1
Luận văn
Thương mại và các biện
pháp phát triển thương mại
trong giai đoạn hiện nay
2
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường có sự điểu tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế - chính trị - xã hội. Bức tranh kinh tế - xã hội ngày càng sáng sủa
lên, nó phản ánh diện mạo của nền kinh tế. Trên lĩnh vực kinh tế tốc độ tăng
trưởng tương đối cao và ổn định, thu nhập bình quân đầu người không ngừng
tăng lên, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Trên lĩnh vực chính trị -
xã hội cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Để đạt được điều đó, chúng ta không
thể không kể đến vai trò của ngành kinh tế khác nói chung. Thương mại cùng
với các ngành khác làm thay đổi cơ bản diện mạo của nền kinh tế. Với nỗ lực
của mình thương mại ngày càng đóng góp đáng kể vào kết quả của nền kinh tế.
Điều này được thể hiện ngay trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với quá trình quốc tế hoá hiện nay, thương mại càng nổi lên như một
ngành không thể thiếu được, đóng vai trò là ngành dẫn đầu tham gia vào quá
trình hội nhập. Tuy nhiên, ngành thương mại nước ta còn tồn tại nhiều hạn chế,
nhược điểm. Chưa thực sự giữ được vai trò dẫn dắt các ngành khác trong quá
trình chuyển đổi. Vì vậy để khắc phục nhược điểm, phát huy những mặt tích
cực, chúng ta phải không ngừng cải thiện để hoàn thiện chính sách thương mại
để nó phát huy được vai trò của nó, một công cụ quan trọng để phát triển kinh tế.
Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề này, cộng với vốn kiến thức đã được học
đồng thời nhằm ngày càng hoàn thiện vấn đề này em đã mạnh dạn lựa chọn đề
tài “ Thương mại và các biện pháp phát triển thương mại trong giai
đoạn hiện nay". Bố cục của đề tài, ngoài lời nói đầu và kết luận, gồm hai phần
chính như sau:
Phần I : Những vấn đề lý luận cơ bản về Thương mại.
Phần II : Các biện pháp phát triển thương mại nước ta trong thời gian tới.
PHẦN I
3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI
I-/ TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI.
1-/ Khái niệm và bản chất của thương mại.
a, Khái niệm:
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cũng như nền kinh tế thị trường,
khái niệm về thương mại có nhiều cách hiểu, song có thể khái quát theo 2 cách
chủ yếu sau:
- Theo nghĩa rộng: Thương mại được coi là qúa trình kinh doanh (thương
mại đồng nghĩa với kinh doanh). Mọi hoạt động kinh tế nhằm tìm kiếm lợi
nhuận dù ở bất kỳ lĩnh vực nào (sản xuất, lưu thông, dịch vụ, đầu tư cũng đều
là thương mại.
- Theo nghĩa hẹp: Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá dịch vụ trên
thị trường. Theo luật thương mại thì: hoạt động thương mại của thương nhân
bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động
xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính
sách kinh tế xã hội.
b, Bản chất kinh tế của thương mại.
Thương mại ra đời và phát triển là do sự phân công lao động xã hội và
chuyên môn hoá sản xuất. Chuyên môn hoá sản xuất đã làm tăng thêm lực lượng
sản xuất xã hội và là một trong những động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản
xuất đã đặt ra sự cần thiết phải trao đổi sản phẩm trong xã hội giữa các chủ thể
với nhau.
Như vậy thương mại là quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá dịch vụ trên
thị trường.
Còn sản xuất thì còn trao đổi. Quá trình trao đổi hàng hoá diễn ra lâu dài
trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Thoạt đầu trao đổi hàng hoá diễn
ra trực tiếp hàng lấy hàng (trao đổi hiện vật). Hình thức này có nhiều hạn chế về
không gian thời gian và về các chủ thể trao đổi. Thị trường và thương mại xuất
hiện mở ra bước ngoặt xoá đi những hạn chế đó, đồng thời thúc đẩy sản xuất
hàng hoá phát triển. Đặc biệt khi tiền tệ tham gia và quá trình lưu thông hàng
hoá thì trao đổi hiện vật không còn tồn tại nữa. Tiền tệ có mặt trong lưu thông
4
làm cho quá trình trao đổi nhanh hơn, thúc đẩy quy mô sản xuất tăng lên và đời
sống nhân dân được nâng cao.
2-/ Nguyên nhân hình thành thương mại.
Để tồn tại và phát triển, con người cần phải thoả mãn nhiều nhu cầu khác
nhau. Mà muốn thoả mãn những nhu cầu đó thì không còn con đường nào khác
là phải thông qua sản xuất, trao đổi mặt khác trong xã hội, do sự phân công lao
động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất cũng dẫn đến trao đổi hàng hoá giữa
các cá thể với nhau. Thật vậy khi có sự phân công lao động và chuyên môn hoá
sản xuất thì mỗi người chỉ sản xuất một, một vài sản phẩm, trong khi đó nhu cầu
của họ lại cần nhiều hàng hoá. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu của mình thì họ phải
trao đổi hàng hoá với nhau. Như vậy trao đổi xuất hiện, lúc đầu cần đơn giản
trao đổi hiện vật, đặc biệt là nền kinh tế thị trường hiện đại. Khi tiền tệ tham gia
vào quá trình lưu thông. Như vậy phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá
sản xuất, tính chất sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm đầu ra là
nguồn gốc để hình thành thương mại.
3-/ Quan điểm về thương mại.
a, Chức năng, nhiệm vụ của thương mại.
- Chức năng của thương mại: Trong nền kinh tế thị trường, thương mại
thực hiện 4 chức năng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thương mại thực hiện chức năng lưu chuyển hàng hoá dịch vụ
trong nền kinh tế quốc dân. Đây là chức năng xã hội của thương mại. Điều này
được thể hiện ở:
+ Biểu hiện ở vốn và cơ cấu vốn: đối với vốn lưu động chiếm 80% trong
tổng số vốn, trong đó vốn cho lưu chuyển hàng hoá là chủ yếu.
+ Thể hiện ở thu nhập và nguồn hình thành thu nhập, trong đó thu nhập từ
hoạt động bán hàng là chủ yếu.
+ Thể hiện ở lao động và năng suất lao động.
+ Chi phí kinh doanh và biện pháp giảm phí.
+ Cơ chế trích, lập và sử dụng các quỹ doanh nghiệp, trong đó quỹ phát
triển kinh doanh là chủ yếu, bao gồm quỹ để hiện đại hoá mạng lưới, trang thiết
bị cho các hoạt động xếp dỡ hàng hoá, vận chuyển hàng hoá, bảo quản hàng
hoá
5
Thứ hai, thông qua lưu chuyển hàng hoá, thương mại thực hiện chức năng
tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Để thực hiện chức năng này, thì
thương mại phải làm các nghiệp vụ như chủ yếu như: vận chuyển hàng hoá, bảo
quản hàng hoá, chuẩn bị hàng hoá để xuất bản. Số lượng lao động trong các
nghiệp vụ này thường chiếm khoảng 80% lao động trong các doanh nghiệp
thương mại và chính chức năng này nên thương mại được coi là ngành sản xuất
vật chất đặc biệt.
Thứ ba, thương mại chức năng chuyển qua hình thái giá trị. Thông qua các
hành vi của lưu thông hàng hoá mà hàng hoá được thay đổi giá trị của nó, từ
hàng sang tiền. Để thực hiện được chức năng này, các doanh nghiệp thương mại
phải thực hiện các công việc cụ thể sau: đưa ra kế hoạch kinh doanh, phải có hệ
thống kế toán, thống kê, đội ngũ thanh tra kiểm tra
Thứ tư, thương mại thực hiện chức năng gắn sản xuất với thị trường và gắn
nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới.
