.

Trong những ngày cuối tháng 10 và đầu tháng 11/2008, tại Thủ
đô Hà Nội đã diễn ra những sự kiện khá đặc biệt

Trong những ngày cuối tháng 10 và đầu tháng 11/2008, tại Thủ
đô Hà Nội đã diễn ra những sự kiện khá đặc biệt. Trong khi các
đại biểu Quốc hội đang tập trung thảo luận về hàng loạt vấn đề
quốc kế dân sinh, thì ở bên ngoài, những cơn mưa trái mùa nhưng
với cường suất đặc biệt lớn đã nhấn chìm nhiều làng mạc, phố
phường Thủ đô trong biển nước mênh mông. Có thể thấy, cả Thủ
đô Hà Nội nóng lên bởi những hiện tượng bất thường, đòi hỏi
Nhà nước, Chính phủ và bộ máy chính quyền Thủ đô phải gồng
lên để giải quyết. Dĩ nhiên, kết quả như thế nào: tốt, nhanh
chóng, hiệu quả hay ngược lại đều phụ thuộc vào các biện pháp
mà Chính phủ và chính quyền Hà Nội đưa ra. Chúng tôi xin được
sử dụng tình huống này như một đường link để bàn về một vấn
đề lý luận khá trừu tượng, là vai trò nhà nước trong quản lý xã
hội khi có tình huống bất thường.
1. Chức năng và vai trò của người “nhạc trưởng”
Trong đời sống hiện thực, để duy trì sự sống với tính cách là nhân
loại, con người phải tiến hành các hoạt động để tạo ra của cải
nhằm nuôi sống mình và duy trì sự tồn tại của xã hội. Hoạt động


sáng tạo ra lịch sử đầu tiên của con người trong chinh phục tự
nhiên, cải tạo và chiếm lấy thế giới thông qua lao động sản xuất
của cải vật chất để nuôi sống chính mình là hoạt động mang tính
xã hội. Để chinh phục tự nhiên, con người phải quan hệ và hợp
sức với nhau. Chính hoạt động lao động làm chung đó đã làm cho
lao động của con người mang tính xã hội và đã khách quan làm
nảy sinh nhu cầu tổ chức, kiểm tra, điều hoà, phối hợp các hoạt
động - những công việc thuộc về chức năng xã hội của một hoạt
động đặc thù được định danh là quản lý. Khi xã hội loài người
xuất hiện giai cấp, nhà nước thì những chức năng xã hội ấy khách
quan thuộc về nhà nước.
Khảo cứu lịch sử nhân loại kể từ khi xuất hiện nhà nước đến nay
cho thấy, quản lý các mặt hoạt động của đời sống xã hội luôn là
chức năng của nhà nước. Chức năng đó không ai có thể thay thế
được và vai trò đó ngày càng được đề cao cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, của phân công lao động và của tiến bộ xã
hội. Như thế, tính chất xã hội của lao động chính là nhân tố quy
định tính tất yếu cũng như sự tăng lên của vai trò đó.
Khi phân tích quá trình sản xuất của tư bản, C.Mác đã chỉ ra
rằng: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên một quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng
đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân
và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động
của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí
quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều
khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”
(1). Điều đó có nghĩa là, tính chất xã hội của lao động đòi hỏi
phải có sự quản lý với tính chất là một chức năng xã hội - chức
năng của người người nhạc trưởng để điều khiển các quá trình xã
hội làm cho các quá trình đó diễn ra bình thường, trôi chảy, nếu

