Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo " Sự cần thiết của việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở Việt Nam hiện hay " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.26 KB, 5 trang )



nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011 51





TS. Cao ThÞ Oanh *
hủ thể của tội phạm là một trong bốn
yếu tố cấu thành tội phạm. Vì vậy, quy
định về chủ thể của tội phạm giữ vai trò là
cơ sở pháp lí để truy cứu trách nhiệm hình
sự người thực hiện hành vi nguy hiểm đáng
kể cho xã hội.
Pháp luật hình sự nước ta từ năm 1945
đến nay nói chung và Bộ luật hình sự hiện
hành nói riêng thể hiện quan điểm thống
nhất là chỉ quy định cá nhân là chủ thể của
tội phạm. Quy định này nhận được sự ủng hộ
của tuyệt đại đa số các nhà khoa học trong
nước trong suốt nhiều năm và cũng là cơ sở
pháp lí để xử lí mọi hành vi phạm tội xảy ra
trong thực tiễn. Tuy nhiên, xu thế hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng và sự xuất hiện
khá phổ biến của hiện tượng pháp nhân thực
hiện hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội
đang đặt ra cho chúng ta yêu cầu xem xét lại
phạm vi chủ thể của tội phạm theo quy định
của Bộ luật hình sự hiện nay.


Mặc dù tất cả những hành vi gây thiệt
hại của pháp nhân đều được thực hiện bởi
những cá nhân cụ thể nhưng họ thực hiện
những hành vi đó không phải với tư cách cá
nhân mà với tư cách pháp nhân. Khi đó, họ
có những điều kiện thuận lợi để thực hiện
hành vi mà pháp nhân trao cho và mục đích
của hành vi họ thực hiện cũng là đem lại lợi
ích cho pháp nhân. Vì vậy, sẽ là không công
bằng khi pháp nhân đã “có lỗi” trong việc để
cá nhân thực hiện tội phạm lại không phải
chịu trách nhiệm hình sự trong khi vấn đề
trách nhiệm hình sự của cá nhân đó lại được
đặt ra. Mặt khác, chính việc không áp dụng
loại chế tài có tính nghiêm khắc cao là chế
tài hình sự có thể ảnh hưởng đến khả năng
răn đe các pháp nhân đã tạo điều kiện hoặc
điều khiển cá nhân thực hiện hành vi phạm
tội. Việc quy định trách nhiệm hình sự đối
với pháp nhân có tác dụng thông qua sự tác
động đến quyền lợi của bản thân những
người có liên quan đến hoạt động của pháp
nhân (chẳng hạn, các cổ đông của pháp
nhân) từ đó tăng cường ý thức ngăn chặn
những hành vi nguy hiểm cho xã hội do các
thành viên pháp nhân thực hiện. Chúng tôi
cho rằng sự ngăn chặn này mang tính hiệu
quả cao vì mối đe doạ áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân cũng là mối đe
doạ đối với lợi ích của mọi cá nhân liên quan

đến pháp nhân.
Trong những năm gần đây, thực tiễn xã
hội nước ta cho thấy không chỉ cá nhân mà
còn có nhiều pháp nhân thực hiện những
C
* Giảng viên Khoa pháp luật hình sự
Trường Đại học Luật Hà Nội


nghiªn cøu - trao ®æi
52 t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011
hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Hành
vi trái pháp luật mà các pháp nhân này thực
hiện chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực
môi trường, quản lí thuế, tài chính, chứng
khoán, đầu tư, bảo hiểm, đấu thầu xây
dựng Những vụ việc đó đã gây ra tác hại
về nhiều mặt đối với đời sống xã hội. Nếu
vấn đề quy định trách nhiệm pháp lí và việc
áp dụng các quy định này trong thực tiễn
không được giải quyết một cách phù hợp và
kịp thời thì không ai có thể bảo đảm rằng
những vụ việc tương tự như trên sẽ không
tiếp tục diễn ra.
Trong khi đó, cùng với những bất hợp lí
trong cách quy định về dấu hiệu pháp lí của
một số tội phạm trong Bộ luật hình sự thì
việc không quy định trách nhiệm hình sự đối
với pháp nhân là một phần nguyên nhân dẫn
đến việc xử lí các hành vi trái pháp luật nói