- Nhiệm vụ của thương mại: Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực
đầu tư và lĩnh vực thương mại; đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của sản xuất và đời
sống về các hàng hoá dịch vụ, góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội
quan trọng của đất nước; không ngừng hoàn thiện bộ máy quản lý kinh doanh.
b, Đặc trưng của thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động của nền kinh tế đều vận động theo
những quy luật nhất định nào đó. Thương mại cũng không nằm ngoài sự vận
động chung đó. Trong thương mại mọi hoạt động đều diễn ra theo quy luật mua
để bán rồi lại tiếp tục bán để mua. Cứ như thế mua - bán là vòng chu chuyển
khép kín của thương mại. Vì vậy thương mại đã nổi lên với những đặc trưng cơ
bản của nó, những đặc trưng này có thể được xem xét với những khía cạnh sau:
- Trong thương mại, mọi hoạt động đều diễn ra một cách tự do bình đẳng,
tức là mọi người đều được tự do mua bán, tự do trao đổi hàng hoá trên cơ sở
nguyên tắc ngang giá chung. Người ta có quyền mua cái gì người ta thích, bán
cái gì mà người ta có.
Như vậy trong quá trình mua - bán diễn hai thái cực trái ngược nhau đó là
người mua bao giờ cũng muốn mua hàng hoá tốt nhưng giá phải rẻ còn người
bán thì luôn mong muốn bán với giá cao. Đây là xu hướng biến động cung - cầu
trong mọi nền kinh tế là không loại trừ cả nền kinh tế thị trường. Quy luật tự do
mua bán, tự do lưu thông đã tồn tại từ lâu nhưng nó càng khẳng định vai trò rõ
rệt trong nền kinh tế thị trường. Ở nước ta, trong giai đoạn kinh tế như hiện nay,
6
với chủ trương phát triển một nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần thì vấn
để tự do kinh doanh, tự do mua bán lại càng được Đảng và Nhà nước ta khẳng
định và tiếp tục thừa nhận. Nhưng tự do kinh doanh phải đi đôi với việc tuân thủ
pháp luật. Và đây chính là đặc trưng thứ hai của thương mại.
- Hoạt động thương mại phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật:
Theo điều 57 Hiến pháp năm 1992 của nước ta thì “ Mọi cá nhân, tổ chức
đều được tự do thành lập doanh nghiệp nhưng phải nằm trong khuôn khổ của
pháp luật”. Như vậy với đặc trưng này, thương mại càng có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế. Trong cơ chế thị trường, Nhà nước chỉ can thiệp vào nền kinh
tế thị trường bằng công cụ thuế và pháp luật. Đây là hai công cụ chủ yếu được
Nhà nước ta sử dụng, song để thực hiện được nó thì còn rất nhiều khó khăn nan
giải. Do đó để kiểm soát được nền kinh tế nói chung và ngành thương mại nói
riêng thì Nhà nước cũng đã đưa ra nhiều chính sách, bộ luật để hướng dẫn điều
tiết các hoạt động của nó đi cùng với xu hướng mục tiêu của nền kinh tế.
c, Nội dung của hoạt động thương mại.
Thương mại là một ngành, một lĩnh vực phức tạp và khó kiểm soát đặc biệt
là trong giai đoạn như hiện nay khi mà chủ trương phát triển kinh tế của Nhà
nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường, đồng thời là mở cửa giao lưu buôn
bán với nước ngoài. Do đó để điều tiết hướng dẫn thương mại đi đúng hướng
của nó thì trên cơ sở chúng ta phải nghiên cứu kỹ các nội dung cơ bản của hoạt
động này. Một trong những nội dung có thể được kể đến là:
Thứ nhất là nghiên cứu, xác định nhu cầu và cầu của thị trường về các loại
hàng hoá, dịch vụ. Đây là công việc đầu tiên trong quá trinh hoạt động kinh
doanh thương mại. Đối với các nhà kinh doanh thương mại, điều quan trọng là
phải nắm cho được các loại nhu cầu hàng hoá, dịch vụ, đặc biệt là nhu cầu cho
tiêu dùng sản xuất và nhu cầu đặt mua của xã hội và dân cư.
Thứ hai là xác định và khai thác các nguồn hàng để thoả mãn các nhu cầu
của xã hội. Trong điều kiện vẫn còn tồn tại nhu cầu về hàng hoá kinh tế, việc tạo
nguồn hàng để đáp ứng các nhu cầu là công việc rất quan trọng.
Thứ ba là thực hiện cân đối giữa nhu cầu và nguồn hàng tím các biện pháp
bảo đảm cân đối như tăng cường sản xuất trong nước, tìm các nguồn hàng thay
thế
Thứ tư là tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại. Ở khâu công tác
này phải giải quyết các vấn đề về kinh tế, tổ chức và luật pháp phát sinh giữa các
doanh nghiệp trong quá trình mua bán hàng hoá.
7
Thứ năm là tổ chức hợp lý các kênh phân phối hàng hoá. Đây là qúa trình
liên quan tới việc điều hành và vận chuyển hàng hoá, dịch vụ từ sản xuất đến
tiêu dùng nhằm đạt hiệu quả tối đa. Quá trình này giải quyết các vấn đề: thay đổi
quyền sở hữu tài sản, di chuyển hàng dự trữ, bảo quản đóng gói, bốc dỡ và cung
cấp thông tin thị trường cho nhà sản xuất, tránh rủi ro trong kinh doanh.
d, Vị trí và vai trò của thương mại trong nền kinh tế thị trường.
- Vị trí: thương mại có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta. Trước hết thương mại là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất.
Thương mại nối liền giữa sản xuất với tiêu dùng. Dòng vận động của sản phẩm
hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng phải thông qua khâu phân phối và
trao đổi. Thì chính thương mại đã bao gồm cả hai khâu này. Ở vị trí cấu thành
của tái sản xuất, thương mại được coi như là hệ thống dẫn lưu, tạo ra sự liên tục
của quá trình tái sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn tới sự khủng hoảng của
sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất hàng hoá với mục đích là để thoả mãn nhu cầu
của người tiêu dùng để trao đổi, mua bán hàng hoá và để thực hiện được mục
đích này khi và chỉ khi phải thông qua thương mại. Thứ ba là thương mại là lĩnh
vực kinh doanh, thu hút trí lực và tiền vốn của các nhà đầu tư để thu lợi nhuận.
Bởi vậy kinh doanh thương mại đã trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai
theo như nhận xét của một số nhà kinh tế thì thương mại là một ngành sản xuất
đặc biệt.
- Vai trò của thương mại: Thương mại đã được coi là công cụ quan trọng,
một mũi nhọn đột kích phá vỡ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để
chuyển sang cơ chế thị trường.
Thứ nhất, thương mại thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chấn hưng các
quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hoạt động mua bán tạo ra động lực kích thích người
sản xuất không ngừng gia tăng khối lượng sản phẩm của mình, thúc đẩy phân
công lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất, hình thành nên các vùng chuyên môn
hoá lớn. Phát triển thương mại cũng có nghĩa là phát triển các quan hệ hàng hoá
tiền tệ. Đó là con đường ngắn nhất để chuyển từ sản xuất tự nhiên thành sản xuất
hàng hoá.
Thứ hai, thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, kích
thích nhu cầu và gợi mở nhu cầu.
Thứ ba, thương mại góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế làm cho
quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước khác không ngừng phát triển.
