Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Vai trò quản lý nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của đô thị du lịch Thị xã Cửa Lò

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.69 KB, 100 trang )

Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tăng trưởng và
phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế của một quốc gia nói chung và của một địa
phương nói riêng sẽ không thể phát triển được nếu không được đảm bảo các điều
kiện về nguồn nhân lực cũng như về cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Hiện nay, hầu hết các
quốc gia trên thế giới đều coi việc quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật là
vấn đề thuộc hàng ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, một trong những nội
dung quan trọng của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thời gian
tới là: "Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng; giao
thông điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp nước, thoát nước ... Phát triển mạng lưới đô
thị phân bố hợp lý trên các vùng, hiện đại hóa dần các thành phố lớn"[37. Trang
94].
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đất nước, nền kinh tế của
Tỉnh Nghệ An nói chung và Thị xã Cửa Lò nói riêng đang phát triển lớn mạnh thể
hiện đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, thể hiện sự quan tâm chỉ đạo lãnh
đạo đúng đắn của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, đồng thời thể hiện sức mạnh trí tuệ và vật
chất của Đảng bộ và nhân dân Thị xã, sự chỉ đạo, điều hành của UBND phối hợp
với các đoàn thể quần chúng ở các cấp có những tiến bộ mới trong việc đưa nghị
quyết của Đảng vào cuộc sống.
Chủ trương của tỉnh Nghệ An và Thị uỷ, HĐND, UBND Thị xã là phải tập trung
xây dựng cơ sở hạ tầng để đáp ứng nhu cầu phát triển của một đô thị du lịch, nghỉ
mát và công nghiệp cảng, đánh bắt chế biến hải sản, đưa Thị xã Cửa Lò trở thành
một điểm du lịch nghỉ mát lý tưởng được cả nước. Tuy nhiên, cho đến nay cơ sở hạ
1


Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
tầng còn nhiều bất cập, nhỏ bé, lạc hậu so với nhu cầu phát triển. Một trong những
nguyên nhân của tính trạng này là công tác quản lý nhà nước trong xây dựng cơ sở
hạ tầng chưa theo kịp với yêu cầu phát triển, kể từ công tác quy hoạch, huy động và
sử dụng vốn, kiểm tra, giám sát thực hiện còn những hạn chế. Vì vậy, tổ chức thi
công tìm giải pháp để phát triển cơ sở hạ tầng lại rất khó khăn và phức tạp, vì vậy
việc nghiên cứu đề tài: "Vai trò quản lý nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng
kỹ thuật của đô thị du lịch Thị xã Cửa Lò" là một nhu cầu cấp bách cả về lý luận
và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn.
- Qua nghiên cứu đề tài nay, luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về quản lý nhà nước trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở các đô thị
nói chung và đô thị du lịch nói riêng.
- Làm rõ vai trò nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đôthị ở Thị xã
Cửa Lò hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của lĩnh
vực này.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò nhà nước trong việc xây
dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị du lịch tại thị xã Cửa lò những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Vai trò nhà nước trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị là vấn đề
rộng. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đề tài chỉ nghiên cứu một số nội
dung chủ yếu về vai trò nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị trên
địa bàn một thị xã Cửa lò. Cụ thể là, sẽ đi sâu phân tích trên ba nội dung của vai trò
nhà nước trong quy hoạch phát triển, huy động nguồn vốn đầu tư và kiểm tra, giám
sát việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị.
2

Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Về thời gian: Luận văn chủ yếu tập trung vào giai đoạn từ 1995 trở lại đây,
đặc biệt là từ năm 2000 đến nay. Kiến nghị và giải pháp của luận văn chủ yếu áp
dụng cho việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của thị xã giai đoạn 2004 – 2010 và
định hướng đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết
hợp phân tích với tổng hợp, kết hợp quy nạp với diễn dịch và phương pháp thống
kê, biểu bảng v.v.. để làm rõ vai trò nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật tại Thị xã Cửa Lò.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị và những vấn đề lý luận về vai trò của
nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Chương 2: Thực trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và quản lý nhà nước trong phát
triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở Thị xã du lịch Cửa lò
Chương 3: Quan điểm cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai
trò của nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho Thị xã du lịch Cửa Lò.
3
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Chương 1

CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ THUẬT ĐÔ THỊ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN
CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ THUẬT ĐÔ THỊ
1.1. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị.
1.1.1. Quan niệm về cơ sở hạ tầng đô thị
Cơ sở hạ tầng đô thị là toàn bộ các công trình giao thông vận tải, bưu điện,
thông tin liên lạc, dịch vụ xã hội như: Đường sá, kênh mương dẫn nước, cấp thoát
nước, sân bay, nhà ga xe lửa, ô tô, cảng sông, cảng biển, cơ sở năng lượng, hệ
thống mạng điện, đường ống dẫn xăng, dầu, dẫn khí ga, hơi đốt, kho tàng, giao
thông vận tải, giáo dục phổ thông và chuyên nghiệp, y tế, dịch vụ ăn uống công
cộng, nghỉ ngơi du lịch, vui chơi giải trí, rác thải môi trường đô thị. v.v ..
Theo từ chuẩn Anh- Mỹ, thuật ngữ “Cơ sở hạ tầng” (infrastructure) được thể
hiện trên 4 bình diện:
Một là, tiện ích công cộng (public utilities): năng lượng (điện…) viễn thông
nước sạch cung cấp qua hệ thống ống dẫn, khí đốt truyền tải qua ống, hệ thống thu
gom và xử lý các chất thải trong thành phố
Hai là, công chính (public works): đường sá, các công trình xây dựng đập,
kênh phục vụ tưới tiêu.
Ba là, giao thông (transport): các trục và tuyến đường bộ, đường sắt chính
quy (Conventionnial railway) đường sắt vận chuyển nhanh (massrapid transit
tailway) cảng cho tầu và máy bay, đường thuỷ…
Bốn là, hạ tầng xã hội (social infrastructure): trường học, bệnh viện
4
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Tóm lại, cơ sở hạ tầng đô thị là những tài sản vật chất và các hoạt động hạ
tầng có liên quan dùng để phục vụ các nhu cầu kinh tế- xã hội của cộng đồng dân