không sẽ xảy ra tình trạng hỗn loạn. ở cấp vĩ mô, người “nhạc
trưởng” đó không ai khác ngoài nhà nước.
Đến lượt mình, khi đã tồn tại với tính cách là người nhạc trưởng,
nhà nước phải thực hiện các chức năng cơ bản là người dự đoán,
tiến hành kế hoạch hoá, tổ chức, điều hoà, phối hợp hoạt động,
kiểm tra để cho mọi hoạt động của xã hội diễn ra bình thường,
trôi chảy. Trong điều kiện các mặt hoạt động của đời sống xã hội
không có những biến động lớn xảy ra, nhà nước đã có vai trò hết
sức to lớn và quan trọng. Còn trong trường hợp đời sống xã hội
có những biến cố do những tác động từ các yếu tố tự nhiên hoặc
các yếu tố xã hội, nghĩa là trong điều kiện xã hội có những tình
huống bất thường, vai trò hết sức to lớn và quan trọng đó sẽ phải
được đặt ở vị trí có tầm quan trọng đặc biệt và phải được đề cao
hơn rất nhiều, thậm chí là nhân tố không thể thay thế. Điều này
không chỉ đúng với nhà nước xã hội chủ nghĩa mà đúng với mọi
nhà nước nói chung.
2. Tính chất đặc biệt về vai trò quản lý xã hội của Nhà nước
trong tình huống bất thường
Vấn đề đặt ra là, vai trò đặc biệt của người “nhạc trưởng” trong
các tình huống bất thường được thể hiện như thế nào?
Tính chất “đặc biệt” về vai trò quản lý xã hội của nhà nước trong
tình huống bất thường bị quy định bởi tính chất “đặc biệt” của
các vấn đề xã hội trong tình huống bất thường. Đến lượt nó, tính
chất “đặc biệt” của các vấn đề xã hội trong tình huống bất thường
lại bị quy định bởi những diễn biến hết sức mau lẹ của chính các
tình huống bất thường.
Cho dù nguyên nhân dẫn đến xảy ra các tình huống bất thường là
gì, do các yếu tố tự nhiên hay các yếu tố xã hội làm nảy sinh, thì
tất cả cũng đều có chung đặc điểm là tình huống thường diễn biến
hết sức mau lẹ, biến hoá nhanh chóng và phức tạp (tính chất đặc

biệt này có nét tương đồng với tình huống của khởi nghĩa vũ
trang trong chiến tranh cách mạng).

Ví dụ tình huống bạo loạn ở Tây Nguyên đầu năm 2001 và 2004,
hoặc tình huống mưa lụt ở Hà Nội cuối tháng 10 đầu tháng
11/2008. Vụ bạo động ở Tây Nguyên năm 2004 bắt đầu từ những
khiếu kiện về đất đai, các thế lực thù địch lập tức lợi dụng, biến
vấn đề thuần kinh tế - xã hội thành vấn đề chính trị. Chúng kích
động, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin, non nớt về chính trị
biểu tình đòi trả lại đất cho người Thượng và đòi lập cái gọi là
nhà nước Đềga tự trị. Các thế lực từ bên ngoài thò bàn tay phá
hoại vào… làm cho tình hình trở nên hết sức nóng bỏng. Còn với
tình huống mưa lụt ở Hà Nội tháng 11/2008. Mưa lớn trái mùa đã
là một tình huống bất thường, công tác chuẩn bị thích ứng với
mưa lũ chưa được chuẩn bị, hệ quả là, mưa dài và lớn liên tục,
nước lũ lên cao, xuất hiện những vụ tai nạn gây chết người, điện
bị cắt, người dân không được cung cấp đầy đủ thông tin, xuất
hiện những tin đồn thất thiệt về phân lũ, kẻ xấu lợi dụng cơ hội
ấy để trục lợi, đầu cơ đẩy giá lưng thực, thực phẩm và các loại
dịch vụ lên cao; tiếp đến là tình trạng ô nhiễm môi trường và dịch
bệnh xuất hiện…). Tất cả những tình huống đó dường như không
tuân theo một quy luật nhất định, lại diễn biến nhanh, hết sức đột
xuất, hết sức bất ngờ, hết sức khẩn cấp không hề nằm trong một
sự dự liệu nào.
Quản lý xã hội trong các tình huống đó phải rất khác với tình
huống bình thường. Một mặt, phải rất bình tĩnh. mặt khác, hành
động phải quyết đoán, mau lẹ nhưng sáng suốt và chính xác, nếu
không dễ gây hoảng loạn trong dân chúng. Việc Uỷ ban nhân dân
thành phố Hà Đông ra thông báo về di chuyển các hộ dân sống
ven sông Nhuệ và sông La Khê trong vụ mưa lụt ở Hà Nội năm