8
Trong tầm vĩ mô, thương mại có vai trò quan trọng, định hướng cho sự sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Thứ nhất, thương mại bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp diễn ra bình thường và liên tục. Quá trình tái sản xuất ở đây được
khởi đầu bằng việc đầu tư vốn cho mua sắm các yếu tố sản xuất, tiếp theo là quá
trình sản xuất ra hàng hoá, rồi khâu cuối cùng là tiến hành tiêu thụ sản phẩm.
Trong chu kỳ của quá trình tái sản xuất đó, thương mại có mặt ở hai khâu là
phân phối và trao đổi. Thương mại bảo đảm các yếu tố đầu vào cho sản xuất và
thực hiện khâu tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai, thương mại đảm bảo thực hiện được mục tiêu lợi nhuận. Doanh
nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có lợi nhuận, lợi nhuận là mục tiêu
cuối cùng của doanh nghiệp, để đạt được mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp
thì doanh nghiệp phải thực hiện được mục tiêu trung gian là tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, thương mại có vai trò điều tiết, hướng dẫn sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp. Qua hoạt động thương mại sẽ có những thông tin từ phía
người mua, từ thị trường. Trên cơ sở đó, nó sẽ hướng dẫn sản xuất phù hợp với
nhu cầu thường xuyên thay đổi của thị trường.
Thứ tư, thương mại tác động đến vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
II-/ THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA.
1-/ Trong thời gian qua, cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ
cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước theo định hướng XHCN, thương mại đã cùng các ngành, các địa
phương khác nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng, tạo đà,
bước để cho những năm tiếp theo. Trên lĩnh vực thương mại, có những chuyển
biến rõ nét, góp phần quan trọng vào mục tiêu chung của nền kinh tế. Điều này
thể hiện ở trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, trên lĩnh vực mua bán hàng hoá, chúng ta đã chuyển việc mua
bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị
trường, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu. Trong
thương mại nói chung là không còn tình trạng ép giá đầu ra, nâng giá đầu vào,
Nhà nước không chi phối hoàn toàn giá cả trên thị trường mà chỉ tác động vào
thị trường bằng những công cụ điều tiết của mình để cho thị trường tự điều tiết
lấy, tự bình ổn lấy. Thêm vào đó, do đời sống của người dân có nhiều cải thiện,
được nâng cao nên sức mua trên thị trường tăng lên đáng kể. Tính đến năm
1999, tổng mức luân chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội ước đạt 195 ngàn tỷ đồng,
9
tăng khoảng 6% so với năm 1998 (184 ngàn tỷ đồng), nếu loại trừ yếu tố giá thì
chỉ tăng khoảng 1,5%, đây là năm có tốc độ tăng thấp nhất trong giai đoạn 1991-
1999. Thông thường, ở nước ta tốc độ tăng trưởng GDP năm 1999 là 4,8% thì
lưu chuyển hàng hoá bán lẻ phải tăng ở mức thấp nhất là 10% mới tương xứng.
Vậy mà nếu tốc độ lưu chuyển hàng hoá là 6% thì vấn đề đặt ra cho tổng cung,
tổng cầu là một vấn đề đáng lưu ý.
Giá cả nói chung trong những năm qua không có nhiều biến động, phù hợp
với thu nhập của người dân, ngày càng đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và
tiêu dùng. Nếu như trước kia, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao
cấp, giá cả nói riêng và toàn bộ các hoạt động mua bán trao đổi đều do Nhà
nước chi phối quyết định dẫn đến tình trạng cung không đáp ứng nổi cầu, sản
xuất cầm chừng, lãi giả lỗ thật, việc hạch toán sản xuất kinh doanh thực hiện
theo chế độ hạch toán kinh tế. Thì bây giờ trong cơ chế thị trường, Nhà nước
cho phép các thành phần kinh tế tự do sản xuất kinh doanh, do vậy vấn đề đặt ra
là phải làm thế nào để giảm mức tối đa chi phí đầu vào thì từ đó mới có được lợi
nhuận. Do đó, các doanh nghiệp phải chuyển sang hạch toán theo chế độ hạch
toán kinh doanh, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị, phần lớn là các doanh
nghiệp phải chấp nhận giá thị trường. Chính điều này đã trở thành động lực cho
kinh tế phát triển, tạo bước chuyển lớn về mặt kinh tế xã hội ở nước ta trong
những năm qua.
Thứ hai, một khía cạnh quan trọng của thương mại góp phần làm thay đổi
diện mạo của nền kinh tế trong những năm qua và ngày càng có triển vọng trong
những năm tới phải kể đến là lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nhờ chính sách đổi mới
đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ
trương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta trong hơn 10 năm qua,
đặc biệt từ năm 1991 đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những
bước tiến quan trọng. Đến nay, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã
có mặt trên thị trường của 140 nước trên hầu khắp các châu lục trên thế giới.
Chất lượng, số lượng và chủng loại mặt hàng có những cải thiện đáng kể. Cơ
cấu hàng xuất khẩu đã dần được thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so sánh
trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 9 năm (1991-
1999) đạt 43 tỷ USD, tăng trung bình hàng năm là 22%, đáp ứng được 3/4 nhu
cầu nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng từ 36,3USD năm
1991 lên 118USD năm 1998 và dự kiến tăng lên 136USD năm 2000. Những kết
quả trên đây có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng
liên tục của nền kinh tế trọng thời gian qua.
10
Trong lịch sử ngoại thương của nước nhà - một nước nghèo, chiến tranh
liên miên, thiên tai chồng chất, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu vượt qua
ngưỡng cửa 10 tỷ USD, theo số liệu của Bộ Thương mại, tổng kim ngạch xuất
khẩu của năm 1999 đã lên 11,523 tỷ USD, tăng 23% so với mức thực hiện của
năm 1998, vượt 15% kế hoạch đặt ra. Trong đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trong nước đạt 8,946 tỷ USD, chiếm 77,6% và tăng 21,2%, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,577 tỷ USD, chiếm 22,4% và tăng 30%. Tuy nhiên,
những con số đấy còn cho thấy nhiều điều khác:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta hồi phục rất nhanh. Sự
tăng nhanh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong năm 1999 có phần do sức mua
của thị trường khu vực đã bước vào giai đoạn hồi phục. Theo đánh giá của Bộ
Thương mại, sức mua của nhiều thị trường khu vực châu Á đang dần trở lại bình
thường như trước khi khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Thứ hai, giá một số mặt hàng chủ lực của nước ta trên thị trường thế giới
tăng nhanh. Cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, nhiều mặt hàng xuất
khẩu của ta đã có mặt trên nhiều thị trường khu vực và thế giới và ngày càng
khẳng định được chỗ đứng của mình. Những mặt hàng chủ lực có thể kể đến là
gạo, cà phê, dầu thô, hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản Đây là những mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Trong những năm tới, để tăng nhanh tốc độ
xuất khẩu thì Nhà nước phải chú trọng quan tâm nhiều đến cơ cấu của những
mặt hàng này, có như thế mới đạt được những mục tiêu đã đề ra cho những năm
sau này.
Cơ cấu xuất nhập khẩu được mô tả thông qua bảng số liệu sau:
BẢNG 1 - CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN TỔNG TRỊ GIÁ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU
10 NĂM (1990-1999).
(Đơn vị %)
Năm Xuất khẩu
Nhập khẩu
Năm Xuất khẩu
Nhập khẩu
1990 123,5
107,3
1995 134,4
140,0
1991 86,8
84,9
1996 133,2
136,6
1992 123,7
108,7
1997 126,6
104,0
1993 115,7
154,4
1998 101,9
92,2
1994 135,8
148,5
1999 123,1
100,9
11
12
BẢNG 2 - XUẤT NHẬP KHẨU QUA CÁC NĂM.
