Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Tác phẩm văn học lớp 8 ( đọc kĩ phần mô tả tài liệu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.47 KB, 39 trang )

TỨC NƯỚC VỠ BỜ
(Trích Tắt Đèn)
Cháo chín, chị Dậu bắc mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc ra la liệt. Rồi chị
lấy quạt cho chóng nguội.
Tiếng trống và tiếng tù và đã thủng thẳng đưa nhau từ phía đầu làng đến đình.
Tiếng chó sủa vang các xóm.
Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
- Bác trai đã khá rồi chứ?
- Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý hãy còn lề bề, lệt
bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm.
- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm đấy, chốc nữa họ vào thúc
sưu, khơng có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm dề dề như thế, nếu lại phải một
trận địn, ni mấy tháng cho hồn hồn.
- Vâng, cháu cũng đã nghĩ như cụ. Nhưng để cháo nguội, cháu cho nhà cháu ăn
lấy vài húp cái đã.
Nhịn xng từ sáng hơm qua đến giờ cịn gì.
- Thế thì phải giục anh ấy ăn mau mau đi, kẻo nữa người ta sắp sửa keo vào rồi
đấy!
Rồi bà lão lại lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.
Cháo đã hơi nguội.
Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp sồn soạt.
Chị Dậu rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm:
- Thầy hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột.
Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó, như có ý chờ xem chồng chị ăn có
ngon miệng hay khơng.
Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. Uể oải, chống tay xuống phản, anh vừa rên
vừa ngỏng đầu lên. Run rẩy cất bát cháo, anh mới kề vào đến miệng. Cai lệ và
người nhà lí trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây
thừng.
Gõ đầu roi xuống đất, cai lệ thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái
cũ:




- Thằng kia, ơng tưởng mày chết đêm qua, cịn sống đấy à? Nộp nốt tiền sưu!
Mau!
Hoảng quá anh Dậu vội để bát cháo xuống phản, lăn đùng ra đó, khơng nói được
một câu gì. Người nhà lí trưởng cười cách mỉa mai:
- Anh ta sắp phải gió như đêm qua đấy!
Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:
- Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Ðấy chị hãy nói với ơng cai, để
ơng ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ơng Lý tơi thì khơng có quyền dám cho
chị khất một giờ nào nữa!
Chị Dậu run run:
- Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả xuất sưu của chú nó nữa, nên mới lơi thơi
như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu! Hai ơng làm phúc
nói với ơng lí hãy cho cháu khất...
Cai lệ khơng để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:
- Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước, mà dám mở mồm
xin khất!
Chị Dậu vẫn cố thiết tha:
- Khốn nạn! Nhà cháu đã khơng có, dẫu ơng chửi mắng cũng đến thế thôi. Xin
ông trông lại!
Cai lệ vẫn giọng hằm hè:
- Nếu khơng có tiền nộp sưu cho ơng bây giờ, thì ơng sẽ rỡ cả nhà mày đi, chửi
mắng thôi à?
Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà lí trưởng:
- Khơng hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó lại, điệu ra đình kia
Người nhà Lí trưởng hình như khơng dám hành hạ một người ốm nặng, sợ hoặc
xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà khơng dám nói. Ðùng
đùng, Cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ Anh
Dậu.

Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé con xuống đất, chạy đến đỡ lấy tay hắn:
- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!
- Tha này, tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch ln vào ngực chị Dậu, mấy bịch, rồi lại sấn đến để trói
anh Dậu.


Hình như tức q khơng thể chịu được, chị Dậu liều mạng cự lại:
- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ.
Cai lệ tát vào mặt chị một cái bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu, Chị Dậu
nghiến hai hàm răng:
- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!
Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy
không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên
mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu.
Người nhà lí trưởng sấn sổ bước đến, huơ gậy chực đánh chị Dậu. Nhanh như
cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co nhau du đẩy nhau,
rồi ai nấy đều buông gây ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con kêu khóc om sịm.
Kết cục, anh chàng “hầu cận ơng lí” yếu hơn chị chàng con mọn, hắn bị chị này
túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt đắm ngồi lên lại nằm xuống, vừa
run vừa rên:
- U nó khơng được thế! Người ta đánh mình khơng sao, mình đánh người ta thì
mình phải tù phải tội.
Chị Dậu vẫn chưa nguôi giận:
Thà ngồi tù. Ðể cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được...