trên chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn.
Hiện nay, do Bộ luật hình sự chỉ quy
định cá nhân là chủ thể của tội phạm nên
đối với các pháp nhân thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật (kể cả khi hành vi đó nguy
hiểm đáng kể cho xã hội), Nhà nước chỉ có
thể áp dụng biện pháp xử lí hành chính hoặc
buộc phải chịu trách nhiệm dân sự. Trong
khi đó, trên thực tiễn chế tài hành chính
hoặc dân sự không đáp ứng được yêu cầu
răn đe cần thiết.
Vì vậy, việc áp dụng chế tài xử phạt
hành chính đối với các pháp nhân thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật nguy hiểm đáng
kể cho xã hội có thể dẫn đến hiện tượng
pháp nhân chấp nhận bị phạt tiền (nếu hành
vi vi phạm bị phát hiện) để thực hiện hành vi
đem lại lợi nhuận cao hơn. Việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người đứng đầu
pháp nhân đã thực hiện hành vi vi phạm
cũng không thể thực hiện được vì có những
tội phạm (ví dụ: một số tội phạm về môi
trường) đòi hỏi phải thỏa mãn dấu hiệu “đã
bị xử phạt hành chính mà cố tình không thực
hiện các biện pháp khắc phục theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
gây hậu quả nghiêm trọng”, trong khi việc
xử phạt hành chính chỉ áp dụng đối với pháp
nhân chứ không phải đối với người đại diện
của pháp nhân có hành vi vi phạm.

Trong một số trường hợp hành vi nguy
hiểm đáng kể cho xã hội do pháp nhân thực
hiện nhằm mang lại lợi ích cho pháp nhân
nhưng việc xử lí về hình sự lại chỉ có thể
được thực hiện đối với người đứng đầu của
pháp nhân và những người trực tiếp thực
hiện hành vi phạm tội. Rõ ràng cách xử lí
này không triệt để vì pháp nhân đó vẫn
không phải chịu bất kì biện pháp cưỡng chế
nào do việc thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật của mình, việc một số cá nhân bị xử lí
về hình sự không đủ cần thiết để ngăn chặn
tình trạng tiếp tục thực hiện những hành vi
tương tự trong pháp nhân đó.
Thêm vào đó, xét trong điều kiện xã hội
nước ta hiện nay cho thấy: việc điều hành,
quản lí được thực hiện theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách Theo các nguyên tắc
này, các quyết định quan trọng về phương
hướng hoạt động, về hoạt động cụ thể nào đó


nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học số 12/2011 53
liờn quan n li ớch t chc, doanh nghip
u c thụng qua bi tp th theo cỏc hỡnh
thc khỏc nhau (hi ng qun tr, ban giỏm
c, tp th lónh o c quan, thm chớ l
ca cp u ). Cỏc cỏ nhõn c giao ch s

dng cỏc bin phỏp iu hnh c th thc
hin m khụng c lm trỏi cỏc quyt nh
ú. Thc tin xột x cho thy khi xột x cỏc
ti phm, nht l ti phm v kinh t, ti
phm v chc v nhiu b cỏo cho rng h
thc hin hnh vi phm ti l do thc hin
quyt nh ca tp th nờn h khụng phm
ti hoc cn c gim nh trỏch nhim hỡnh
s. Thm chớ, trong nhiu trng hp to ỏn
cũn ỏp dng tỡnh tit tng nng trỏch nhim
hỡnh s "li dng danh ngha c quan, t
chc phm ti" tng nng trỏch nhim
hỡnh s i vi cỏ nhõn ú. Vỡ vy, trong
nhng trng hp ny vic ch truy cu
trỏch nhim hỡnh s i vi cỏ nhõn no ú
l hon ton thiu hp lớ, thiu cụng bng v
vỡ vy hiu qu ca vic x lớ khụng cao.
(1)

Vi nhng phõn tớch trờn, chỳng tụi
hon ton ng tỡnh vi ý kin cho rng:
Trong iu kin hin nay, nu phỏp
nhõn khụng c coi l ch th ca ti
phm tc l mi hnh vi, vic lm ca phỏp
nhõn cho dự cú nguy him n õu cng
khụng c coi l ti phm v khụng b x
lớ bng bin phỏp nghiờm khc nht l hỡnh
pht thỡ Nh nc s khụng kim soỏt c
cỏc hnh vi vi phm phỏp lut ca phỏp
nhõn v c bit l ó khụng s dng bin

phỏp hu hiu l bin phỏp hỡnh s
chng li cỏc vi phm v phc hi li cỏc
quan h xó hi ó b xõm hi. Cng nh i
vi th nhõn, vic truy cu trỏch nhim
hỡnh s i vi phỏp nhõn v ỏp dng hỡnh
pht tng xng i vi hnh vi phm ti
ca phỏp nhõn va cú ý ngha chng v va
cú ý ngha phũng nga ti phm.
(2)