1995 1996 1997 1998
Tăng giảm so
với 97 (%)
Xuất khẩu
5.448.9
7.255,9
9.269
9.356
- DN có vốn ĐTNNXK trực tiếp 440,1
786,0
1,790
1,990
11,2
+ Hạt điều
76,0
133,3
117
- 12,
+ Hạt tiêu
47,0
62,8
63
0
+ Hàng rau quả 56,1
90,0
68,3
53
- 22,1
+ Hàng hải sản 621,4
696
781
850
8,8
+ Hàng dệt, may 850
1.150
1.349
1350
0,1
+ Giày dép các loại 296,4
530
965
960
- 0,5
+ Hàng thủ công mỹ nghệ 66,0
78,7
121
108
- 10,7
+ Máy vi tính cá nhân và linh kiện
404
58,4
Nhập khẩu Triệu USD 8.155,0
11.144
11.217
11.390
- 3,0
- DN có vốn ĐTNN NK trực tiếp 1.468,1
2.043
2.902
2.646
- 17,2
- Máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế
2.168
1.777
2004
12,8
- Hoá chất
193
216
236
9,3
- Tân dược 69,1
206
312
295
- 5,4
- Nguyên liệu và phụ kiện dệt, may, da
829
1173
717
- 38,9
- Về nhập khẩu: Trong hơn 10 năm qua chúng ta vẫn không ngừng tăng
nhanh việc nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được. Nếu xét
theo cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu, có thể thấy rõ các xu thế biến động và kèm
theo đó là các tác động không tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Do
nhu cầu trong nước ngày càng cao, đồng thời nguồn lực thì không thể đáp ứng
được nên phần lớn chúng ta vẫn phải nhập khẩu các mặt hàng kỹ thuật như máy
móc thiết bị, phân bón Trong những năm qua cán cân thương mại luôn bị thâm
hụt theo số liệu của Bộ Thương mại, năm 1999 tổng kim ngạch nhập khẩu ước
đạt 11,623 tỷ USD, tăng 1% so với năm 1998, trong đó các doanh nghiệp có vốn
trong nước đạt 8,238 tỷ USD, chiếm 70,8% và giảm 7% các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,398 tỷ USD, chiếm 29,2% và tăng 27,3%. Về cơ
cấu, dự kiến nhóm công nghệ - máy móc - thiết bị - phụ tùng đạt 3,376 tỷ USD
chiếm 29% và giảm 6,4%; nhóm nguyên - nhiên - vật liệu đạt 7,66 Tỷ USD,
13
chim 65,8% v tng 8,3%; nhúm hng tiờu dựng t 0,6 t USD, chim 5,2%
v gim 29,4% so vi nm 1998.
Nhp siờu l khong 113 triu USD, chim 1% tng kim ngch xut khu,
bng 5,2% mc nhp siờu nm 1998.
- V th trng: Trong nhng nm i mi va qua, thc hin ch trng
a dng hoỏ, a phng hoỏ cỏc quan h kinh t i ngoi cng thờm nhng n
lc to ln ca ng v nhõn dõn ta, ó gúp phn vo vic m rng th trng
xut nhp khu ca nc ta. Tớnh n ht thỏng 11/ 1999 chỳng ta ó cú quan h
mua bỏn vi tt c cỏc chõu lc: , c, u, M v Phi. Trong ú chõu vn l
th trng ng u vi kim ngch chim 59% tng kim ngch xut khu ca c
nc. Sau cuc khng hong chõu ang trờn hi phc v phỏt trin nờn
xut khu sang cỏc khu vc ny tng, c bit xut khu sang cỏc nc Hn
Quc, Thỏi Lan, Trung Quc, Malaysia, Lo, Nht v Philippin tng trung bỡnh
t 18 - 35% so vi nm 1998. Quan h buụn bỏn gia nc ta vi cỏc nc khỏc
ngy cng xit cht, vi phng chõm Vit Nam mun lm bn vi tt c cỏc
nc trờn th gii thỡ chỳng ta ó, ang v s ngy cng cú nhiu i tỏc lm
n, buụn bỏn hn. Theo thụng bỏo ca B Thng mi thỡ c cu xut khu ca
Vit Nam tớnh n 11/ 1999 l:
i vi th trng trong nc, sau hn 10 nm i mi, th trng ó
chuyn t trng thỏi chia ct khộp kớn theo a gii hnh chớnh kiu t cp t
tỳc sang t do lu thụng theo quy lut kinh t th trng v theo phỏp lut. Vi
s tham gia ca nhiu thnh phn kinh t bc u ó huy ng c cỏc tim
nng v vn, k thut vo lu thụng hng hoỏ, lm cho th trng trong nc
phỏt trin, sc mua ca ngi dõn tng lờn, tng mc lu chuyn hng hoỏ xó
hi khụng ngng tng lờn. Hu ht cỏc mt hng ch lc u ỏp ng c
nhng nhu cu c bn ca sn xut v tiờu dựng trờn th trng xó hi, Giỏ c
cỏc loi vt t, vt liu xõy dng v hu ht cỏc loi hng tiờu dựng v c bn l
6%
26%
3%
6%
59%
Mỹ
Âu
Phi và nơ i khá c
úc
á
14
ổn định. Sự ổn định tương đối của giá cả thị trường làm cho chỉ số lạm phát
được giữ vững. Thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo điều tiết các thành
phần kinh tế khác hoạt động theo đúng pháp luật.
Thứ ba, thương nghiệp Nhà nước đã có sự chuyển đổi tổ chức và phương
thức kinh doanh, từng bước thích ứng với cơ chế mới đang giữ tỷ trọng tuyệt đối
về xuất nhập khẩu, 70% bán buôn, có tỷ trọng cao trong bán lẻ ở một số ngành
hàng thiết yếu, đóng góp ngày càng nhiều cho Nhà nước, thực hiện các mặt hàng
chính sách đối với đồng bào miền núi và dân tộc. Một số doanh nghiệp kinh
doanh có hiệu quả, phát huy được vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa, bước
đầu tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Một số doanh nghiệp đang
chuyển đổi tổ chức, thực hiện quá trình liên kết và tích tụ đầu tư vào sản xuất và
chế biến, qua đó tạo nguồn hàng và mở rộng thị trường là lực lượng kinh tế
mạnh của Nhà nước trong việc điều hoà cung cầu, ổn định giá cả.
Thứ tư, các loại hình dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng hoá phát triển
mạnh, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, góp phần phục vụ đời sống và giải quyết
việc làm cho người lao động.
Thứ năm là quản lý Nhà nước về thị trường và hoạt động thương mại có
tiến bộ về tổ chức hệ thống, hoạch định chính sách vĩ mô, tạo điều kiện sản xuất,
kinh doanh phát triển.
Thứ sáu là nhiều cán bộ quản lý và kinh doanh thương nghiệp qua sàng lọc
và đào tạo trong cơ chế mới, khẳng định được phẩm chất và năng lực, đang tích
cực học tập, nâng cao trình độ có thể đối tác trong điều kiện quốc tế hoá các
quan hệ kinh tế.
Thứ bảy là hoạt động thương nghiệp đã góp phần đảm bảo các nhu cầu về
vật tư, hàng hoá cho nền kinh tế quốc dân, quốc phòng và đời sống nhân dân.
Hàng hoá trong nước phong phú, giá cả tương đối ổn định, lạm phát được kiềm
chế, ngày càng có nhiều mặt hàng Việt Nam có mặt trên thị trường thế giới.