I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Ngô Tất Tố (1893 - 1954) quê ở huyện Lộc Hà, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

(nay thuộc Đông Anh, Hà Nội), xuất thân là một nhà Nho gốc nơng dân.
- Ơng là một học giả có nhiều cơng trình nghiên cứu về triết học, văn học cổ có
giá trị; một nhà báo với nhiều bài viết mang khuynh hướng dân chủ và giàu tính
chiến đấu; một nhà văn hiện thực chuyên viết về nông thôn trong giai đoạn trước
cách mạng.
- Sau cách mạng, Ngô Tất Tố sau sưa hoạt động trong công tác tuyên truyền văn
nghệ phục vụ kháng chiến chống Pháp.
2. Sự nghiệp văn học
a. Tác phẩm chính


- Một số tác phẩm ở nhiều thể loại như: Tắt đèn (tiểu thuyết, 1939), Lều chõng
(phóng sự tiểu thuyết, 1940), phóng sự Tập án cái đình (1939), Việc làng (phóng
sự, 1940), Trời hửng (dịch, truyện ngắn, 1946), Đóng góp (kịch, 1956)...
=> Trong đó, Tắt đèn là tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố.
b. Phong cách nghệ thuật
- Là nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về đề tài nơng dân và nơng thơn
trước Cách mạng. Ơng được mệnh danh là nhà văn của nông thôn, của người
nơng dân lao động Việt Nam.
- Ngịi bút hướng tới khám phá và phát hiện ở nhân dân lao động những đức tính
tốt đẹp.
c. Giải thưởng
Với những đóng góp lớn lao của bản thân cho nền văn học nghệ thuật nước nhà,
Ngô Tất Tố đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn hố
nghệ thuật đợt 1 năm 1996
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
- “Tắt đèn” là tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của Ngơ Tất Tố.
- Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích trong chương XVIII của tiểu thuyết, tên
nhan đề do người biên soạn đặt.

2. Tóm tắt
Gia đình thuộc “nghèo nhất nhì trong hạng cùng đinh” nên chị Dậu phải chạy
ngược chạy xuôi vay tiền để nộp suất sưu cho chồng. Anh Dậu bị ốm nhưng vẫn
bị bọn lính đánh trói, lơi ra đình cùm kẹp. Chị Dậu rứt ruột đem con Tí, đứa con
gái đầu lịng 7 tuổi bán cho lão Nghị Quế bên thơn Đồi để lấy tiền nộp sưu.
Đêm hôm ấy người ta cõng anh Dậu về. Bà con hàng xóm đến cứu giúp, có bà
lão đem một bát gạo đến cho chị nấu cháo. Cháo chín, chị Dậu mang đến cho
chồng. Nhưng anh Dậu chưa kịp ăn thì cai lệ và người nhà lí trưởng đã đến đòi
tiền suất sưu của người em chồng đã chết. Chị Dậu tìm cách van xin để khất sưu,
nhưng không được. Chúng định đánh anh Dậu, chị Dậu vùng lên đáp trả lại
3. Ý nghĩa nhan đề
“Tức nước vỡ bờ” trước hết có ý nghĩa tả thực. Khi lượng nước trên sông,
suối… quá lớn sẽ làm nước tràn khỏi bờ, gây ra hiện tượng vỡ đê, vỡ bờ. Nhưng
hình ảnh trên còn mang ý nghĩa biểu tượng: Sức chịu đựng dù có dai dẳng, bền
bỉ thế nào nhưng vẫn có giới hạn. Một khi giới hạn đó bị phá vỡ, con người sẵn


sàng vượt qua nó. Khi áp dụng vào trong văn bản này, ý nghĩa của nhan đề mang
ý nghĩa “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.
4. Giá trị nội dung
Vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân phong kiến đương thời; xã
hội ấy đã đẩy người nơng dân vào tình cảnh khổ cực, khiến họ phải liều mạng
chống lại. Đoạn trích cịn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân, vừa giàu
tình u thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.
5. Giá trị nghệ thuật
- Tình huống truyện đặc sắc, có kịch tính cao.
- Cách kể chuyện, miêu tả nhân vật chân thực, sinh động. Nghệ thuật tương phản
làm nổi bật tính cách nhân vật.
- Ngịi bút hiện thực sinh động, ngôn ngữ đối thoại đặc sắc
III. Đọc - hiểu văn bản

1. Cảnh chị Dậu chăm sóc chồng
- Hồn cảnh gia đình:


“nghèo nhất nhì trong hạng cùng đinh” - phải chạy ngược chạy xuôi vay
tiền để nộp suất sưu cho chồng.