2008, đã bị hiểu nhầm sang thông báo phân lũ, là một ví dụ. Thực
tế đó đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước đối với đời sống xã hội với
tính cách là người “nhạc trưởng” trong tình huống bất thường
cũng phải mang và phải thể hiện được tính chất “bất thường”.
Hành động và nội dung của những quyết định quản lý được hiểu
là phải mang tính “bất thường”, khác với những quyết định mang
tính thường xuyên, truyền thống, chính tắc (cái được áp dụng cho
tình huống bình thường) bằng những quyết định mang những nội
dung, biện pháp phi thường xuyên, phi truyền thống, phi chính
tắc. Dĩ nhiên, những cái “phi” đó không vượt khỏi giới hạn thẩm
quyền cho phép của người đứng đầu Nhà nước, đứng đầu Chính
phủ, đứng đầu các cơ quan nhà nước và chính quyền các địa
phương, đồng thời nó đòi hỏi các cấp thuộc quyền, đòi hỏi người
dân - với tính cách là những đối tượng quản lý - phải thực hiện
nghiêm túc, phải tuân thủ triệt để những quyết định của người
“nhạc trưởng” nhưng với một tinh thần sáng tạo, không máy móc.
ở trong trường hợp này, mọi sự chần chừ của cả chủ thể và đối
tượng quản lý đều là hành động nguy hiểm.
Vấn đề được đề cập ở đây không chỉ ở những nội dung thuộc các
quyết định quản lý, mà cả ở quy trình ra quyết định quản lý.
Trong trường hợp này, quy trình ra các quyết định quản lý trong
các tình huống bất thường giống như trường hợp các quyết định
của người chỉ huy các đơn vị quân đội trong tình huống chiến đấu
mau lẹ mà không có thời gian để họp cấp uỷ, thống nhất các chủ
trương biện pháp lãnh đạo chỉ huy. Khi đó, bao giờ người chỉ huy
cũng phải tự chịu trách nhiệm, tự quyết định lấy vấn đề thuộc
thẩm quyền trách nhiệm của mình, ra các mệnh lệnh một cách
quyết đoán, mau lẹ và hết sức chính xác để xử lý các tình huống
chiến đấu, nếu không sẽ bị đối phương tiêu diệt.
3. Nội dung quản lý xã hội của Nhà nước phản ánh tính chất

đặc biệt về vai trò của Nhà nước trong quản lý các vấn đề xã
hội trong tình huống bất thường
3.1. Cơ sở của việc xác định những nội dung hoạt động quản lý
của Nhà nước trong các tình huống bất thường.
Trong tình huống bình thường, nội dung quản lý của Nhà nước
đối với đời sống xã hội dựa trên những quy luật vận động của xã
hội trong các lĩnh vực cụ thể: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…
Xét về bản chất, cái được tạo thành quy luật không gì khác là tính
lặp lại của những vận động xã hội thông qua vô số các hiện tượng
xã hội được coi là sự hợp lý đã tồn tại và có tác dụng thúc đẩy
các mặt của đời sống xã hội trong sự vận động vừa tuần tự và có
bước nhảy vọt khiến xã hội không ngừng tiến lên. Do đó, quản lý
xã hội trong tình huống bình thường chính là việc Nhà nước phải
hành động sao cho các mặt hoạt động của xã hội trong sự vận
động và biến đổi theo hướng tiến lên. Khi xuất hiện tình huống
bất thường, tức là những sự việc gây đảo lộn xã hội xuất hiện trái
với các quy luật đã chi phối tất yếu thực tiễn cuộc sống, hoạt
động quản lý xã hội của Nhà nước đòi hỏi phải có các quyết định
quản lý giúp cho xã hội triệt tiêu được các hiện tượng không bình
thường, để mọi hoạt động của xã hội trở lại thành bình thường.
Có thể hiểu, các quyết định quản lý (thực chất là các nội dung,
biện pháp trong các quyết định đó) của Nhà nước đưa ra nhằm
mục đích đưa các hoạt động của xã hội trở lại trạng thái bình
thường là phải làm ngược lại (trái) với những cái gọi là quy luật
vốn có, trái với cái thường xuyên, trái với những quy tắc thông
thường. Như khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tác động vào
Việt Nam, làm cho thực trạng nền kinh tế nước ta xuất hiện
những đảo lộn: lạm phát tăng cao, nhập siêu lớn xuất hiện, giá cả
tăng, sản xuất của nhiều cơ sở bị đình đốn… Nhà nước đã đưa ra
chủ trương tổng thể: kiềm chế lạm phát, điều chỉnh chỉ tiêu mức