Thương nghiệp góp phần tích cực vào việc phát triển sản xuất, phân công lao
động xã hội, thúc đẩy các ngành đổi mới công nghệ, cải tiến cơ cấu sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho sản xuất từng bước gắn với nhu cầu thị
trường bước đầu phát huy được lợi thế so sánh giữa các vùng, các miền, giữa thị
trường nước ta với thị trường thế giới, tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế, cải
thiện đời sống nhân dân.
Đạt được những thành tự bước đầu rất quan trọng này là do có đường lối và
chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của các
15
ngành, các cấp, tinh thần khắc phục khó khăn, hoạt động năng động của các
doanh nghiệp, gắn liền với sự chuyển biến tích cực của toàn bộ nền kinh tế.
2-/ Những hạn chế của hoạt động thương mại trong thời gian qua.
Bên cạnh những thành tựu và kết quả đã đạt được, thương mại nước ta vẫn
còn tồn tại nhiều yếu kém, thiếu sót, phát sinh những vấn đề phức tạp mới, cần
có chủ trương và biện pháp giải quyết đúng đắn nhằm đảm bảo định hướng của
sự phát triển, phát huy những mặt tích cực và hạn chế, giảm thiểu mức tối đa
những mặt yếu kém. Có thể kể đến những yếu kém khuyết điểm đó như sau:
- Thứ nhất, thị trường hàng hoá và số lượng doanh nghiệp bung ra kinh
doanh phát triển với tốc độ nhanh, nhưng mang nặng tính tự phát. Nếu thương
nghiệp về cơ bản vẫn là một nền thương nghiệp nhỏ, tổ chức phân tán, manh
mún, buôn bán theo kiểu chụp giựt qua nhiều tầng nấc, dẫn đến tình trạng ép giá
đầu vào, nâng giá đầu ra ở thị trường trong nước, bị chèn ép ở thị trường nước
ngoài. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, trong những năm qua số lượng các doanh nghiệp tổ
chức, cá nhân tham gia kinh doanh ngày càng nhều. Bên cạnh đó hệ thống pháp
luật của nước ta còn yếu kém, không kiểm soát được thị trường trong nước và số
lượng thương nhân kinh doanh nên về cơ bản nền kinh tế nước ta đứng trước bối
cảnh thị trường chưa khả quan, còn nhiều khó khăn, bất ổn định. Thị trường
trong nước hiện đang mất cân đối lớn giữa cung - cầu, nhu cầu có khả năng
thanh toán của xã hội đang suy giảm, một số hàng hoá không có khả năng tiêu
thụ bị ứ đọng, tồn kho số lượng lớn (xi măng, sắt thep, than đường ) trong khi
đó hàng lậu, hàng giả còn đầy rẫy, chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả.
Tình hình buôn bán còn diễn ra theo kiểu từng phi vụ, vấn đề tổ chức quản lý thị
trường chưa chặt chẽ, Nhà nước chưa kiểm soát được số lượng hàng hoá bày
bán trên thị trường. Bên cạnh đó còn diễn ra tình trạng mất cân đối, cần phân
biệt giữa quốc doanh và tư nhân. Tình hình giá cả thường xuyên thay đổi,
thường xảy ra cơn sốt hàng hoá trên thị trường Nhà nước vẫn có những chính
sách bảo hộ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, kém năng lực cạnh tranh,
giá thành cao. Để rồi bắt người tiêu dùng và xã hội chấp nhận những hàng hoá
đó với giá cao, bất lợi cho nền kinh tế. Đồng thời với chính sách bảo hộ cao, thì
hoạt động buôn lậu gian lận thương mại cũng gia tăng. Việc đánh thuế nhập
khẩu cao và vào một mặt hàng nào đó thì buôn lậu mặt hàng đó phát triển bởi lẽ
thuế cao, thuế cao cùng các chính sách hạn chế nhập khẩu sẽ đẩy giá hàng nhập
khẩu hợp phấp lên quá cao so với những mặt hàng nhập lậu cùng loại. Với ưu
thế giá rẻ, chất lượng tốt, hàng nhập lậu lại quay lại cạnh tranh với chính những
16
mặt hàng được bảo hộ sản xuất trong nước, làm cho hàng trong nước bị ứ đọng,
không tiêu thụ được ( hiện tượng thừa ế 300.000 tấn đường năm 1998 của ngành
mía đường là một minh chứng). Như vậy nhiều doanh nghiệp tưởng là được bảo
hộ nhưng trên thực tế lại hoá ra không được bảo hộ. Vì thế đối với các doanh
nghiệp, cách bảo hộ tốt nhất là phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh, giá rẻ chất
lượng tốt.
- Thứ hai là công tác quản lý thị trường nói chung chưa đạt được kết quả
theo yêu cầu đặt ra, tình trạng buôn lậu, hàng giả, gian dối trong thương mại
không những không suy giảm mà ngày càng trầm trọng. Về mặt chủ trương
chính sách có lúc xem nhẹ thị trường trong nước hơn thị trường nước ngoài.
Tình trạng kinh doanh không đăng ký, không chấp hành chế độ hoá đơn chứng
từ, trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh còn diễn ra ở nhiều nơi. Trình độ văn
minh thương nghiệp, tiêu chuẩn vệ sinh trong kinh doanh ăn uống và thực phẩm
thấp. Hoạt động quảng cáo thương mại cũng như thị trường văn hoá phẩm chưa
được quản lý tốt, gây tác hại đến đạo đức lối sống, ảnh hưởng xấu đến thuần
phong mỹ tục.
- Thứ ba là quản lý Nhà nước về thương nghiệp còn nhiều yếu kém, không
ít tiêu cực. Chỉ đạo xuất nhập khẩu và điều hành thị trường có khuyết điểm và
thiếu sót, tổ chức thu thập và xử lý thông tin để dự báo các động thái của thị
trường chưa tốt, không kịp thời, bị tư thương lợi dụng đầu cơ tăng giá. Chưa hỗ
trợ đúng mức cho phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế nhập khẩu
những mặt hàng mà trong nước sản xuất có hiệu quả. Chưa làm tốt việc điều tiết
và hướng dẫn tiêu dùng, thực hiện chính sách tiết kiệm cho đầu tư phát triển, tạo
ra năng lực mới, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của toàn bộ nền
kinh tế. Vấn đề này được xem xét một cách cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, hoạt động thương mại mang nặng tính tự phát còn nhiều thiếu
sót về vai trò của Sở Thương mại trong việc giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo
phát triển các mặt hàng xuất khẩu, phát triển thị trường nông thôn, miền núi, thị
trường nước ngoài. Sở chưa giúp nhiều được cho các doanh nghiệp chưa có cac
biện pháp hữu hiệu tổ chức sản xuất kinh doanh quản lý vốn, quản lý lao động,
ưl doanh nghiệp, mở rộng thị trường - Vai trò của Sở đối với các doanh nghiệp
thường là hướng dẫn, nhắc nhở, góp ý thực chất Sở không có vai trò chỉ đạo
điều hành cho nên mối quan hệ giữa Sở với các doanh nghiệp lỏng lẻo, kém hiệu
lực, vai trò của Sở ngày càng lu mờ. Các đối tượng này còn nhiều lúng túng và
bất cập - Việc hướng dẫn, kiểm tra nắm bắt tình hình xử lý các vi phạm của các
đối tượng ngoài quốc doanh còn hạn chế.