Anh Dậu bị ốm nhưng vẫn bị bọn lính đánh trói, lơi ra đình cùm kẹp.



Chị Dậu rứt ruột đem con Tí, đứa con gái đầu lịng 7 tuổi bán cho lão Nghị
Quế bên thơn Đồi để lấy tiền nộp sưu.



Đêm hôm ấy người ta cõng anh Dậu về. Bà con hàng xóm đến cứu giúp,
có bà lão đem một bát gạo đến cho chị nấu cháo.

- Chị Dậu chăm sóc chồng:


Cháo chín, chị mang ra giữa nhà quạt cho nguội.



Khi cháo nguội, chị rón rén mang đến chỗ chống nằm nhẹ nhàng bảo
chồng dậy ăn.




Chị ngồi xuống chờ xem chờ chống ăn có ngon miệng khơng.

=> Một người vợ dịu dàng, hết mực yêu thương chồng và ân cần chu đáo.
2. Cảnh người nhà lí trưởng đến bắt nộp sưu và sự phản kháng của chị Dậu
- Hoàn cảnh: Anh Dậu mới kề bát cháo vào miệng thì cai lệ và người nhà lí
trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng.


- Mục đích: Bắt chị Dậu nộp nốt chỗ sưu cho người em chồng đã chết từ năm
ngoái.
- Thái độ của cai lệ và người nhà lí trưởng:


Quát nạt, đe dọa bằng những lời lẽ hách dịch, kém văn hóa.



Cai lệ còn tát vào mặt chị Dậu, nhảy vào định đánh anh Dậu.

- Chị Dậu:


Ban đầu, chị xưng hô lịch sự “gọi ông - xưng cháu”, nhẫn nhịn van nài tên
cai lệ và người nhà lí trưởng khất sưu cho.




Khi tên cai lệ định chạy tới đánh anh Dậu, dường như quá tức mà không
chịu được chị cự lại: “Chồng tôi đau ốm, các ông không được phép hành
hạ”.



Đến lúc tên cai lệ tát vào mặt chị một cái và vẫn nhảy vào anh Dậu. Những
dồn nén của chị Dậu đã bộc phát thành hành động rõ ràng:



Chị nghiến hai hàm răng: “Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”; “Rồi
túm cổ hắn, ấn dúi ra cửa…”. Sự phản kháng mạnh mẽ từ một người phụ
nữ lực điền.

=> Chị Dậu không chỉ là một người phụ nữ yếu đuối, mà rất dũng cảm, mạnh mẽ
khi có người dám động đến gia đình mình.

-------------------------------------------------------------------------------------------------

LÃO HẠC
Lão Hạc thổi cái mồi rơm, châm đóm. Tơi đã thơng điếu và bỏ thuốc rồi. Tơi mời
lão hút trước. Nhưng lão khơng nghe...
- Ơng giáo hút trước đi.
Lão đưa đóm cho tơi...
- Tơi xin cụ...
Và tơi cầm lấy đóm, vo viên một điếu. Tơi rít một hơi xong, thơng điếu rồi mới
đặt vào lịng lão. Lão bỏ thuốc, nhưng chưa hút vội. Lão cầm lấy đóm, gạt tàn,
và bảo:



- Có lẽ tơi bán con chó đấy, ơng giáo ạ!
Lão đặt xe điếu, hút. Tơi vừa thở khói, vừa gà gà đơi mắt của người say, nhìn
lão, nhìn để làm ra vẻ chú ý đến câu nói của lão đó thơi. Thật ra thì trong lịng
tơi rất dửng dưng. Tôi nghe câu ấy đã nhàm rồi. Tôi lại biết rằng: lão nói là nói
để có đấy thơi; chẳng bao giờ lão bán đâu. Vả lại, có bán thật nữa thì đã sao?
Làm qi gì một con chó mà lão có vẻ băn khoăn quá thế...
Lão hút xong, đặt xe điếu cuống, quay ra ngồi, thở khói. Sau một điếu thuốc
lào, óc người ta tê dại đi trong một nỗi đê mê nhẹ nhõm. Lão Hạc ngồi lặng lẽ,
hưởng chút khối lạc con con ấy. Tơi cũng ngồi lặng lẽ. Tôi nghĩ đến mấy quyển
sách quý của tôi. Hồi bị ốm nặng ở Sài Gịn tơi bán gần hết cả áo quần, nhưng
vẫn không chịu bán cho ai một quyển. Ốm dậy, tôi về quê, hành lý chỉ vẻn vẹn có
một cái va-ly đựng tồn những sách. Ơi những quyển sách rất nâng niu! Tôi đã
nguyện giữ chúng suốt đời, để lưu lại cái kỷ niệm một thời chăm chỉ, hăng hái và
tin tưởng đầy những say mê đẹp và cao vọng: mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp
đọc dịng nào, tơi đã thấy bừng lên trong lịng tơi như một rạng đơng, cái hình
ảnh tuổi hai mươi trong trẻo, biết yêu và biết ghét... Nhưng đời người ta không
chỉ khổ một lần. Mỗi lần cùng đường đất sinh nhai, và bán hết mọi thứ rồi, tôi lại
phải bán đi một ít sách của tơi. Sau cùng chỉ cịn có năm quyển, tơi nhất định, dù
có phải chết cũng không chịu bán. Ấy thế mà tôi cũng bán! Mới cách đây có hơn
một tháng thơi, đứa con nhỏ của tôi bị chứng lỵ gần kiệt sức... Không! Lão Hạc
ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu? Lão quý con chó vàng của lão đã thấm
vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi...
Tôi nghĩ thầm trong bụng thế. Cịn lão Hạc, lão nghĩ gì? Đột nhiên lão bảo tôi:
- Này! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay, chẳng có giấy má gì đấy, ơng giáo
ạ!
À! Thì ra lão đang nghĩ đến thằng con lão. Nó đi cao su năm sáu năm rồi. Hồi
tơi mới về, nó đã hết một hạn cơng-ta. Lão Hạc, đem thư của nó sang, mượn tơi
xem. Nhưng nó xin đăng thêm một hạn nữa... Lão vội cắt nghĩa cho tôi hiểu tại
sao lão đang nói chuyện con chó, lại nhảy vọt sang chuyện thằng con như vậy:

- Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!... Nó mua về ni, định để đến lúc cưới
vợ thì giết thịt...
Ấy! Sự đời lại cứ thường như vậy đấy. Người ta đã định rồi chẳng bao giờ người
ta làm được. Hai đứa mê nhau lắm. Bố mẹ đứa con gái biết vậy, nên cũng bằng
lòng gả. Nhưng họ thách nặng quá: nguyên tiền mặt phải một trăm đồng bạc, lại
còn cau, còn rượu... cả cưới nữa thì mất đến cứng hai trăm bạc. Lão Hạc khơng
lo được. Ý thằng con lão, thì nó muốn bán vườn, cố lo cho bằng được. Nhưng lão
không cho bán. Ai lại bán vườn đi mà lấy vợ? Vả lại bán vườn đi, thì cưới vợ về,
ở đâu? Với lại, nói cho cùng nữa, nếu đằng nhà gái họ cứ khăng khăng đòi như


vậy, thì dẫu có bán vườn đi cũng khơng đủ cưới. Lão Hạc biết vậy đấy, nhưng
cũng không dám xẵng. Lão tìm lời lẽ giảng giải cho con trai hiểu. Lão khun nó
hãy dằn lịng bỏ đám này, để rồi gắng lại ít lâu, xem có đám nào khác mà nhẹ
tiền hơn sẽ liệu; chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác; làng này đã chết hết con
gái đâu mà sợ?... Lạy trời lạy đất! Nó cũng là thằng khá, nó thấy bố nói thế thì
nó thơi ngay, nó khơng đả động đến việc cưới xin nữa. Nhưng nó có vẻ buồn. Và
lão biết nó vẫn theo đuổi con kia mãi. Lão thương con lắm. Nhưng biết làm sao
được?... Tháng mười năm ấy, con kia đi lấy chồng; nó lấy con trai một ơng phó
lý, nhà có của. Thằng con lão sinh phẫn chí. Ngay mấy hơm sau, nó ra tỉnh đến
sở mộ phu, đưa thẻ, ký giấy xin đi làm đồn điền cao su...
Lão rân rấn nước mắt, bảo tơi:
- Trước khi đi, nó cịn cho tơi ba đồng bạc, ơng giáo ạ! Chả biết nó gửi thẻ xong,
vay trước được mấy đồng, mà đưa về cho tôi ba đồng. Nó đưa cho tơi ba đồng
mà bảo: “Con biếu thầy ba đồng để thỉnh thoảng thầy ăn quà; xưa nay con ở
nhà mãi cũng không nuôi được bữa nào, thì con đi cũng chẳng phải lo; thầy bịn
vườn đất với làm thuê làm mướn thêm cho người ta thế nào cũng đủ ăn; con đi
chuyến này cố chí làm ăn, bao giờ có bạc trăm con mới về, khơng có tiền, sống
khổ sống sở ở cái làng này, nhục lắm!...”. Tơi chỉ cịn biết khóc, chứ cịn biết
làm sao được nữa? Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta chụp rồi. Nó

lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu cịn là con
tơi?...
*
**
Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tơi hiểu tại sao lão khơng muốn bán con chó vàng của
lão. Lão chỉ cịn một mình nó để làm khy. Vợ lão chết rồi. Con lão đi bằn bặt.
Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà chả phải buồn?
Những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ buồn một chút. Lão gọi nó là
cậu Vàng như một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh thoảng khơng có việc
gì làm, lão lại bắt rận cho nó hay đem nó ra ao tắm. Lão cho nó ăn cơm trong
một cái bát như một nhà giàu. Lão ăn gì lão cũng chia cho nó cùng ăn. Những
buổi tối, khi lão uống rượu, thì nó ngồi ở dưới chân. Lão cứ nhắm vài miếng lại
gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con trẻ. Rồi lão chửi yêu
nó, lão nói với nó như nói với một đứa cháu bé về bố nó. Lão bảo nó thế này:
- Cậu có nhớ bố cậu không? Hả cậu Vàng? Bố cậu lâu lắm khơng có thư về. Bố
cậu đi có lẽ được đến ba năm rồi đấy... Hơn ba năm... Có đến ngót bốn năm...
Khơng biết cuối năm nay bố cậu có về khơng? Nó mà về, nó cưới vợ, thì nó giết
cậu. Liệu hồn cậu đấy!
Con chó vẫn hếch mõm lên nhìn, chẳng lộ một vẻ gì; lão lừ mắt nhìn trừng trừng
vào mắt nó, to tiếng dọa:


- Nó giết mày đấy! Mày có biết khơng? Ơng cho thì bỏ bố!
Con chó tưởng chủ mắng, vẫy đi mừng, để lấy lại lòng chủ. Lão Hạc nạt to
hơn nữa:
- Mừng à? Vẫy đi à? Vẫy đi thì cũng giết! Cho cậu chết!
Thấy lão sừng sộ quá, con chó vừa vẫy đuôi, vừa chực lảng. Nhưng lão vội nắm
lấy nó, ơm đầu nó, đập nhè nhẹ vào lưng nó và dấu dí:
- À khơng! À khơng! Khơng giết cậu Vàng đâu nhỉ!... Cậu Vàng của ơng ngoan
lắm! Ơng khơng cho giết... Ơng để cậu Vàng ơng ni...

Lão bng nó ra để nhấc chén, ghé lên môi uống. Lão ngẩn mặt ra một chút, rồi
bỗng nhiên thở dài. Rồi lão lẩm bẩm tính. Đấy là lão tính tiền bịn vườn của
con...
Sau khi thằng con đi, lão tự hỏi rằng: “Cái vườn là của con ta. Hồi cịn mồ ma
mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè sẻn mãi, mới để ra được năm mươi
đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thức cịn rẻ cả... Của mẹ nó tậu, thì nó hưởng. Lớp
trước nó địi bán, ta khơng cho bán là ta có ý giữ cho nó, chứ có phải giữ để ta
ăn đâu? Nó khơng có tiền cưới vợ, phẫn chí bước ra đi, thì đến lúc có tiền để lấy
vợ, mới chịu về. Ta bịn vườn của nó, cũng nên để ra cho nó; đến lúc nó về, nếu
nó khơng đủ tiền cưới vợ thì ta thêm vào với nó, nếu nó có đủ tiền cưới vợ, thì ta
cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn...”. Lão tự bảo lão như thế, và lão
làm đúng như thế. Lão làm thuê kiếm ăn. Hoa lợi của khu vườn được bao nhiêu,
lão để riêng ra. Lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về, lão cũng có được một
trăm đồng bạc...
Lão lắc đầu chán nản, bảo tôi:
- Ấy thế mà bây giờ hết nhẵn, ông giáo ạ! Tơi chỉ ốm có một trận đấy thơi. Một
trận đúng hai tháng, mười tám ngày, ông giáo ạ! Hai tháng mười tám ngày đã
không làm ra được một xu, lại cịn thuốc, lại cịn ăn... Ơng thử tính ra xem bao
nhiêu tiền vào đấy?...
Sau trận ốm, lão yếu người đi ghê lắm. Những công việc nặng không làm được
nữa. Làng mất vè sợi, nghề vải đành phải bỏ. Đàn bà rỗi rãi nhiều. Cịn tí việc
nhẹ nào, họ tranh nhau làm mất cả. Lão Hạc khơng có việc. Rồi lại bão. Hoa
mầu bị phá sạch sành sanh. Từ ngày bão đến nay, vườn lão chưa có một tí gì
bán. Gạo thì cứ kém mãi đi. Một lão với một con chó mỗi ngày ba hào gạo, mà
gia sự vẫn cịn đói deo đói dắt...
- Thì ra cậu Vàng cậu ấy ăn khỏe hơn cả tôi ông giáo ạ. Mỗi ngày cậu ấy ăn thế,
bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào đấy. Cứ mãi thế này thì tơi lấy tiền đâu mà
ni được? Mà cho cậu ấy ăn ít thì cậu ấy gầy đi, bán hụt tiền, có phải hồi
khơng? Bây giờ cậu ấy béo trùng trục, mua đắt, người ta cũng thích...