cư đô thị. Nó chính là tiêu chuẩn để phân biệt đô thị với nông thôn.
Phân loại cơ sở hạ tầng đô thị:
Dựa trên những tiêu chí khác nhau, có thể phân chia CSHTĐT thành nhiều
loại khác nhau.
- Theo tính chất ngành cơ bản có thể phân ra:
o Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị
o Cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội đô thị
o Cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội đô thị.
- Theo tính phục vụ có thể phân ra:
o Cơ sở hạ tầng đô thị phục vụ sản xuất vật chất
o Cơ sở hạ tầng đô thị phục vụ về nhu cầu văn hoá tinh thần
- Theo trình độ phát triển có thể phân ra:
o Cơ sở hạ tầng đô thị phát triển cao
o Cơ sở hạ tầng đô thị phát triển trung bình
o Cơ sở hạ tầng đô thị phát triển thấp
- Theo quy mô đô thị có thể phân ra:
o Cơ sở hạ tầng siêu đô thị
o Cơ sở hạ tầng đô thị lớn
o Cơ sở hạ tầng đô thị trung bình
5
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
o Cơ sở hạ tầng đô thị nhỏ
Tuy vậy, trong số các tiêu chí được đưa ra để phân loại như trên, cách phân
loại căn cứ vào tính chất ngành là thông dụng nhất và có ý nghĩa nhiều nhất đối
với công tác quy hoạch và phát triển đô thị. Vì vậy cần đi sâu vào tiêu chí phân
loại này

Thứ nhất, cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Đây là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển của các
ngành các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, bao gồm tiện ích công cộng,
công chánh, giao thông. Cụ thể là: hệ thống giao thông vận tải, cầu cống, sân bay,
bến cảng...; Hệ thống cung ứng vật tư kỹ thuật nguyên nhiên liệu phục vụ sản xuất
và đời sống; Mạng lưới vận tải và phân phối năng lượng (bao gồm các trạm biến
áp trung chuyển, hạ thế, các thiết bị an toàn và bảo vệ); Hệ thống thiết bị công trình
và phương tiện thông tin liên lạc, bưu điện, lưu trữ, và xử lý thông tin; Hệ thống
thuỷ lợi, thuỷ nông phục vụ việc tưới tiêu và phục vụ cho chăn nuôi; Cơ sở hạ tầng
môi trường phục vụ cho việc bảo vệ giữ gìn và cải tạo môi trường sinh thái của đất
nước và môi trường sống của con người. Hệ thống này thường bao gồm các công
trình chống thiên tai; các công trình bảo vệ đất rừng, biển và các tài nguyên khác;
hệ thống cung cấp, xử lý và tiêu nước sinh hoạt; hệ thống xử lý rác thải công
nghiệp.
Thứ hai: Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
Bao gồm toàn bộ các công trình như nhà xưởng, kho bãi, khách sạn, khu
thương mại (chợ, siêu thị), trụ sở làm việc của các cơ quan hành chính, kinh tế và
các tổ chức xã hội ...
Thứ ba, cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội.
6
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Đó là toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động văn
hoá xã hội, bảo đảm cho việc thoả mãn và nâng cao trình độ lao động của xã hội, hệ
thống này bao gồm: các cơ sở thiết bị và công trình phục vụ cho giáo dục và đào
tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng và triển khai công nghệ; Các cơ sở y tế, bảo vệ
sức khoẻ, bảo hiểm xã hội, nghỉ nghơi ... và các công trình phục vụ hoạt động văn

hoá, văn nghệ, thể dục thể thao.
1.1.2. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị nói chung và đô thị du lịch
nói riêng.
Với tư cách là một phạm trù thuộc về cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng
kỹ thuật là những cơ sở vật chất có mối quan hệ với nhau theo cấu trúc nhất định.
Nó có những dặc điểm chủ yếu như sau:
- Trước hết, cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị là một loại hàng hoá công cộng, nó
được sử dụng chung, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho một quốc gia, hoặc một
tỉnh, thành phố, một huyện, một xã.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị mang tính hệ thống và đồng bộ, bởi lẽ, nếu
thiếu hệ thống và đồng bộ, hiệu quả sử dụng của cơ sở hạ tầng kỹ thuật sẽ không
cao, nếu như không nói là không hiệu quả.
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị mang đặc tính vùng và lãnh thổ. Việc xây
dựng và phát triển cơ sở hạ tầng phải xem xét tới các yếu tố địa lý, địa hình và sự
phát triển kinh tế- xã hội, sao cho hình thành, quy mô xây dựng phù hợp với phong
tục tập quán văn hoá, kiến trúc của cộng đồng dân cư trong vùng. Cơ sở hạ tầng
vừa phản ánh yếu tố kinh tế kỹ thuật, vừa phản ánh kiến trúc văn hoá địa phương.
Như vậy việc xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị phải thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh
thần của con người tạo ra tâm lý yêu lao động và yêu quê hương mình.
7
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị có tính thích ứng trong một khoảng thời gian
dài, vì vậy phải có chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng thích hợp ngay từ đầu. Nghĩa
là cơ sở hạ tầng không những đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà cả trong tương lai.
Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị phải được xem xét trong mối quan hệ biện
chứng với các ngành khác và tổng thể kinh tế xã hội trong khu vực mà nó phục vụ.

- Mật độ các công trình cao.
Sở dĩ như vậy bởi lẽ, các đô thị thường có quy mô dân số và mật độ dân số
cao.
Đối với các đô thị du lịch, để tạo nên một điểm đến an toàn và hấp dẫn thì
mật độ của các công trình như khách sạn, nhà hàng, các công trình đáp ứng các nhu
cầu văn hóa, vui chơi, giải trí, đi lại, an ninh ... lại phải ở mức cao hơn so với các
đô thị bình thường. Các hoạt động dịch vụ phải đạt đến mức độ tiện ích, văn minh,
hoàn hảo và hấp dẫn. Hệ số khai thác, sử dụng ... của các công trình lại theo mùa,
theo thời vụ, đặc biệt là ở các đô thị du lịch biển miền bắc ... Vì vậy đòi hỏi các cơ
quan quản lý Nhà nước ở các đô thị du lịch phải có quy hoach, quản lý vừa chặt
chẽ, vừa cơ động để phát huy tính hiệu quả, tính kinh tế của các công trình. Các
công tác bảo trì, bảo dưỡng và nâng cấp phaỉ được tiến hành thường xuyên song lại
phải đúng thời điểm.
1.1.3. Vai trò của cơ sở hạ tầng kỹ thuật đối với sự phát triển kinh tế của đô
thị nói chung và đô thị du lịch nói riêng.
Đô thị là một điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu lao động phi
nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp là trung tâm tổng hợp hay trung tâm
chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, của
một vùng lãnh thổ, một tỉnh, một huyện hay một vùng trong tỉnh, trong huyện. Như
vậy, trong các tiêu chí của đô thị, cơ sở hạ tầng là một tiêu chí quan trọng. Nó phản
ánh trình độ phát triển, mức tiện nghi sinh hoạt của người dân đô thị và được xác
8
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
định theo các chỉ tiêu cơ bản như chỉ tiêu cấp nước sinh hoạt, chỉ tiêu cấp điện sinh
hoạt, mật độ đường phố , đặc điểm hệ thống giao thông, tỷ lệ tầng cao trung bình
trong thành phố.