17
+ Thứ hai là mặc dù Đảng và Nhà nước ta vẫn đưa ra phương hướng phát
triển là “giảm dần nhập siêu, hạn chế nhập những hàng tiêu dùng chưa vào loại
thiết yếu. Có chính sách bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý”. Song trên thực tế
thì chúng ta vẫn chưa thực hiện được chủ trương đó, do Nhà nước chưa quản lý
được hết hoạt động nhập khẩu nên nạn nhập lậu vẫn diễn ra thường xuyên, với
tốc độ nhanh khiến cho sản xuất trong nước ế thừa, tồn đọng không tiêu thụ
được, vốn tồn trong các doanh nghiệp tăng lên dẫn đến những doanh nghiệp nào
mà không có lượng vốn lớn thì dẫn đến phá sản không trụ vững được trên thị
trường.
Những tồn tại của những yếu kém về thương mại trong thời gian qua có thể
kể đến nữa là:
Về lĩnh vực xuất nhập khẩu: Mặc dù tốc độ tăng xuất khẩu không ngừng
tăng cao nhưng trên thực tế khả năng cạnh tranh của sản phẩm nước ra trên thị
trường thế giới vẫn còn yếu kém. Các doanh nghiệp có vốn trong nước đã có
nhiều cố gắng để tìm kiếm thị trường xuất khẩu nhưng kết quả và hiệu quả
chung vẫn còn thấp. Hiện nay, xuất khẩu chủ yếu dựa vào nguyên liệu thô và
sản phẩm sơ chế là những mặt hàng khó tăng mạnh về lượng, lại bấp bênh về giá
trên thị trường. Thị trường xuất nhập khẩu tuy đã được mở rộng hơn trước
nhưng vẫn còn rất hạn chế, ta chưa đứng chận được trên một số thị trường tiêu
thụ trực tiếp của ta mà còn phải thông qua thị trường trung gian nên giá hàng
xuất khẩu còn thấp hơn một số nước trong vùng như gạo, cao su do đó hiệu quả
hoạt động xuất nhập khẩu nói chung vẫn còn rất hạn chế. Cơ chế điều hành,
quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều mặt chưa hợp lý, còn mang nặng nếp hành
chính quan liêu sự vụ, chưa ngang tầm với chính sách vĩ mô, chiến lược của
ngành. Hiệu lực quản lý còn thấp, do đó ngành thương mại còn có những hạn
chế trong việc góp phần giải quyết những cân đối lớn của nền kinh tế, chưa ngăn
chặn và khắc phục có hiệu quả các cơn sốt hàng hoá trong thời gian qua. Thêm
vào đó do phần lớn hàng hoá của nước ta là xuất khẩu sang khu vực Châu Á cho
nên chúng ta còn phụ thuộc quá nhiều vào thị trường này. Song thị trường của
khu vực này còn rất hạn chế, nên việc đặt ra là chúng ta phải không ngừng tiến
sâu vào các thị trường rộng lớn và có tiềm năng như Châu Phi, Bắc Mỹ, Nam
Mỹ. Bên cạnh đó việc triển khai một số thủ tục theo quy định mới của Nhà nước
về xuất, nhập khẩu còn gây phiền hà cho các doanh nghiệp do một số quy định
thiếu rõ ràng và chưa cụ thể, luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh
nghiệp mới được áp đụng nên các cơ quan quản lý Nhà nước còn nhiều lúng
túng. Luật thuế mới ra đời nhưng đã phải diều chỉnh liên tục, phương pháp thu
18
thuế và hoàn thành thuế còn nhiều bất cập đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Thứ năm là hợp tác xã mua bán không được quan tâm giúp đỡ để đổi mới,
hầu hết bị tan rã, thị trường nông thôn phần lớn do tư thương chi phối.
3-/ Nguyên nhân của những hạn chế đó.
Sở dĩ trong thời gian qua, hoạt động thương mại nước ta còn tồn tại nhiều
khuyết điểm, yếu kém hạn chế sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế,
ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ công nông, quan hệ thành thị nông thôn, dẫn
đến sự tiến bộ và công bằng xã hội là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất quá trìh chuyển đổi nền kinh tế đã gây ra những khó khăn và mât
cân đối lớn trong nền kinh tế, tính phức tạp của quá trình chuyển đổi và sự bất
cập trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế Nhà nước, nhưng về mặt chủ quan
chủ yếu là do:
- Bộ Chính trị, Ban bí thư chưa kịp thời ban hành những nghị quyết, chỉ thị
hướng dẫn để đổi mới và phát triển định hướng hoạt động thương nghiệp tròn cơ
chế mới.
- Nhận thức về cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo đinh
hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu chuyển đổi còn nhiều lúng túng, còn
những lệch lạc, kiến thức và năng lực quản lý điều hành còn yếu. Từ đó có sơ
hở, không đồng bộ và thiếu nhất quán trong việc hoạch định chính sách vĩ mô
trong quản lý và phát triển thương nghiệp.
- Xử lý chưa đúng mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, giữa chức
năng quản lý Nhà nước và quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy,
vừa chưa phát huy đầy đủ vai trò của Nhà nước đối với lĩnh vực phân phối lưu
thông, vừa chưa phát huy tốt tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp.
- Chưa chăm lo đúng công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp
thương nghiệp Nhà nước; chậm đổi mới, chưa xây dựng được cơ chế và giải
pháp đúng để phát huy vai trò của thương nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế
nhiều thành phần.
- Bộ máy quản lý Nhà nước về thương nghiệp từ trung ương đến tình,
huyện chưa tương xứng với sự phát triển của thị trường và lưu thông hàng hoá.
Cơ chế quản lý còn mang nặng tính tập trung, quan liệu cửa quyền. Đội ngũ cán
bộ chưa được sắp xếp lại, đào tạo, rèn luyện kịp với tình hình và nhiệm vụ mới,
một bộ phận thoái hoá biến chất không được xử lý kịp thời và kiên quyết. Cụ thể
19
trong hoạt động xuất nhập khẩu. Sở dĩ do hàng hoá của nước ta khả năng cạnh
tranh kém trên thị trường khu vực và thế giới, đặc biệt ngay ở trong sân chơi nhà
là do các nguyên nhân:
Thứ nhất, công nghệ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ
yếu được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, lạc hậu mấy
thế hệ, không thích hợp với nền kinh tế thị trường. Mấy năm gần đây các xí
nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng thông thường là sử dụng
chắp vá, không đồng bộ, vốn đầu tư còn hạn hẹp, tổ chức sản xuất và bộ máy
quản lý cồng kềnh, bất cập với công nghệ.
Thứ hai là tuy có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu hàng chế biến
nhưng nhìn tổng thể thì hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam phần lớn còn ở dạng
nguyên liệu và ở dạng thô.
Thứ ba là các doanh nghiệp Việt Nam vừa mới bắt đầu tham gia hoạt động
kinh doanh trên thị trường trong điều kiện phải chấp nhận cạnh tranh. Cơ quan
quản lý Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp trong việc sản xuất xuất khẩu. Trình độ tổ chức quản lý điều hành
hoạt động xuất nhập khẩu, trình độ tiếp thị còn yếu của các doanh nghiệp.
Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại trong lĩnh
vực thương mại. Để cho thương mại nước ta trong thời gian tới phát huy được
vai trò lãnh đạo của nó, đặc biệt là trong giai đoạn quốc tế hoá như hiện nay, thì
Đảng và Nhà nước ta trên cơ sở thực tiễn đã phân tích những mặt tốt và những
mặt yếu kém của nó đã đưa ra các giải pháp nhằm ngày càng hoàn thiện các
chính sách thương mại.
20
PHẦN II
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NƯỚC
TA TRONG THỜI GIAN TỚI
I-/ Mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian tới.