Lão ngắt lại một chút, rồi tắc lưỡi:
- Thơi thì bán phắt đi! Đỡ được đồng nào, hay đồng ấy. Bây giờ tiêu một xu cũng
là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ chết nó. Tơi bây giờ có làm gì được đâu?
*
**
Hơm sau lão Hạc sang nhà tơi. Vừa thấy tôi, lão báo ngay:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!
- Cụ bán rồi?
- Bán rồi? Họ vừa bắt xong.
Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ầng
nước, tơi muốn ơm chồng lấy lão mà ịa lên khóc. Bây giờ thì tơi khơng xót năm
quyển sách của tôi quá như trước nữa. Tôi chỉ ái ngại cho lão Hạc. Tơi hỏi cho
có chuyện:
- Thế nó cho bắt à?
Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt
chảy ra. Cái đầu lão ngẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như
con nít. Lão hu hu khóc...
- Khốn nạn... Ơng giáo ơi! Nó có biết gì đâu! Nó thấy tơi gọi về thì chạy ngay
về, vẫy đi mừng. Tơi cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà,
ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau nó dốc ngược nó lên. Cứ thế là thằng
Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng nó chỉ loay hoay một lúc đã trói chặt cả
bốn chân nó lại. Bấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết! Này! Ơng giáo ạ! Cái
giống nó cũng khơn! Nó cứ làm in như nó trách tơi; nó kêu ư ử, nhìn tơi như
muốn bảo tơi rằng: “A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với
tơi như thế này?”. Thì ra tơi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó,
nó khơng ngờ tơi nỡ tâm lừa nó!
Tơi an ủi lão:
- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu đâu! Vả lại ai ni chó mà chả bán hay
giết thịt? Ta giết nó chính là hóa kiếp cho nó đấy, hóa kiếp để cho nó làm kiếp

khác.
Lão chua chát bảo:
- Ơng giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm
kiếp người, may ra có sung sướng hơn một chút... kiếp người như kiếp tơi chẳng
hạn!...
Tơi bùi ngùi nhìn lão bảo:


- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ! Cụ tưởng tơi sung sướng hơn chăng?
- Thế thì khơng biết nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm gì cho thật
sướng?
Lão cười và ho sịng sọc. Tơi nắm lấy cái vai gầy của lão, ôn tồn bảo:
- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái này là sung sướng: Bây giờ cụ
ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai lang, nấu một ấm nước chè
tươi thật đặc; ơng con mình ăn khoai, uống nước chè, rồi hút thuốc lào... Thế là
sướng.
- Vâng! Ông giáo dạy phải! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng.
Lão nói xong lại cười đưa đà. Tiếng cười gượng nhưng nghe đã hiền hậu lại. Tôi
vui vẻ bảo:
- Thế là được, chứ gì? Vậy cụ ngồi xuống đây, tơi đi luộc khoai, nấu nước.
- Nói đùa thế, chứ ơng giáo cho để khi khác?...
- Việc gì cịn phải chờ khi khác?... Khơng bao giờ nên hỗn sự sung sướng lại.
Cụ cứ ngồi xuống đây! Tôi làm nhanh lắm...
- Đã biết, nhưng tơi cịn muốn nhờ ơng một việc...
Mặt lão nghiêm trang lại...
- Việc gì thế, cụ?
- Ơng giáo để tơi nói... Nó hơi dài dịng một tí.
- Vâng, cụ nói.
- Nó thế này, ơng giáo ạ!
Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẹ và dài dịng thật. Nhưng đại khái có thể rút vào hai