Hơn thế nữa, cơ sở hạ tầng đô thị còn phản ánh trình độ phát triển cơ sở vật
chất kỹ thuật của nền kinh tế. Sở dĩ như thế vì đô thị là trung tâm kinh tế, chính trị,
văn hoá của một nước, một vùng lãnh thổ, một tỉnh, một huyện, có vai trò chủ đạo
trong sự phát triển. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị luôn được ưu tiên
phát triển. Điều đó làm cho cơ sở vật chất kỹ thuật của các đô thị thường ở trình độ
cao hơn so với các vùng nông thôn.
Sự phát triển các ngành của cơ sở hạ tầng đô thị có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển của nền sản xuất xã hội, dịch vụ xã hội và việc nâng cao hiệu quả của nó.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, xu hướng đô thị hoá diến ra mạnh
mẽ thì vai trò của cơ sở hạ tầng đô thị không ngừng tăng lên. Nó trở thành một
trong những nhân tố quyết định cho sự hoạt động, vận hành của một đô thị .
Hiện nay, để đáp ứng các nhu cầu về hội nhập và giao lưu quốc tế, các hình
thức mới về giao thông vận tải và thông tin liên lạc xuất hiện và phát triển không
những trong khuôn khổ từng nước, mà còn trên phạm vi quốc tế. Do đó, hình thành
cơ sở hạ tầng vật chất của sự hợp tác quốc tế mới, đó là toàn bộ các bộ phận của
các hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc trong nước và nước ngoài,
nhằm phục vụ cho hệ thống kinh tế đối ngoại, cũng như các công trình và đối tượng
phối hợp với nhau, đảm bảo cho việc bảo vệ môi trường xung quanh, sử dụng hợp
lý các nguồn nước và các nguồn tài nguyên khác, đảm bảo thông tin liên lạc của
các cơ quan khí tượng thuỷ văn, quản lý Nhà nước, các cơ quan phục vụ xã hội và
an ninh quốc phòng, nhằm mục đích phát triển dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh.
9
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Đối với các đô thị du lịch, muốn thu hút được nhiều khách tham quan cần
thiết phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ và ngày càng văn minh, hiện đại.

Những tiện ích công cộng như năng lượng (điện) viễn thông nước sạch cung cấp
qua hệ thống ống dẫn, khí đốt truyền tải qua ống được cung cấp đầy đủ; hệ thống
công chính như đường sá, các công trình xây dựng đập, kênh phục vụ tưới tiêu đảm
bảo hoạt động tốt; hệ thống giao thông các trục và tuyến đường bộ, đường sắt
chuẩn, đường sắt vận chuyển nhanh, hệ thống cảng cho tầu và máy bay, tầu thuỷ
hoạt động thuận lợi; hệ thống thu gom và xử lý các chất thải trong thành phố hoạt
động liên tục đảm bảo môi trường trong lành, các điểm vui chơi giải trí như công
viên, rạp hát, sân thể thao.... tất cả những điều đó một mặt làm cho đô thị du lịch
phát triển, mặt khác sẽ là điều kiện hàng đầu tu hút khách tới tham quan, nghỉ ngơi.
1.2. Vai trò của Nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị.
1.2.1. Một số lý thuyết về vai trò của nhà nước trong việc cung cấp hàng
hóa công cộng.
Quan điểm về vai trò của nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng đã từng
được một số nhà kinh tế học đề cập. Qua thời gian nó ngày càng được bổ sung và
hoàn thiện. Trong đó, nổi bật là tư tưởng của các nhà kinh tế học cổ điển, các nhà
kinh tế học theo trường phái chính hiện đại .
- Quan điểm của A.Smith
A.Smith – nhà kinh tê chính trị tư sản cổ điển Anh, người đã phát minh ra lý
thuyết "Bàn tay vô hình". Xuất phát từ nhân tố "con người kinh tế" Ông cho rằng
xã hội là một liên minh trao đổi. Thiên hướng trao đổi là đặc tính vốn có của con
người. Nó tồn tại vĩnh viễn, cũng như loài người tồn tại vĩnh viễn. Trong khi trao
đổi sản phẩm và lao động cho nhau, phục vụ lẫn nhau, thì con người bị chi phối bởi
lợi ích cá nhân. Mỗi người chỉ biết tư lợi, chỉ thấy tư lợi, làm theo tư lợi. Song, khi
chạy theo tư lợi, thì có một "Bàn tay vô hình" buộc các "kinh tế nhân" đồng thời
10
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368

thực hiện một nhiệm vụ không nằm trong dự kiến, là đáp ứng lợi ích xã hội và đôi
khi, họ còn đáp ứng lợi ích xã hội tốt hơn, ngay cả khi họ có ý định làm điều đó.
"Bàn tay vô hình" đó chính là các quy luật kinh tế khách quan tự phát hoạt động,
chi phối hành động của con người. ông gọi hệ thống các quy luật kinh tế khách
quan đó là "trật tự tự nhiên". Ông chỉ ra các điều kiện cần thiết để cho các quy luật
kinh tế khách quan hoạt động là: phải có sự tồn tại và phát triển của sản xuất và
trao đổi hàng hoá, nền kinh tế phải phát triển trên cơ sở tự do kinh tế, tự do mậu
dịch.
Mặc dù đánh giá rất cao vai trò của "Bàn tay vô hình", của tự do kinh tế song
ông cũng không hoàn toàn phủ nhận vai trò của nhà nước. Đoạn trích dưới đây thể
hiện rõ quan điểm của A.Smith về vai trò của nhà nước trong việc cung cấp các
hàng hóa công cộng.
"Căn cứ theo hệ thống tự nhiên, Nhà nước chỉ có ba nhiệm vụ phải chăm lo,
ba nhiệm vụ này thực sự hết sức quan trọng, nhưng thật rõ ràng và dễ hiểu đối với
nhận thức phổ thông: thứ nhất, nhiệm vụ bảo vệ xã hội thoát khỏi bạo lực và sự
xâm lược của các xã hội độc lập khác; thứ hai, nhiệm vụ bảo vệ mọi thành viên
trong xã hội thoát khỏi sự bất công, hay nhiệm vụ thiết lập sự thi hành công lý
chính xác; và thứ ba, nhiệm vụ xây dựng và duy trì những công việc công cộng
nhất định và những định chế công cộng nhất định mà không bao giờ được xây dựng
và duy trì vì lợi ích của một cá nhân hay của một số ít cá nhân bất kỳ, bởi vì đối với
một cá nhân, hay một số ít cá nhân nào đó, lợi nhuận không bao giờ có thể bồi hoàn
được cho các chi phí, nhưng đối với toàn thể xã hội thì lợi ích đó thường có giá trị
lớn lao hơn nhiều so với chi phí."
Như vậy, theo A.Smith, trong điều kiện kinh doanh bình thường có thể để
cho "Bàn tay vô hình" hay các quy luật khách quan tự phát chi phối, song đối với
"các công việc công cộng" hay "Những định chế công cộng" mà bây giờ kinh tế
11
Website:

Email :


Tel : 0918.775.368
học hiện đại gọi là hàng hóa công cộng thì không thể thiếu được vai trò của nhà
nước.
- Quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, các doanh nghiệp tư nhân
được kích thích bởi lợi nhuận và vì thế mọi thứ họ cung cấp phải được tính một
mức giá đủ để bù đaắp chi phí cùng với một khoản lợi nhuận hợp lý. Tuy nhiên, có
một loại hàng hóa tổng quát – hàng hóa công cộng – mà khi cung cấp những hàng
hóa này, nhà cung cấp không thể nhận được từ người tiêu dùng tiền trảcho hàng
hóa đó, hoặc nhận được một cách không như mong đợi. Khu ực tư nhân không
cung ứng những hàng hóa này, hoặc nếu có họ thường tính mức giá quá cao, hoặc
cung ứng một sô lượng quá ít không thể thỏa mãn tiêu chí hiệu quả.
Sự thất bại của thị trường trong việc cung cấp hàng hóa công cộng xuất phát
từ hai đặc điểm then chốt của hàng hóa công cộng: "tính không loại trừ" và "tính
không tranh giành" .
Trước hết, về tính không loại trừ: thông thường hàng hóa cá nhân, những hàng
hóa mà thị trường có xu hướng cung ứng đầy đủ, thì có tính loại trừ. Nghĩa là, nếu
người tiêu dùng không trả tiền cho món hàng nàythì họ sẽ bị loại trừ ra khỏi việc
tiêu dùng hàng hóa đó. Tuy nhiên, những hàng hóa công cộng lại rất khó hoặc
không thể loại việc tiêu dùng, ngay cả khi người tiêu dùng không chịu trả chi phí
cung ứng món hàng. Ví dụ: đường sá, thật khó mà có thể thu hồi được tất cả chi phí
xây dựng đường từ những người đi đường (mặc dù có một số con đường có thu lệ
phí), mặt khác cũng khó có thể loại trừ được những người không nộp lệ phí đường
đi trên tất cả các con đường. Dó đó thị trường sẽ không cung cấp những hàng hóa
này, cho dù lợi ích xã hội có thể vượt chi phí xã hội. Vì vậy Nhà nước sẽ phải đóng
vai trò cung cấp những hàng hóa công cộng
12
Website:


Email :

Tel : 0918.775.368
Thứ hai, về tính không tranh giành: hàng hóa cá nhân là những hàng hóa tranh
giành, tức là việc tiêu dùng của người này sẽ loại trừ việc tiêu dùng của người kia.
Vì vậy chi phí tiêu dùng cận biên cao. Tuy nhiên, những hàng hóa công cộng lại có
chi phí tiêu dùng cận biên rất thấp, hoặc bằng 0. Người ta không thể trông mong thị
trường, hay thông qua hệ thống giá để phân bổ những mặt hàng có tính không tranh
giành trong việc tiêu dùng. Nếu để cho thị trường vận hành, số lượng hàng hóa
công cộng sẽ ít hơn số lượng tối ưu. Do tình trạng khó thu phí hoặc do không muốn
tính chi phí cho việc sử dụng hàng hóa công cộng nên nhà nước dùng ngân sách để
tài trợ cho việc cung cấp hàng hóa công cộng.
1.2.2. Sự cần thiết phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước trong phát
triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị .
1.2.2.1. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị thuộc loại hàng hóa công cộng nên nó
nằm trong danh mục sản xuất và quản lý của Nhà nước.
Do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của nó, đầu tư vào cơ sở hạ tầng của nền kinh
tế như đường sá giao thông, cầu cống, các công trình văn hoá như tượng đài, công
viên... đòi hỏi lượng vốn đầu tư rất lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, hiệu quả vốn đầu
tư thường thấp, do đó các nhà kinh doanh tư nhân không thích đầu tư vào sản xuất
loại hàng hoá này.
Song trên phương diện quốc gia, để phát triển kinh tế, khai thác tài nguyên,
mở mang dân trí,... nếu không có hệ thống đường sá, cầu cống thuận lợi, giao thông
đi lại khó khăn, kinh tế văn hoá giữa các vùng của đất nước không thể được giao
lưu; các vùng núi, vùng sâu, vùng xa không thể được khai phá và phát triển; kinh tế
của một quốc gia khó có điều kiện giao thương và hội nhập được với quốc tế.
Đối với các đô thị, các công trình này càng có ý nghĩa quan trọng. Nó thể
hiện cho bộ mặt của thành phố. Sự phát triển càng cao của nền đô thị thể hiện trước
hết ở hệ thống cơ sở hạ tầng: đường sá được quy hoạch và hiện đại; hệ thống giao
13

Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
thông công cộng đi lại thuận lợi; hệ thống điện đảm bảo cung cấp ánh sáng cho
thành phố; hệ thống cấp thoát nước sạch đảm bảo sinh hoạt cho dân cư đô thị và
khách du lịch,... Tất cả những điều đó phản ánh trình độ văn minh đô thị.
Các công trình văn hoá như các danh lam thắng cảnh, tượng đài, công viên,
sân gôn,...cũng có ý nghĩa tương tự. Là đô thị, và nhất là đô thị du lịch, các công
trình văn hoá có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, các đô thị du lịch là nơi thu hút
khách du lịch, tham quan, nghỉ ngơi. Thiếu các công trình văn hoá sẽ thiếu đi sức
thu hút du khách. Chính vì vậy, những nơi có nhiều danh lam thắng cảnh là những
nơi cố điều kiện thuận lợi nhất để phát triển đô thị du lịch. Đối với những nơi
không có hoặc có ít danh lam thắng cảnh, cần tạo ra các công trình văn hoá, đặc
biệt là những công trình văn hoá mang bản sắc dân tộc, địa phương để thu hút
khách du lịch.
Việc tạo ra những công trình văn hoá như thế cũng đòi hỏi một lượng vốn
đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, vì thế tư nhân không muốn đầu tư. Nhưng vì
yêu cầu và lợi ích chung của sự phát triển đô thị, nhà nước cần phải có sự đầu tư để
phát triển.
Như vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội nói chung, của các đô thị du lịch nói
riêng là một loại hàng hoá đặc biệt mà việc sản xuất và cung ứng nó chủ yếu do nhà
nước thực hiện. Chính vì thế, nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát
triển cơ sở hạ tầng.
1.2.2.2. Yêu cầu đồng bộ, thống nhất trong quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ
tầng kỹ thuật đòi hỏi phải có sự tham gia của Nhà nước trong sản xuất và cung cấp.
Chúng ta biết rằng, để trở thành một đô thị, việc xây dựng cơ sở hạ tầng phải
theo một quy hoạch, kế hoạch định trước. Không thể để cho tình trạng tự do vô
chính phủ trong việc xây dựng nhà cửa, đường sá cầu cống, điện nước trong một đô

thị. Bởi lẽ để cho tự do xây dựng, không theo một quy hoạch kế hoạch, một sự tính
14
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
toán chung thống nhất từ trước, sẽ không thể có một đô thị hiện đại. Kinh nghiệm
các nước đã chỉ rõ điều này. Hầu hết các đô thị lớn đều phải được xây dựng theo
một quy hoạch, kế hoạch dự tính chung. Người đảm nhận việc quy hoạch này chỉ
có thể là nhà nước.
1.2.2.3. Yêu cầu bảo vệ các nguồn tài nguyên và cảnh quan, môi trường của đô
thị du lịch đòi hỏi phải có sự tham gia của Nhà nước trong xây dựng và quản lý cơ
sở hạ tầng kỹ thuật.
Chúng ta biết rằng, quá trình phát triển chính là quá trình sử dụng tài nguyên
và nguồn lực xã hội. Nếu việc sử dụng tài nguyên và nguồn lực không được kiểm
soát chặt chẽ sẽ gây những tác hại môi trường, làm suy giảm nguồn tài nguyên, môi
trường ô nhiễm.
Đối với các đô thị du lịch điều này càng rõ. Nếu không có sự kiểm soát của
một lực lượng nhân danh xã hội, việc sử dụng bừa bãi nguồn tài nguyên sẽ dẫn đến
tình trạng suy thoái môi trường đô thị. Để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi nhà
nước phải có sự can thiệp, thông các các quy định, hạn chế có tính chất bắt buộc
mọi người sử dụng nguồn lực phải tuân thủ.
Như vậy, việc quản lý và phát triển cơ sở hạ tầng đô thị một cách khoa học
và hợp lý có một ý nghĩa đảm bảo quan trọng cho sự phát triển đô thị. Vì cơ sở hạ
tầng là nền tảng đảm bảo sự phát triển bền vững của cả một hệ thống đô thị quốc
gia nói riêng và sự phát triển bền vững của một quốc gia nói chung. Một quốc gia
giàu mạnh, hiện đại và văn minh phải có một cơ sở hạ tầng đô thị vững mạnh, tiện
lợi, hiện đại và đầy đủ. Do đặc điểm của việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, do
yêu cầu của quá trình xây dựng và sử dụng cơ sở hạ tầng đô thị, đòi hỏi phải tăng

cường vai trò quản lý của nhà nước. Vì thế, vai trò nhà nước trong phát triển cơ sở
hạ tầng đô thị là một tất yếu đối với mọi đô thi nói chung, đối với đô thị du lịch nói
riêng.
15
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
1.2.3. Nội dung vai trò của nhà nước trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật
đô thị
1.2.3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với quản lý nhà nước trong phát triển cơ sở
hạ tầng kỹ thuật đô thị
Quản lý CSHTKTĐT là nhằm thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước
các cấp trong qúa trình xây dựng và phát triển CSHTĐT. Hay nói cách khác, quản
lý CSHTKTĐT là sự thiết lập và thực thi những khuôn khổ thể chế cùng với những
quy định có tính chất pháp quy để duy trì, bảo tồn và phát triển các công trình
CSHTĐT trong một môi trường và cảnh quan tốt đẹp của xã hội. Vì thế, việc quản
lý khai thác cải tạo và xây dựng và công trình CSHTKTĐT nói chung phải tuân
theo quy hoạch đô thị đã được duyệt. Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã, thị
trấn giao cho các cơ quan chuyên trách sử dụng và khai thác các công trình. Trong
quá trình quản lý phải tuân theo những yêu cầu nhất định.
Yêu cầu chung là coi trọng và đề cao vai trò của quản lý Nhà nước, hướng
tới mô hình Nhà nước pháp quyền. Quản lý Nhà nước được thực hiện trên mọi lĩnh
vực và mọi thành phần kinh tế. Đối với mỗi lĩnh vực phải thể hiện quyền lực, sự
kiểm soát, giám sát, điều chỉnh của Nhà nước ở lĩnh vực đó nhằm đảm bảo các hoạt
động đúng với pháp luật, phù hợp với quyền và nghĩa vụ của mọi công dân và các
tổ chức xã hội
Nhìn chung, trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị công tác quản lý nhà
nước cần phải đảm bảo thực hiện được các yêu cầu sau:

Thứ nhất, tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch xây dựng CSHT.
Việc xây dựng CSHTKTĐT phải được thực hiện đúng nguyên tắc, đúng quy
hoạch, kế hoạch quản lý đô thị. Tuân thủ nghiêm ngặt quy hoạch xây dựng và phát
triển đô thị, các điều luật quy định có liên quan.
16
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Tiến hành lập hồ sơ và lưu trỡ hồ sơ sau khi hoàn thành xây dựng mới, xây
dựng lại, sửa chữa lớn, cải tạo hiện đại hoá công trình CSHT.
Thứ hai, thực hiện các dịch vụ công cộng.
Nhà nước tiến hành hợp đồng cung cấp các dịch vụ công cộng (điện nước
thông tin, dịch vụ...) với các đối tượng cần sử dụng và hướng dẫn họ thực hiện
đúng các quy định về hành chính cũng như các quy định về kỹ thuật, phát hiện và
sử lý các vi phạm về chế độ sử dụng và khai thác các công trình CSHTĐT
Thứ ba, tuân thủ các quy định trong sửa chữa, nâng cấp.
Trong việc cải tạo sửa chữa các công trình CSHTKTĐT phải có giấy phép của
các cơ quan chức năng có thẩm quyền và được sự đồng ý của cơ quan quản lý các
công trình CSHTKTĐT.
Thứ tư, quản lý đúng quy định và có hiệu quả CSHTKTĐT.
Đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc chế độ sử dụng, giữ gìn, bảo vệ và khai
thác các công trình CSHTKTĐT hiện có.
Phát hiện các hư hỏng, sự cố kỹ thuật và có các biện pháp sửa chữa kịp thời,
thực hiện chế độ duy tu, bảo dưỡng cải tạo nâng cấp để duy trì chức năng sử dụng
các công trình CSHTKTĐT theo đúng định kỳ.
Thứ năm, xử lý vi phạm.
Đối với các chủ sử dụng các công trình CSHTĐT phải chấp hành nghiêm
chỉnh các quy định và sự hướng dẫn của các cơ quan quản lý đô thị. Nếu xảy ra vi