Phát triển kinh tế là một trong những chiến lược lâu dài và quan trọng nhất
đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Nó bao trùm lên toàn bộ nền kinh
tế. Vì vậy xác định mục tiêu phát triển kinh tế là một vấn đề có tính chất chiến
lược, sống còn đối với đất nước ta. Trên cơ sở nhận thức vấn đề này, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Ban chấp hành Trung Ương Đảng đã đưa ra mục
tiêu phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay và cả trong những
năm tới như sau:
Thứ nhất là thực hiện đồng thời 3 mục tiêu về kinh tế: tăng trưởng cao, bền
vững và có hiệu quả; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô; chuẩn bị các tiền đề cho
bước phát triển cao hơn sau năm 2000 chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực,
khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế.
Thứ hai là tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi nguồn lực để phát triển
lực lượng sản xuất đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đổi mới
căn bản tổ chức và quản lý, nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước để phát
huy vai trò chỉ đạo. Đổi mới và phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác
từ thấp đến cao, triển khai thực hiện luật hợp tác xã. Mở rộng các hình thức liên
doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước,
phát huy khả năng của kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân. Xác lập, củng cố
và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội.
Thứ ba là kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội - văn
hoá, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả sử
dụng các nguồn lực vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế vừa phục vụ quốc
phòng, an ninh.
Mục tiêu trong năm 2000 là GDP bình quân đầu nguời tăng gấp đôi năm
1990. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân là 14 - 15%/ năm, nông
nghiệp 4,5 - 5%, dịch vụ 12 - 13% và trong chỉ đạo thực hiện phải tranh thủ mọi
khả năng mới phấn đấu đạt cao hơn. Đến năm 2000 tỷ trọng công nghiệp và xây
21
dựng chiếm khoảng 19 - 20% đồng thời thu hút mạnh các nguồn vốn bên ngoài
để đưa tỷ lệ đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2000 lên khoảng 30% GDP. Tiếp
tục thực hiện mục tiêu kiềm chế và kiểm soát lạm phát, loại trừ các nguy cơ tái
lạm phát cao, giữ chỉ số giá tiêu dùng dưới 10%/ năm, cải thiện cán cân thanh
toán quốc tế.
Về kinh tế đối ngoại: Mục tiêu trong những năm tới là mở rộng thị trường
xuất nhập khẩu, tăng khả năng cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu, kim ngạch
xuất khẩu tăng bình quân hàng năm khoảng 28%, nâng mức xuất khẩu bình quân
đầu người năm 2000 lên 200 USD, phát triển mạnh du lịch và các dịch vụ thu
ngoại tệ, kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân hàng năm là khoảng 24%.
Trên đây là những mục tiêu phát triển kinh tế chủ yếu của nước ta trong
những năm tới. Nhưng để thực hiện được mục tiêu đã đề ra trong toàn bộ nền
kinh tế nói chung và ngành thương mại nói riêng thì phải xây dựng và thực hiện
một hệ thống các giải pháp mà nghị quyết 12 của Bộ Chính trị đã đưa ra vào
ngày 3/ 1/ 1996.
II-/ QUAN ĐIỂM VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN TỚI.
1-/ Quan điểm:
Phát huy và sử dụng tốt khả năng, tính tích cực của các thành phần kinh tế
trong giao lưu hàng hoá đi đôi với việc xây dựng thương nghiệp Nhà nước và
hợp tác xã mua bán nhằm giữ vững vai trò chủ đạo của thương nghiệp Nhà nước
trên những lĩnh vực, địa bàn và mặt hàng quan trọng.
Mở rộng thị trường ngoài nứoc gắn với việc phát triển ổn định thị trường
trong nước, lấy thị trường trong nước làm cơ sở, đặt hiệu quả kinh doanh thương
nghiệp trong hiệu quả kinh tế - xã hội của toàn bộ nền kinh tế.
Đặt sự phát triển của lưu thông hàng hoá và hoạt động của các doanh
nghiệp dưới sự quản lý của Nhà nước; khuyến khích, phát huy mặt tích cực,
đồng thời có biện pháp hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm
tăng trưởng kinh tế đi đôi tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước phát
triển.
2-/ Những biện pháp chủ yếu.
2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách và công cụ
quản lý.
22
Xây dựng và ban hành luật Thương mại nhằm điều chỉnh mọi việc mua
bán, lưu thông hàng hoá và các hoạt động dịch vụ trên thị trường. Đồng thời xây
dựng đồng bộ hệ thống pháp luật các chính sách thị trường, bao gồm chính sách
giá cả, các định chế về thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, về kiểm
tra, kiểm soát ban hành quy chế đại lý nhằm thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế
và ban hành các kênh lưu thông.
Chấn chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng khuyến khích mạnh xuất
khẩu, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu vật tư cho sản xuất, hàng tiêu dùng thiết yếu
cho đời sống, bảo đảm cân đối cung - cầu, ổn định giá cả. Hết sức tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, tạo điều kiện rộng rãi
cho các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu tát cả
các mặt hàng xuất khẩu. Xoá bỏ cơ chế xin - cho mà quản lý, điều hành theo
pháp luật. Điều gì pháp luật không cấm làm thì phải được tự do kinh doanh theo
đúng nghĩa của nó, chứ không nên để tình trạng gây khó khăn, phiền hà, dẫn tới
xin - cho dưới mọi hình thức. Quản lý chặt chẽ và điều hành công tác nhập khẩu
phối hợp tốt với các ngành sản xuất, các cơ quan chức năng góp phần giữ vững
các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân, ngăn ngừa và khắc phục các cơn sốt
hàng hoá có thể và đã xảy ra. Đồng thời phải thực hiện chính sách bảo hộ sản
xuất trong nước một cách hợp lý đúng mức xết trên góc độ hiệu quả kinh tế cao
nhất, chứ không phải chỉ nghe theo một cách thiếu cân nhắc những tiếng gào
“miễn giảm thuế”, “bảo hộ sản xuất” thường thấy từ phía các doanh nghiệp làm
ăn kinh doanh kém hiệu quả, tuỳ thuộc vào từng mặt hàng để vừa thúc đẩy các
cơ sở sản xuất vươn lên cạnh tranh được với hàng ngoại trên thị trường, đáp ứng
lợi ích người tiêu dùng. Như vậy bảo hộ sản xuất vươn lên cạnh tranh chúng ta
chủ trương duy trì cạnh tranh là vì lẽ cạnh tranh mới thúc đẩy cải tiến kỹ thuật,
nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, có lợi cho nền kinh tế.
2.2. Sử dụng đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá và các công cụ tài chính, tín
dụng:
Kế hoạch hoá thương mại trong nền kinh tế thị trường phải thể hiện các nội
dung: xây dựng chiến lược thị trường và quy hoạch phát triển thương mại đáp
ứng yêu cầu của kinh tế hàng hoá tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Xác
định các cân đối lớn, sử dụng đúng đắn các công cụ tài chính, tín dụng để điều
tiết thị trường và định hướng hoạt động của các doanh nghiệp, bảo đảm các mục
tiêu kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Theo dõi và phát hiện kịp thời các biến động
trên thị trường, áp dụng các biện pháp kể cả sử dụng lực lượng kinh tế của Nhà
nước can thiệp vào thị trường khi cần thiết để duy trì cân đối.
23
Tiếp tục cải cách hệ thống thuế, phát triển thị trường vốn, hiện đại hoá
ngành ngân hàng, đổi mới công nghệ thanh toán góp phần thúc đẩy thương
nghiệp phát triển.
Hoàn thiện cơ chế bình ổn giá và sử dụng quỹ bình ổn giá, quản lý tốt dự
trữ quốc gia, xác định mức dự trữ quốc gia trong mối quan hệ với dự trữ lưu
thông nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn dự trữ này.