việc. Việc thứ nhất: Lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng cịn dại lắm, nếu
khơng có người trơng nom cho thì khó mà giữ được vườn đất để làm ăn ở làng
này. Tôi là người nhiều chữ nghĩa, nhiều lý luận, người ta kiêng nể, vậy lão
muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão, lão viết văn tự nhượng
cho tơi để khơng ai cịn tơ tưởng dịm ngó đến; khi nào con lão về thì nó sẽ nhận
vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng được, để thế để tơi trơng coi cho nó...
Việc thứ hai: Lão già yếu lắm rồi, không biết sống chết lúc nào: con khơng có
nhà, lỡ chết khơng biết ai đứng ra lo cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết
khơng nhắm mắt: lão còn được hăm nhăm đồng bạc với năm đồng vừa bán chó
là ba mươi đồng bạc, muốn gửi tơi để lỡ có chết thì tơi đem ra, nói với hàng xóm
giúp, gọi là của lão có tí chút, cịn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả...
Tơi bật cười bảo lão:


- Sao cụ lo xa quá thế? Cụ còn khỏe lắm, chưa chết đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy
mà ăn, lúc chết hãy hay! Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại?
- Khơng, ơng giáo ạ! Ăn mãi hết đi thì đến lúc chết lấy gì mà lo liệu? Đã đành
rằng là thế, nhưng tơi bịn vườn của nó bao nhiêu, tiêu hết cả. Nó vợ con chưa
có. Ngộ nó khơng lấy gì lo được, lại bán vườn thì sao?... Tơi cắn rơm, cắn cỏ tơi
lạy ơng giáo! Ơng giáo có nghĩ cái tình tơi già nua tuổi tác mà thương thì ơng
giáo cứ cho tơi gửi.
Thấy lão nằn nì mãi, tơi đành nhận vậy. Lúc lão ra về, tơi cịn hỏi:
- Có đồng nào, cụ nhặt nhạnh đưa cho tơi cả thì cụ lấy gì mà ăn?
Lão cười nhạt bảo:
- Được ạ! Tôi đã liệu đâu vào đấy... Thế nào rồi cũng xong.
Luôn mấy hôm, tơi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ
đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món ấy. Hơm thì lão ăn củ chuối, hơm thì lão
ăn sung luộc, hơm thì ăn rau má, với thỉnh thoảng một vài củ ráy, hay bữa trai,
bữa ốc. Tơi nói chuyện lão với vợ tơi. Thị gạt phắt đi:
- Cho lão chết! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ! Lão làm lão khổ chứ ai làm lão

khổ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp lão? Chính con mình cũng đói...
Chao ơi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta khơng cố tìm mà hiểu họ, thì ta
chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta
tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương: không bao giờ
ta thương... Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc
nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi
người ta khổ quá thì người ta chẳng cịn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt
của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất. Tơi biết vậy, nên
tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm
ngầm lão Hạc. Nhưng hình như lão cũng biết vợ tơi khơng ưng giúp lão. Lão từ
chối tất cả những cái gì tơi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là hách dịch.
Và lão cứ xa tôi dần dần...
Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những người nghèo
nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dễ tủi thân nên rất hay chạnh lịng. Ta khó
mà ở cho vừa ý họ... Một hôm, tôi phàn nàn về việc ấy với binh Tư. Binh Tư là
một người láng giềng khác của tôi: Hắn làm nghề ăn trộm nên vốn khơng ưa lão
Hạc bởi vì lão lương thiện q. Hắn bĩu môi và bảo:
- Lão làm bộ đây! Thật ra thì lão chỉ tâm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả
vừa đâu. Lão vừa xin tơi một ít bả chó...