c bit, hin nay, quỏ trỡnh hi nhp
quc t ca Vit Nam trong ú cú hi nhp
v phỏp lut, hi nhp t phỏp ang din ra
mnh m dn n ũi hi phi cú s tng
thớch gia phỏp lut Vit Nam v phỏp lut
cỏc nc. S tng thớch ny khụng ch t
ra i vi riờng phỏp lut hỡnh s m cũn t
ra i vi c h thng phỏp lut nc ta.
Hin nay, phỏp lut ca rt nhiu quc gia
trờn th gii quy nh v ỏp dng trỏch
nhim hỡnh s i vi phỏp nhõn phm ti
nờn Vit Nam cng cn tip thu v vn dng
mt cỏch phự hp vn ny.
Kt qu nghiờn cu v trỏch nhim hỡnh
s ca phỏp nhõn cỏc nc ca chỳng tụi
cho thy, cho n nay trỏch nhim hỡnh s
ca phỏp nhõn c quy nh trong phỏp
lut hỡnh s ca nhiu nc trờn th gii
nh Anh, M, Canaa, Australia, Phỏp, H
Lan, B, Thy S, Trung Quc, Singapore,

Malaysia, Nht Bn Trong ú, cú nhng
quc gia ó quy nh v ỏp dng trỏch nhim
hỡnh s i vi phỏp nhõn t rt nhiu nm
nay. Mc dự cỏc quc gia cú cỏch quy nh
riờng v vn trỏch nhim hỡnh s i vi
phỏp nhõn nhng gia cỏc quc gia c la
chn nghiờn cu cng cú rt nhiu im
chung trong quy nh cỏc ni dung chớnh v
vn ny m Vit Nam cú th tham kho


nghiên cứu - trao đổi
54 tạp chí luật học số 12/2011
v vn dng. Kt qu nghiờn cu cho thy
quy nh v trỏch nhim hỡnh s ca phỏp
nhõn cỏc nc núi trờn cú nhng im
chung sau õy:
Th nht, tuy cỏc mc v phm vi
khỏc nhau nhng thuyt ng nht hoỏ trỏch
nhim c cỏc nc s dng trong quy
nh trỏch nhim hỡnh s i vi phỏp nhõn.
Thuyt ng nht hoỏ xỏc nh t chc
khụng phi l mt tru tng phỏp lớ m l
mt thc th xó hi m "b nóo" ca nú l
ngi lónh o, ch huy. T chc c
hng li t nhng quyt nh, hnh ng
ca ngi lónh o, ch huy thỡ nú cng phi
chu trỏch nhim t quyt nh, hnh vi ca
nhng ngi ú.
T gúc phỏp lớ hỡnh s, theo thuyt

ng nht hoỏ, t chc cng cú nhng
hnh vi v cng cú li nh th nhõn. im
c trng õy l hnh vi phm ti, li
ca t chc c xỏc nh thụng qua (ng
nht vi) hnh vi, li ca th nhõn l ngi
lónh o, ch huy nu ngi ú thc hin
hnh vi nhõn danh, thay mt v vỡ li ớch
ca t chc.
Th hai, s dng thuyt ng nht hoỏ
trỏch nhim, cỏc nc u quy nh "nguyờn
tc trỏch nhim kộp" (double jeopardy rules).
Do ti phm ca t chc c xỏc nh
thụng qua hnh vi ca ngi lónh o, ch
huy t chc, cho nờn khi cú ti phm xy ra,
ng thi vi vic truy cu trỏch nhim hỡnh
s t chc, ngi lónh o, ch huy trc tip
thc hin hnh vi phm ti cng phi b truy
cu trỏch nhim hỡnh s.
Vic ỏp dng "nguyờn tc trỏch nhim
kộp" mt mt th hin bn cht trỏch nhim
hỡnh s ca t chc l trỏch nhim ú thụng
qua trỏch nhim ca th nhõn c th; mt
khỏc, lm tng hiu qu ca vic ỏp dng
trỏch nhim hỡnh s trong th gii hin i.
Khi ngi lónh o, ch huy nhõn danh, thay
mt v vỡ li ớch ca mt t chc thc hin
ti phm thỡ vic truy cu trỏch nhim hỡnh
s ch vi t chc hoc ch vi ngi lónh
o, ch huy ú l cha t c mc
ớch ca hỡnh pht, nht l mc ớch phũng