tăng trưởng của nền kinh tế từ 8,5% xuống mức 7 - 7,5%, phấn
đấu ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững. Thực hiện chủ
trương đó, một quyết định quản lý khác với lúc bình thường đã
được ban hành. Đó là biện pháp thắt chặt tiền tệ được áp dụng.
Nghĩa là việc bơm tiền vào lưu thông theo quy luật về số tiền cần
thiết cho lưu thông đã không được thực hiện như công thức đã có.
Trong trường hợp lạm phát đã tăng cao, nếu tiếp tục duy trì mức
cung tiền mặt theo quy luật trên tất sẽ đẩy lạm phát tiếp tục leo
thang. Do đó, biện pháp thắt chặt tiền tệ là cần thiết. Nhà nước
buộc các ngân hàng tăng dự trữ bắt buộc. Bản thân các ngân hàng
lâm vào tình trạng khan hiếm tiền, buộc phải tăng lãi suất huy
động và tăng lãi suất tiền vay. Tình trạng khan kiếm tiền vốn của
các doanh nghiệp xuất hiện, nhiều doanh nghiệp không vay được
vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh vì với mức
lãi suất cao không thể trang trải được các khoản nợ (đặc biệt là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ) … Cách giải quyết vấn đề như vậy
không phải là phù hợp trong tình huống bình thường, nhưng
trong khủng hoảng, đó là việc làm bắt buộc và đúng đắn. Thực
tiễn cho thấy, biện pháp quản lý “bất bình thường” này đã phát
huy tác dụng. Tình hình kinh tế - xã hội từ tháng 8/2008 và 6
tháng đầu năm 2009 đang có dấu hiệu phục hồi và đạt được
những kết quả tích cực. Nền kinh tế duy trì được mức tăng trưởng
khá trong điều kiện lạm phát cao, nông nghiệp được mùa, giá trị
sản xuất công nghiệp tăng cao, cân đối vĩ mô cơ bản được đảm
bảo, tốc độ tăng giá tiêu dùng có xu hướng giảm dần; đầu tư trực
tiếp của nước ngoài (FDI) tăng cao, đầu tư gián tiếp (ODA) vẫn
được duy trì; lĩnh vực xã hội đạt được những kết quả quan trọng.
Và thực tế đến nay cho thấy, tình huống bình thường đã dần trở
lại đối với nền kinh tế. Một loạt quyết định quản lý khác trong
tình huống bình thường đã được ban hành thay cho những quyết

định trong tình huống bất thường. Nhà nước tăng biên độ giao
dịch giữa VND và USD, giảm mức tiền dự trữ bắt buộc, giảm
mức lãi suất cơ bản… nghĩa là, những quyết định quản lý trong
tình huống bình thường dần được khôi phục.
Hay như trong việc xử lý các tình huống úng ngập vừa qua tại
Thủ đô Hà Nội, Chính quyền thành phố đã huy động nhiều xe của
Cảnh sát cơ động, của Sở Giao thông vận tải trung chuyển người
dân qua các đoạn úng ngập đưa đến nơi cao, khô ráo để giúp
người dân thực hiện các hoạt động bình thường, không để tình
trạng ngập lụt gây trở ngại. Chính quyền thành phố cũng ra lệnh
ngừng mọi cuộc họp không cấp thiết để cán bộ sở, ban, ngành
bám dân, giải quyết úng lụt; ra lệnh tập trung mọi khả năng tiêu
úng cho nội đô, không bơm tiêu úng vào hệ thống sông Đáy, sông
Nhuệ khi lưu vực của hai hệ thống sông này cũng chiếm đại bộ
phận diện tích ngập úng của các vùng ngoại thành… Những việc
làm rất khác thường so với tình huống bình thường, nhưng không
thể khác.
3.2 Những nội dung chủ yếu trong hoạt động quản lý xã hội
của Nhà nước thể hiện trên thực tế về vai trò Nhà nước trong
việc quản lý xã hội trong các tình huống bất thường do tác
động của các yếu tố tự nhiên và xã hội
Hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước có nội dung rộng lớn.
Tuy nhiên, bám sát chức năng quản lý nhà nước là tổ chức, điều
hoà - phối hợp hoạt động, kích thích - động viên, kiểm tra…. có
thể khái quát thành một số nhóm vấn đề chủ yếu sau:
- Nhóm vấn đề thuộc về tổ chức bộ máy quản lý;
- Nhóm vấn đề thuộc về việc xác định các chính sách kinh tế - xã
hội để điều chỉnh các hoạt động của đời sống xã hội;
- Nhóm vấn đề thuộc về việc xác định các định chế điều chỉnh
các hoạt động của tổ chức và cá nhân trong xã hội;