phạm thì tổ chức và cá nhân vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật và phải đền bù thiệt
hại.
Thứ sáu, thống nhất trong quản lý CSHTKTĐT
17
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Trong quản lý nhà nước, cần đổi mới và tăng cường hiệu lực của bộ máy quản
lý, xây dựng và hoàn thiện chính sách và các giải pháp tạo vốn, sử dụng có hiệu
quả các nguồn vốn trong nước và nước ngoài vào mục đích phát triển CSHTĐT.
Phương châm “lấy CSHT nuôi CSHT”. Coi trọng duy tu bảo dưỡng để khai thác sử
dụng cũng như cải tạo, mở rộng, phát triển CSHTKTĐT. Thống nhất quản lý vốn
đầu tư KCHTĐT cũng như thống nhất quản lý vận hành và khai thác CSHTKTĐT
để đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Trong quản lý CSHTKTĐT, nhà nước phải đặc biệt chú ý tới những các lĩnh
vực chủ yếu, có liên quan tới toàn bộ hoạt động , sinh hoạt của dân cư đô thị. Có
thể nêu lên những lĩnh vực quản lý chủ yếu sau đây:
- Quản lý các công trình giao thông đô thị.
Bao gồm mạng lưới thành phố, cầu hầm, quảng trường, bến bãi, sông ngòi,
cảng, sân bay, nhà ga. Các công trình giao thông có phạm vi bảo vệ là đường đỏ và
ranh giới giữa đất của công trình giao thông với đất khác. Đường đô thị được sử
dụng cho giao thông (lòng đường cho xe cộ, vỉa hè dành cho người đi bộ); để bố trí
các công trình CSHTKTĐT khác (điện, nước, thông tin dịch vụ, vệ sinh môi
trường, trạm đỗ xe, biển báo, quảng cáo, tượng đài…); để trồng cây xanh công
cộng và để sử dụng tạm thời cho các mục đích khác khi chính quyền đô thị cho
phép (như bố trí các quầy sách báo, điện thoại công cộng, tổ chức các hoạt động
văn hoá xã hội, tuyên truyền giáo dục).
- Quản lý các công trình cấp thoát nước đô thị.

Các công trình cấp nước gồm nguồn nước, các công trình khai thác nguồn
nước, hệ thống phân phối nước. Trong đó việc quản lý nguồn nước phải dựa vào
Luật Bảo vệ Tài nguyên nước. Việc khai thác sử dụng các công trình cấp nước
được quản lý theo quy phạm kỹ thuật chuyên ngành và các quy định của cơ quan
quản lý nước sạch.
18
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Các công trình thoat nước gồm cống, rãnh, cửa xả, kênh, mương, ao hồ, sông
đập, trạm bơm và trạm xử lý nước thải. UBND thành phố, thị xã, thị trấn giao cho
cơ quan chuyên trách quản lý việc sử dụng và khai thác các công trình thoát nước.
Nước xả vào mạng lưới thoát nước đô thị phải đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh môi
trường. Vì vậy, khi đấu nối công trình thoát nước cục bộ vào hệ thống thoát nước
đô thị phải được sự đồng ý của cơ quan quản lý đô thị.
- Quản lý các công trình cấp điện
UBND thành phố trực thuộc Trung ương hoặc UBND tỉnh quy định phạm vi
bảo vệ các công trình cấp điện dựa vào tiêu chuẩn quy phạm của Nhà nước và điều
kiện cụ thể của từng khu vực.
Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng điện cần làm đơn và ký kết hợp đồng
với cơ quan quản lý điện. Mọi nhu cầu cải tạo sửa chữa các công trình có ảnh
hưởng đến hành lang an toàn các công trình cấp điện và chiếu sáng đô thị, vì vậy
phải có biện pháp an toàn và được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền.
- Quản lý các công trình văn hoá xã hội tại đô thị.
Các công trình văn hoá xã hội đô thị là hình thái vật thể của văn hoá đô thị, thể
hiện ở những công trình kiến trúc tượng trưng cho những thành tựu kinh tế- xã hội
của dân tộc và của một đô thị trong những điều kiện phát triển kinh tế- xã hội nhất
định. Các công trình văn hoá xã hội của đô thị trước hết là các công trình, các di

tích văn hoá đã được xếp hạng (quốc gia hay quốc tế; hệ thống các nhà bảo tàng,
các công trình kiến trúc, nhà hát, rạp chiếu bóng, công viên, sân thể thao,... đang
hoạt động.
Việc quản lý các công trình văn hoá xã hội trên đòi hỏi nhà nước không những
quản lý việc xây dựng nó, mà điều rất quan trọng là phải quản lý để sao cho việc
19
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
xây dựng các loại hình cơ sở hạ tầng này phải thể hiện được giá trị truyền thống về
văn hoá, đạo đức, cốt cách của dân tộc nói chung, của từng đô thị nói riêng.
Nói cách khác, quản lý nhà nước các công trình văn hoá xã hội phải chú ý tới
cả hình thái vật thể và hình thái phi vật thể của văn hoá đô thị.
1.2.3.2 Những mối quan hệ cần giải quyết để thực hiện vai trò quản lý nhà
nước trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị.
- Quan hệ giữa tập trung dân chủ và phân cấp quản lý trong phát triển cơ sở
hạ tầng kỹ thuật đô thị
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị là hàng hoá công cộng có tầm quan trọng về
kinh tế- xã hội, khó thu được tiền hoặc lợi nhuận thấp, thời gian hoàn vốn dài nên
có nhiều rủi ro (như tiền mặt mất giá, chính sách thay đổi, thiên tai, dịch hoạ, công
nghiệp hoá lạc hậu ...) nên thường do Nhà nước đảm nhận.
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo và điều chỉnh để đảm bảo cung cấp các dịch vụ
kết cấu hạ tầng, đảm bảo nhu cầu cuộc sống của nhân dân, tạo điều kiện cho hoạt
động sản xuất và làm dịch vụ của các doanh nghiệp, đảm bảo cho dịch vụ đó có
được một cách kịp thời. Đây là vai trò của Nhà nước tác động trực tiếp vào khâu
quản lý để điều tiết nền kinh tế trong sự phát triển bền vững.
Tuy nhiên, Chính phủ cũng có khả năng hạn chế trong quản lý và nguồn tài
chính phát triển cơ sở hạ tầng đô thị. Do đó, Chính phủ cũng tạo điều kiện và mở