nga ti phm.
Th ba, v phm vi ch th cng cú nhiu
im tng ng trong phỏp lut cỏc nc
v trỏch nhim hỡnh s ca t chc. ú l:
+ Tt c cỏc nc nghiờn cu u loi
tr trỏch nhim hỡnh s ca Nh nc v c
quan nh nc, cỏc c quan chớnh quyn a
phng. Ch cú theo B lut hỡnh s Trung
Quc thỡ c quan nh nc cng cú th b
truy cu trỏch nhim hỡnh s. Tuy nhiờn,
quy nh ny hon ton thiu tớnh kh thi v
vỡ th ó khụng i vo cuc sng. Vỡ vy,
cỏc nh lut hỡnh s hc Trung Quc ang
nht lot ngh hy b quy nh ny trong
b lut hỡnh s.
+ Theo lut hỡnh s ca a s cỏc nc
c nghiờn cu (tr lut hỡnh s Phỏp), t
chc phi chu trỏch nhim hỡnh s khụng
nht thit phi cú t cỏch phỏp nhõn t gúc
lut dõn s, thng mi hoc hnh chớnh.
Cỏc t chc phm ti ch cn cú ngõn sỏch
c lp thi hnh hỡnh pht tin v cỏc
hỡnh pht khỏc.


nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 12/2011 55
Thứ tư, hình phạt tiền được áp dụng với
tư cách là hình phạt chính đối với tổ chức
phạm tội ở tất cả các nước được nghiên cứu.

Mức phạt tiền được xác định tuyệt đối hoặc
theo tỉ lệ nhưng thông thường là cao hơn so
với mức phạt đối với thể nhân phạm tội
tương ứng.
Còn hình phạt chính được áp dụng đối
với người lãnh đạo, chỉ huy tổ chức là hình
phạt tiền, hình phạt tù hoặc cả hai loại hình
phạt đó. Mức phạt tiền đối với những người
này thấp hơn mức phạt đối với tổ chức.
(3)

Trong một số công ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia hoặc phê chuẩn như Công
ước của Liên hợp quốc về tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia, Công ước của Liên
hợp quốc về phòng chống tham nhũng cũng
có quy định về việc khuyến nghị các quốc
gia thiết lập chế định trách nhiệm hình sự đối
với pháp nhân. Chẳng hạn, trong Công ước
của Liên hợp quốc về tội phạm có tổ chức
xuyên quốc gia quy định: “1. Mỗi quốc gia
thành viên sẽ ban hành những biện pháp cần
thiết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản
của pháp luật quốc gia để xác định trách
nhiệm pháp lí của pháp nhân trong việc
tham gia vào các tội phạm nghiêm trọng liên
quan đến nhóm tội phạm có tổ chức và trong
việc thực hiện những hành vi phạm tội theo
quy định tại các điều 5, 6, 8 và 23 của Công
ước này; 2. Với điều kiện không trái với các

nguyên tắc pháp luật của quốc gia thành
viên, pháp nhân có thể phải chịu trách
nhiệm hình sự, dân sự hoặc hành chính; 3.
Trách nhiệm pháp lí của pháp nhân không
ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của
những thể nhân đã thực hiện hành vi phạm
tội; 4. Đặc biệt là mỗi quốc gia thành viên
phải đảm bảo áp dụng đối với những pháp
nhân bị quy kết trách nhiệm pháp lí theo quy
định tại Điều này những biện pháp chế tài
hiệu quả, tương ứng với tính chất và mức độ
của tội phạm và đủ sức răn đe, có thể là chế
tài hình sự, chế tài phi hình sự hoặc phạt
tiền” (Điều 10). Để đảm bảo sự tương thích
của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc
tế đặc biệt là trong điều kiện hội nhập sâu
rộng của Việt Nam hiện nay, luật hình sự
Việt Nam cần tiếp thu kinh nghiệm của thế
giới và nghiên cứu quy định trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân một cách phù hợp.
Như vậy, xét về cả phương diện lí luận
và thực tiễn đều cho thấy pháp luật hình sự
Việt Nam cần sớm mở rộng phạm vi chủ thể
của tội phạm theo hướng bổ sung quy định
về trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Sự
thay đổi này sẽ kéo theo sự thay đổi của rất
nhiều quy định liên quan trong cả pháp luật
hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp
luật thi hành án hình sự. Sự thay đổi này cần
được đánh giá là sự thay đổi cần thiết và

khoa học đối với pháp luật Việt Nam./.

(1).Xem: Trần Văn Độ, “Nghiên cứu so sánh cơ sở lí
luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình
sự đối với tổ chức”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ, Viện khoa học pháp lí, Bộ tư pháp, Hà Nội, 2010,
tr. 125.
(2).Xem: TS. Phạm Hồng Hải, “Pháp nhân có thể là
chủ thể của tội phạm hay không”? Tạp chí luật học,
số 06/1999, tr. 14 - 19.
(3).Xem: Trần Văn Độ, tlđd, tr. 85 - 86.

×