- Nhóm vấn đề thuộc về việc xác định các biện pháp động viên
giáo dục;…
Đem các vấn đề nói trên áp vào việc quản lý xã hội trong các tình
huống bất thường, có thể nêu lên một số nội dung chủ yếu sau:
- Nhóm vấn đề tổ chức bộ máy quản lý: Trong tình huống bất
thường, Nhà nước cần thành lập các Uỷ ban nhà nước và Uỷ ban
các địa phương chuyên trách giúp Nhà nước kiểm tra và xử lý tại
chỗ các vấn đề cụ thể. Kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam cho
thấy, khi có tình huống bất thường, người ta lập ra các uỷ ban:
Uỷ ban về tình trạng khẩn cấp (nếu mức độ vấn đề cần đến mức
phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp), ủy ban tiếp nhập hàng viện
trợ nhân đạo quốc tế và của các địa phương khác trong cả nước,
Uỷ ban cứu hộ cứu nạn, Uỷ ban khắc phục hậu quả về môi
trường, sinh thái, Uỷ ban xác định các mức độ thiệt hại của các
địa phương và đề xuất với Chính phủ các biện pháp cứu trợ….
Các uỷ ban này tuyệt nhiên không có trong cơ cấu bộ máy quản
lý xã hội của Nhà nước, khi xã hội không xảy ra tình huống bất
thường.
- Nhóm vấn đề thuộc về việc xác định các chính sách kinh tế - xã
hội để điều chỉnh các hoạt động của đời sống xã hội: Trong tình
huống bất thường Chính phủ có thể tiến hành xuất kho dự trữ
quốc gia để thực hiện các khoản cứu trợ, hỗ trợ, kêu gọi sự giúp
đỡ từ các tổ chức, cá nhân trong nước, kiều bào ở nước ngoài,
thậm chí kêu gọi sự giúp đỡ quốc tế.
- Nhóm vấn đề về việc xác định định chế điều chỉnh hoạt động
của tổ chức và cá nhân trong xã hội: Trong tình huống bất
thường, Chính phủ ban hành các điều khoản khẩn cấp về giải
quyết các vấn đề bất thường theo cả hai hướng: 1) Khuyến khích,
biểu dương các cá nhân và tổ chức có những hành động thích hợp
vì cộng đồng; 2) Xác định các chế tài răn đe và làm căn cứ để xử