2.3. Tổ chức lại thị trường trên từng địa bàn theo các định hướng sau
đây:
Tổ chức hệ thống thương mại dịch vụ gắn với quy hoạch phát triển trên
từng địa bàn, bảo đảm mua bán thuận tiện, xác lập trật tự thị trường, thực hiện
văn minh thương nghiệp.
Phát huy vai trò phát luồng hàng, khả năng định hướng và điều tiết thị
trường xã hội trong khu vực của thị trường đô thị, đặc biệt là các trung tâm
thương mại lớn. Thị trường đô thị được tổ chức theo nhiều quy mô và cấp độ
khác nhau, toạ điều kiện hình thành các Công ty lớn có khả năng tích tụ và tsập
trung vốn, liên kết chặt chẽ với sản xuất, đầu tư vào sản xuất, thực hiện kinh
doanh theo phương thức tiên tiến, làm đầu tàu hiện đại hoá ngành thương mại.
Bố trí hợp lý các chợ trung tâm là nơi phát luồng hàng, phát triển mạng lưới bán
lẻ đa dạng.
Phát triển mạng lưới thương mại ở nông thôn, lấy chợ và các cụm kinh tế
thương mại dịch vụ ở thị trấn làm mô hình chủ yếu. Thúc đẩy việc hình thành
các cơ sở sơ chế, phân loại đóng gói, bảo quản gắn với các cửa hàng mua bán tư
liệu sản xuất, vật tư nông nghiệp nông sản thực phẩm, hàng tiêu dùng của
thương nghiệp Nhà nước, hợp tác xã mua bán và của các thành phần kinh tế
khác tại các cụm kinh tế thương mại dịch vụ. Tạo lập các quan hệ liên kết lâu
dài, ổn định giữa sản xuất và thương nghiệp, qua đó thúc đẩy sản xuất mở rộng
thị trường, bảo đảm ổn định lưu thông và giá cả một số mặt hàng thiết yếu.
2.4. Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong lĩnh vực thương mại
và dịch vụ:
Tổng kết thực trạng hợp tác xã mua bán trong những năm qua phát hiện mô
hình tốt mới xuất hiện. Chính Phủ quy định các chính sách cụ thể áp dụng cho
loại hình thương mại dịch vụ. Trên cơ sở đó, chỉ đạo việc củng cố và xây dựng
mới các hợp tác xã mua bán, trước hết là ở địa bàn nông thôn.
24
2.5. Tổ chức và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác kinh doanh
thương mại:
Phát huy vai trò tích cực của các thành phần kinh tế khác trong việc mở
rộng thị trường, phát triển giao lưu hàng hoá tổ chức hướng dẫn các thành phần
kinh tế này kinh doanh theo đúng pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh chính sách
thuế, các quy định về đăng ký kinh doanh, chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ.
Xây dựng mối quan hệ hợp tác, liên kết kinh doanh giữa thương nghiệp
Nhà nước với thương nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Tạo điều kiện
thuận lợi khuyến khích thương nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đầu tư
vào sản xuất, kết hợp sản xuất với thương mại. Đấu tranh ngăn ngừa các hiện
tượng tiêu cực, khắc phục tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, thôn tính lẫn
nhau.
2.6. Xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại.
Xây dựng đồng bộ và hoàn thiện tk quản lý thương mại ở các ngành, các
cấp nhằm thực hiện tốt các chức năng: xây dựng pháp luật, hoạch định cơ chế,
chính sách bao gồm các chính sách về kinh tế đối ngoại và tổ chức thị trường ở
cấp vĩ mô; chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thi hành pháp luật, cơ chế chính sách,
thanh tra và kiểm soát thị trường. Kiện toàn tổ chức Bộ Thương mại và các bộ
tổng hợp. Thiết lập cơ chế phân phối giữa các cơ quan này khi hoạch định chính
sách thương mại trên cơ sở đề cao chức năng quản lý ngành của Bộ Thương
mại. Quy định rõ trách nhiệm của các bộ quản lý, ngành kinh tế kỹ thuật, chuyên
ngành sản xuất trong việc đảm bảo cân đối cung - cầu và tổ chức lưu thông các
mặt hàng thiết yếu. Cơ quan sáng lập doanh nghiệp phải chỉ đạo, kiểm tra việc
chấp hành pháp luật, các chế độ, chính sách của Nhà nước ở các doanh nghiệp.
Chấn chỉnh và đổi mới tổ chức hoạt động của các sở thương mại phát huy
vai trò của Sở trong việc giúp uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố thực hiện quản lý
thương nghiệp trên địa bàn. Xây dựng lực lượng quản lý thị trường theo yêu cầu
chính quy, tổ chức chặt chẽ.
Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý Nhà nước và cán bộ quản trị kinh
doanh. Tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ cho phù hợp với yêu cầu
mới. Xây dựng và ban hành cơ chế tuyển dụng cán bộ, có chính sách đãi ngộ và
sử dụng nhân tài. Kiên quyết thay thế những cán bộ có phẩm chất đạo đức kém.
2.7. Về thị trường xuất nhập khẩu:
25
Hết sức coi trọng thị trường trong nước. Xem việc nắm và ổn định thị
trường trong nước là một trong những mục tiêu hàng đầu của chính sách thương
mại. Thị trường ngoài nước là quan trọng đối với xuất khẩu của mọi quốc gia
trong xu thế hội nhập hiện nay nhưng không bao giờ thị trường nước ngoài có
thể thay thế thị trường trong nước nhất là đối với nền kinh tế thị trường chưa
phát triển của nước ta hiện nay. Ngành thương mại phải luôn chăm lo thị trường
trong nước, thị trường trong nước phải là địa bàn hoạt động của các doanh
nghiệp, các thành phần kinh tế, Nhà nước phải tạo ra các sân chơi bình đẳng đó,
cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng, hợp pháp trên thị trường.
2.8. Đấu tranh chống buôn lậu và các hành vi kinh doanh trái phép.
Đề cao trách nhiệm của cấp uỷ đảng và chính quyền ở các ngành các cấp từ
trung ương đến cơ sở trong tổ chức và chỉ đạo đấu tranh chống buôn lậu, làm
hàng giả, gian dối thương mại và mọi biểu hiện của hiện tượng độc quyền. Sử
dụng các biện pháp đồng bộ kiên quyết để ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn này. Kiện
toàn lực lượng làm công tác chống buôn lậu, làm hàng giả tổ chức tốt sự phối
hợp giữa các lực lượng để nâng cao hiệu quả hoạt động. Thường xuyên kiểm tra,
kiểm soát việc chấp hành chính sách, pháp luật, các quy định về đăng ký kinh
doanh, về hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán ở các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế.
2.9. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực thương mại.
Hoàn thiện sự lãnh đạo của các ban cán sự, các cấp uỷ đảng trong các cơ
quan quản lý Nhà nước về thương mại. Củng cố tổ chức quản lý cán bộ, nâng
cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ và tổ chức đảng cơ sở ở các
tổng công ty, công ty trong việc xác định phương hướng kinh doanh, ngăn chặn
và đáu tranh với các biểu hiện tiêu cực về quan điểm, tư tưởng và đạo đức trong
doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả và vai trò chủ đạo của thương nghiệp
Nhà nước trên thị trường.
Chấn chỉnh hoạt động của các tổ chức đảng trong các xí nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế khác, bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng đối với các tổ chức quần chúng cán bộ công nhân viên chức, giám
sát việc chấp hành luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và của người lao động.
Thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất và lãnh đạo và quản lý công tác cán
bộ.
2.10 Hoàn thiện tổ chức và quản lý thương nghiệp Nhà nước.