rộng chức trách cho khu vực kinh tế tư nhân và cộng đồng tham gia thực hiện các
quyền dân chủ quản lý, thực hiện nghĩa vụ đóng góp và thu hút mọi nguồn vốn,
tăng thêm hiệu quả quản lý và phát triển CSHTĐT của quốc gia.
Phân cấp quản lý là sự phân định và xếp hàng các đô thị theo quy mô, vị trí
hay tầm quan trọng của từng đô thị trong phát triển kinh tế- xã hội của đất nước,
20
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
của vùng hay địa phương để từ đó xác định các chính sách quản lý, đầu tư thích
hợp.
Giữa phân loại và phân cấp quản lý có mối quan hệ chặt chẽ. Nguyên tắc
chung là dựa vào phân loại để phân cấp quản lý. Đây là một trong những giải pháp
có tính nguyên tắc nhằm phân định chức năng và quyền hạn quản lý của chính
quyền các cấp cho thích hợp, tránh sự trùng chéo hoặc bỏ sót.
Ở Việt Nam, trên cơ sở phân loại đô thị, việc phân cấp quản lý hành chính nhà
nước đối với các đô thị như sau:
Đô thị loại 1 và loại 2 chủ yếu do Trung ương quản lý
Đô thị loại 3 và loại 4 chủ yếu do tỉnh quản lý
Đô thị loại 5 chủ yếu do huyện quản lý
- Quan hệ giữa tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị
Sự hình thành và phát triển, quy mô và định hướng phát triển của CSHT đô thị
nói chung phụ thuộc vào quy hoạch tổng thể không gian đô thị. Quy hoạch tổng thể
không gian đô thị chỉ thực hiện có hiệu quả khi CSHTĐT được xây dựng đồng bộ
và đi trước một bước.
Nguyên tắc này xuất phát từ thực tiễn sự tăng trưởng kinh tế phát sinh nhu cầu
phát triển CSHTKTĐT với một quy mô lớn, nhất là trong xu thế bùng nổ đô thị hoá
toàn cầu với một tốc độ choáng ngợp. Thực tiễn này, đã gây ra hệ quả phát sinh

ngày càng găy gắt, trực tiếp có ảnh hưởng về lâu dài là toàn bộ hệ thống giao thông
trong và xuyên các trung tâm kinh tế đô thị hoá, hệ thống điện gia dụng và công
nghiệp, nước sạch cho các hộ gia đình và sản xuất, hệ thống thu gom và xử lý các
chất thải rắn và lỏng, kho tàng, bến cảng đều bị sử dụng quá tải nhưng không được
đầu tư nâng cấp và mở rộng thoả đáng khả dĩ đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế
và phát triển xã hội.
21
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Ở Việt Nam, điều này càng trở nên găy gắt và cấp bách hơn, do nhu cầu phát
triển sau thời kỳ đổi mới và việc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế để giải quyết vấn
đề nghèo khổ, xoá đói giảm nghèo và sự nghiệp phát triển công nghiệp hoá và hiện
đại hoá đất nước, ngoài ra do tăng trưởng kinh tế nên dân chúng ngày càng nhận
thức sâu sắc hơn và đòi hỏi Chính phủ phải cung cấp tiện ích công cộng và dịch vụ
xã hội liên quan điện nước sinh hoạt, xử lý rác thải ... tốt và có chất lượng cao. Tất
cả những điều đó đòi hỏi sự quản lý và phát triển CSHTKTĐT phải theo kịp với tốc
độ phát triển đô thị, tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với
phát triển hạ tầng và hạ tầng là tác nhân chính của sự tắc nghẽn phát triển kinh tế-
xã hội. Và giải quyết vấn đề đô thị hoá hàm nghĩa giải quyết CSHTKTĐT.
Ngân hàng thế giới (trong “The World Development Report 1995”) đã khuyến
nghị với các Chính phủ các nước đang phát triển )trong đó có Chính phủ Việt Nam)
rằng: “Hạ tầng thích hợp giúp xác định quốc gia này thành công hay thất bại qua
việc đa dạng hoá sản xuất, mở rộng thương mại, giải quyết vấn đề tăng trưởng dân
số, giảm thiểu nghèo khó hoặc cải tiến các điều kiện về môi trường. Hạ tầng tốt làm
tăng năng suất, giảm phí sản xuất, nhưng nó cần theo kịp với sự tăng trưởng ... Loại
hình hạ tầng được xây dựng tại một nơi nào đều có thể giúp giảm bớt tình trạng
nghèo khó. Các dịch vụ hạ tầng không chỉ giúp người nghèo mà còn góp phần làm