lý các trường hợp cá nhân và tổ chức lợi dụng các vấn đề bất
thường để trục lợi cá nhân hoặc cục bộ gây tổn thất thêm cho xã
hội và các tổ chức, cá nhân lợi dụng các tình huống xảy ra để đầu
cơ chính trị. Trường hợp các tổ chức, cá nhân phản động trong vụ
bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001 và 2004 là một ví dụ. Nhà
nước khoan dung với những người lầm đường lạc lối, nghe kẻ
xấu xúi giục, nhưng kiên quyết bóc trần và nghiêm trị những kẻ
hành động vì mục đích chính trị phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc.
- Nhóm vấn đề về việc xác định các biện pháp động viên giáo
dục, thông qua các công cụ tuyên truyền: Trong tình huống bất
thường, Nhà nước nêu gương, biểu dương những hành động tích
cực vì cộng đồng, kêu gọi phát triển các biểu hiện đoàn kết giúp
đỡ nhau trong hoạn nạn, gửi thư động viên thăm hỏi, hoặc trực
tiếp đến thăm hỏi các gia đình gặp nạn…
4. Một số nội dung khi hiện thực hoá vai trò của Nhà nước
trong quản lý xã hội đối với các tình huống bất thường
Những việc làm cụ thể trên đây của Nhà nước biểu hiện vai trò
của Nhà nước trong quản lý xã hội khi có tình huống bất thường
do tác động của những yếu tố tự nhiên và xã hội, có thể khái quát
lại thành một định đề mang tính nguyên tắc, hay một vấn đề
mang tính quy luật đối với bất kỳ một nhà nước nào cũng cần
phải tuân theo khi có tình huống bất thường xảy ra, đó là, muốn
cho đời sống xã hội trong tình huống bất thường trở lại tình
huống bình thường, hoạt động quản lý của Nhà nước phải mang
tính bất bình thường.
V.I.Lênin đã giúp chúng ta có một tư duy biện chứng để nhận
thức về vai trò của Nhà nước trong việc quản lý xã hội trong tình
huống bất thường do tác động của những yếu tố tự nhiên và xã
hội, đó là khi sự vật bị đẩy quá giới hạn của nó thì sẽ trở thành

phi lý (2). Tình huống bất thường là tình huống bình thường bị
con người hoặc tự nhiên không tự giác đẩy quá mức giới hạn của
nó, khiến nó vượt quá giới hạn trở thành không bình thường. Về
mặt phương pháp luận, giải quyết “cái phi lý”, biến cái bất hợp lý
trở thành “cái có lý”, tất cũng phải tuân theo tính quy định này.
Với cách đặt vấn đề như vậy, Nhà nước, với chức năng quản lý
được xã hội giao phó, bằng việc làm cụ thể vừa là biểu hiện trên
thực tế vai trò quản lý các hoạt động xã hội của mình, vừa làm
cho những cái bất thường đang tồn tại phải thay đổi theo hướng
trở lại trạng thái bình thường như trước khi nó xảy ra, làm cho
các hoạt động của đời sống xã hội bình thường trở lại.
Như vậy, chúng ta có thể xem xét cụ thể hơn về cách xử lý của
Nhà nước trong quản lý xã hội khi có tình huống bất thường xảy
ra do tác động của những yếu tố tự nhiên và tình huống bất
thường xảy ra do tác động của những yếu tố xã hội.
Trước hết, cần lưu ý rằng, trong các trường hợp bất thường nảy
sinh, các hoạt động quản lý xã hội của nhà nước khi xử lý các
tình huống bất thường do tác động từ các yếu tố xã hội khó khăn
và phức tạp hơn rất nhiều so với xử lý các tình huống bất thường
do tác động từ các yếu tố tự nhiên gây ra, mặc dù giữa hai tình
huống đó đều có những nét chung giống nhau nhất định.
- Tình huống bất thường xảy ra do tác động của những yếu tố tự
nhiên
Tình huống bất thường xảy ra do tác động của những yếu tố tự
nhiên có các cấp độ khác nhau: nặng nề, thảm khốc, hết sức thảm
khốc v.v nhưng chúng đều có nét chung là việc giải quyết các
hậu quả do nó gây ra và giải quyết các vấn đề quản lý xã hội
trong tình huống đó không gì khác hơn là “khắc phục” - một sự
khắc phục theo đúng nghĩa đen của từ này - đối với những hậu
quả do thiên tai và hậu quả xã hội nảy sinh từ thiên tai. Hướng

tập trung chính là giải quyết các vấn đề về điều kiện sống của con
người. Những hậu quả xã hội cần khắc phục thường được tập
trung vào thời điểm sau khi những biến cố bất thường qua đi, có
những việc cần thời gian dài và tốn nhiều công sức, nhưng nhìn
chung, tính chất của vấn đề không “nóng” vì trong vấn đề đó
không tồn tại những mâu thuẫn xã hội, nên dễ tạo được sự đồng
thuận xã hội khi giải quyết.
Ở trong tình huống này, một mặt Chính phủ hoặc chính quyền
các địa phương phải làm hết sức mình (huy động các lực lượng
mà chỉ Nhà nước mới làm được, như quân đội, công an; kêu gọi
sự trợ giúp từ cộng đồng quốc tế ); mặt khác tranh thủ mọi sự nỗ
lực khác của cộng đồng (trợ giúp của các tổ chức chính trị - xã
hội, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm…) ủng hộ các địa
phương và nạn nhân gặp nhiều khó khăn.
- Tình huống bất thường xảy ra do tác động của những yếu tố xã
hội
So với trường hợp thứ nhất, trường hợp này có điểm khác rất căn
bản, đó là từ trong bản chất của hiện tượng xã hội đó đã tồn tại
những mâu thuẫn, có mâu thuẫn khá phức tạp. Các vụ bạo loạn ở
Tây Nguyên mấy năm trước đây, nhìn bề ngoài đó là các vấn đề
thuần tuý xã hội. Nhưng xét vấn đề từ bản chất, các vụ bạo loạn
đó ẩn chứa trong lòng nó những mâu thuẫn chính trị giữa một bên
là con đường và mục tiêu phát triển của dân tộc, đất nước với một
bên là sự chống phá, ngăn không cho con đường và mục tiêu đó
trở thành hiện thực của các thế lực thù địch. Vì vậy, bằng các âm
mưu, thủ đoạn và việc làm cụ thể, các thế lực thù địch tìm cách
kích động, gây ra các vụ bạo loạn để từng bước thực hiện các âm
mưu cơ bản, lâu dài mà chúng đang theo đuổi.
Các vấn đề xã hội nảy sinh từ các vụ bạo loạn này bắt nguồn từ
các mâu thuẫn sâu xa, nên tính chất của nó bao giờ cũng “nóng”.

Chẳng hạn, trở lại vụ quần chúng biểu tình chống chính quyền ở
Tây Nguyên các năm 2001 và 2004, không thể nhận thức rằng đó
không phải là một tình huống “nóng”, vì nó trực tiếp liên quan đế
vấn đề tồn tại hay không tồn tại của chính quyền một số địa
phương tại Tây Nguyên. Do đó, nhất định phải nhanh chóng tìm
cách và phải với một thái độ kiên quyết đưa ra các biện pháp phù
hợp nhất để “hạ nhiệt”. Mục tiêu cần đạt được lúc này là làm cho
cuộc biểu tình ấy chấm dứt, nó không thể leo thang, không thể
kéo dài và không thể lan rộng hoặc làm nảy sinh các hệ luỵ mới.
Dĩ nhiên, biện pháp cụ thể thì phải tuỳ tình huống cụ thể để quyết
định, chứ không thể giải quyết theo cách hành xử như một số
nước tư bản chủ nghĩa vẫn làm là đàn áp, vì đây là quần chúng, là
nhân dân - những người nhẹ dạ cả tin, non nớt về chính trị nên bị
kẻ địch lợi dụng, tuyệt nhiên không thể áp dụng các biện pháp
như đối với kẻ địch được.
Việc ổn định cuộc sống nhân dân, tìm ra và nghiêm trị bọn đầu
sỏ; việc tuyên truyền, giáo dục kêu gọi những người lầm đường
còn lẩn trốn ra đầu thú; việc củng cố lại bộ máy của hệ thống
chính quyền và việc khắc phục hậu quả thiệt hại do bạo loạn gây
ra (tài sản công và của dân bị đập phá…) đều phải giải quyết có
tình có lý.
Rõ ràng, cách ứng xử của Nhà nước với các tình huống bất
thường do tác động từ các yếu tố xã hội phức tạp hơn nhiều so
với tình huống bất thường do tác động từ các yếu tố tự nhiên, nó
đòi hỏi ở những người thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý xã hội với một tinh thần trách nhiệm chính trị cao, một
thái độ kiên quyết, nhưng với một cách làm hết sức mềm dẻo và
khôn khéo - một cách quản lý xã hội đạt đến một trình độ nghệ
thuật cao.
(1)C.Mác, “Tư bản”, C. Mác và P.Ăngghen, Toàn tập, tập 23,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr.480.
(2)Xem V.I.Lênin, toàn tập, tập 29, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva,
1981, tr.135.
PGS, TS Lại Ngọc Hải - Bộ Quốc phòng



×