bền vững cho môi trường. Thị dân nghèo đều trực tiếp hưởng phúc lợi từ các dịch
vụ hạ tầng tốt, bởi họ thường sống tập trung và là đối tượng gánh chịu những điều
kiện mất vệ sinh, ô nhiễm từ các chất thải và hiểm hoả do tai nạn”.
- Quan hệ giữa quy mô đô thị với hệ thống các phương tiện vật chất,
CSHTKTĐT phục vụ cho sự phát triển đô thị.
Cơ sở hạ tầng đô thị không chỉ phụ thuộc vào trình độ quy mô phát triển, sản
xuất, dịch vụ, mật độ dân cư, mà còn phụ thuộc vào các phương tiện đi lại, các thiết
22
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
bị sinh hoạt của dân cư. Đây là nguyên tắc hệ thống để làm sao các đặc trưng và
mục tiêu của hệ thống CSHTKTĐT được thực hiện một cách tốt đẹp.
Tính hệ thống dòi hỏi, trong việc xây dựng, phát triển CSHTĐT, nhà quản lý
phải căn cứ vào quy mô đô thị, quy mô hoạt động sản xuất và dịch vụ, quy mô dân
cư để bố trí hệ thống các phương tiện đi lại, các thiết bị phục vụ sinh hoạt của dân
cư, sao cho mọi cơ quan, tổ chức, mọi người dân sống trên phạm vi đô thị, có được
sự phục vụ đồng bộ, thuận tiện. Khi quy mô đô thị thay đổi, hệ thống phục vụ phải
thay đổi kịp thời. Điều này rất quan trọng đối với quản lý sự phát triển của các đô
thị du lịch, bởi lẽ, quy mô dân số của các đô thị này thường có sự biến động cơ học.
Do vậy, việc tính toán hệ thống các phương tiện phục vụ phải sao cho đạt được ở
mức tối đa. Tất nhiên, việc phát triển CSHT của các đô thị này cũng phải tính tới
thời kỳ quy mô dân số giảm cơ học để có phương án sử dụng hiệu quả nhất các
phương tiện vật chất đã có.
1.2.3.3. Các công cụ chủ yếu thực hiện vai trò quản lý nhà nước trong phát triển
cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị.
Để thực hiện các yêu cầu và giải quyết được các mối quan hệ quản lý
CSHTKTĐT như trên, nhà nước cần sử dụng các biện pháp quản lý thích hợp trong

sự phát triển cơ sở hạh tầng đô thị. Các biện pháp này cho phép nhà nước thực hiện
một cách tổng thể quyền lực nhà nước, lại vừa thích hợp, tạo môi trường thuận lợi
cho sự phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị. Có nhiều biện pháp mà nhà nước
sử dụng để phát triển cơ sở hạ tầng đô thị nhưng chủ yếu và quan trọng là quy
hoạch, luật pháp, hành chính, kinh tế, tổ chức, tuyên truyền, giáo dục thuyết phục.
- Quy hoạch phát triển CSHTKTĐT
Đây là công cụ quan trọng để đảm bảo sự quản lý thống nhất của nhà nước
trong phát triển CSHT đô thị.
23
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Quy hoạch phát triển CSHTKTĐT là việc tổ chức, sắp xếp không gian đô thị
sao cho bố trí và sử dụng hợp lý CSHT của đô thị đảm bảo cho sự phát triển bền
vững về kinh tế, xã hội, môi trường của đô thị.
Quy hoạch xây dựng CSHTKTĐT được thực hiện thông qua các yêu cầu, quy
định của nhà nươc đối với mọi hoạt động xây dựng và mọi hoạt động khác có liên
quan đến việc sử dụng không gian, CSHT, tài nguyên của đô thị đã được xác định.
Quy hoạch CSHTKT đô thị được thể hiện dưới dạng các bản vẽ và các quy
chế. Trên cơ sở quy hoạch được phê duyệt, nhà nước tăng cường công tác quản lý
phát triển CSHTĐT
Tuy nhiên, quy hoạch CSHTKTĐT được ban hành và áp dụng cho một giai
đoạn nhất định. Bởi lẽ do sự phát triển nhanh chóng của đô thị nói chung, của trình
độ phát triển kinh tế, văn hoá xã hội nói riêng, công tác quy hoạch cũng đòi hỏi
phải được điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện để kịp thời đáp ứng.
- Sử dụng các công cụ hành chính trong phát triển cơ sở hạ tầng đô thị
Đây là công cụ quan trọng nhất thể hiện quyền lực của nhà nước trong quản
lý kinh tế, xã hội nói chung, trong phát triển cơ sở hạ tầng ở một đô thị nói riêng

thực hiện được ý chí của nhà nước.
Công cụ này được thực hiện thông qua việc nhà nước các cấp xây dựng hệ
thống các văn bản pháp quy để tạo môi trường thể chế nhằm phát triển CSHTĐT
Việc sử dụng công cụ hành chính luôn mang tính mệnh lệnh, cưỡng chế dưới
các hình thức văn bản pháp luật và có tính pháp luật buộc mọi người phải tuân
theo. Qua đó, các cơ quan hành chính, thủ trưởng và các nhà chức trách thực hiện
quyền hạn và nghĩa vụ của mình, yêu cầu mọi công dân tuân thủ theo pháp luật và
các văn bản hành chính để phát triển các công trình CSHTĐT.
24
Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
Hệ thống các văn bản quản lý kiểm soát phát triển CSHT ĐT do các cơ quan,
ban ngành từ Trung ương tới các địa phương tỉnh, thành phố, thị xã, thị trấn,
phường chứa đựng các quy định, hướng dẫn thực hiện cấc quy đinh của cấp trên về
quản lý phát triển đo thi nói chung và quy hoạch phát triển CSHTĐT nói riêng. Tuy
nhiên, các văn bản trên có tính pháp quy tập trung vào Chính phủ, Bộ xây dựng, và
một số Bộ có liên quan để phát triển CSHTĐT theo quy hoạch.
Thực hiện phương pháp hành chính, đòi hỏi phải tiến hành một loạt các khâu
liên hoàn trong đó có:
+ Công việc phê duyệt, cấp phép xây dựng phương án;
+ Cấp chứng chỉ quy hoạch, cấp giấy phép xây dựng:
+ Thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm.
- Quản lý cơ sở hạ tầng đô thị thông qua hệ thống chính sách kinh tế.
Đây là hệ thống các công cụ chủ yếu để thực hiện vai trò nhà nước trong
phát triển CSHT đô thị. Việc thực hiện công cụ này thông qua chính sách đầu tư
vốn và các chính sách khác nhằm tạo nguồn vốn đầu tư cho phát triển CSHT đô thị.
Như đã nói, CSHT đô thị là hàng hoá công cộng. Việc đầu tư vào hàng hoá

này đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài, đòi hỏi phải có đầu tư, mạo hiểm.
Việc phát triển loại hàng hoá này mang tính hiệu quả kinh tế xã hội nhiều hơn là
hiệu quả kinh tế đơn thuần. Vì vậy, việc đầu tư xây dựng CSHT đô thị dựa phần
lớn vào nguồn ngân sách nhà nước. Điều đó đòi hỏi nhà nước phải có sự quản lý
nguồn vốn đầu tư của mình một cách chặt chẽ, sử dụng vốn một cách có hiệu quả
nhất.
Tuy nhiên, trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, mở cửa và hội
nhập, xu hướng đa dạng hoá sở hữu, đa dạng hoá kinh doanh trong kinh tế cũng cần
được quán triệt trong phát triển CSHT ĐT. Vì vậy, trong phát triển CSHTĐT, nhà
25

×