Tơi trố to đơi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm:
- Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà lão... Lão định cho nó xơi một
bữa. Nếu trúng, lão với tơi uống rượu.
Hỡi ơi lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng lão cũng có thể làm liều như ai hết. Một người
như thế ấy!... Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!... Một người nhịn ăn để
tiền lại làm ma, bởi không muốn liên lụy đến hàng xóm, láng giềng... Con người
đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ một
ngày một thêm đáng buồn...
*

**
Không! Cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn
theo một nghĩa khác. Tôi ở nhà binh Tư về được một lúc lâu thì thấy những tiếng
nhốn nháo ở bên nhà lão Hạc. Tôi mải mốt chạy sang. Mấy người hàng xóm đến
trước tơi đang xơn xao ở trong nhà. Tôi xồng xộc chạy vào. Lão Hạc đang vật vã
ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru
tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai
người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng
hồ rồi mới chết. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau
đớn và bất thình lình như vậy. Chỉ có tơi với binh Tư hiểu. Nhưng nói ra làm gì
nữa! Lão Hạc ơi! Lão hãy n lịng mà nhắm mắt! Lão đừng lo gì cho cái vườn
của lão. Tơi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn
và bảo hắn: “Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn
vẹn: cụ thà chết chứ không chịu bán đi một sào...”.
I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Nam Cao (1915/1917 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri.
- Quê ông ở Lý Nhân, Hà Nam.
- Ơng sinh ra trong một gia đình cơng giáo bậc trung.
- Thuở nhỏ ông học ở trường làng, sau đó được gửi xuống Nam Định học.
- Sau đó do thể chất yếu nên ông về nhà chữa bệnh rồi cưới vợ.
- Năm 18 tuổi ơng vào Sài Gịn nhận làm thư kí cho một hiệu may.


- Khi trở ra Bắc ông dạy học tại Hà Nội.
- Năm 1943 ơng gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.
- Năm 1945 ơng tham gia cướp chính quyền ở Lý Nhân và được cử làm chủ tịch
xã.
- Năm 1946 ông gia Hà Nội hoạt động Hội Văn hóa cứu quốc
- Năm 1948 ông gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam.

- Năm 1950 ông làm việc cho Hội Văn nghệ Việt Nam, tại tạp chí văn nghệ.
2. Sự nghiệp văn học
a. Quan điểm sáng tác
- Ông theo quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” ,“Nghệ thuật không nên là ánh
trăng lừa dối, không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau
khổ kia thốt ra từ những kiếp lầm than”
- Ông quan niệm: Tác phẩm “phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ,
vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng” và “Văn
chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi
và sáng tạo ra cái gì chưa có”.
b. Tác phẩm chính
Ơng để lại khối lượng tác phẩm lớn với nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết,
kịch, truyện ký như các tác phẩm: “Sống mòn”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “ Giăng
sáng”, “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “Đôi mắt”, ...
c. Phong cách nghệ thuật
- Đề cao con người tư tưởng: Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn
hứng thú khám phá “con người trong con người”.
- Đi sâu khám phá nội tâm nhân vật
- Thường viết về những cái nhỏ nhặt nhưng lại mang ý nghĩa triết lý sâu sắc
- Ơng có phong cách triết lý trữ tình sắc lạnh.


3. Vị trí và tầm ảnh hưởng
- Là nhà văn lớn, một cây bút xuất sắc của nền văn học hiện đại.
- Là nhà văn hiện thực nhân đạo xuất sắc của thế kỉ XX. Nam Cao đã đưa chủ
nghĩa hiện thực lên một bước đột phá: chủ nghĩa hiện thực tâm lí.
- Ơng nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996.
II. Tác phẩm
1.Hoàn cảnh sáng tác




Lão Hạc là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao.
Truyện được đăng báo lần đầu năm 1943.

2. Tóm tắt
Lão Hạc là một người nơng dân nghèo khổ sống. Lão có một đứa con trai nhưng
vì nhà nghèo, khơng có tiền lấy vợ nên bỏ đi đồn điền cao su. Cả gia tài của lão
chỉ có mảnh vườn vốn là của hồi môn của con trai và con chó Vàng sống cùng để
bầu bạn. Sau trận ốm thập tử nhất sinh, nhà lão khơng cịn gì để ăn. Lão đành phải
bán con Vàng đi. Số tiền bán chó và bán mảnh vườn, lão đem gửi ơng giáo và nhờ
khi nào anh con trai về sẽ trao lại cho anh. Cịn bản thân thì đến xin Binh Tư một
ít bả chó, nói dối là để đánh bả con chó nhưng thực ra là để tự tử.
3. Giá trị nội dung và nghệ thuật:
a. Giá trị nội dung
Thể hiện số phận đau thương của người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất
cao quý, tiềm tàng của họ. Đồng thời, truyện còn cho thấy tấm lòng yêu thương,
trân trọng đối với người nông dân.
b. Giá trị nghệ thuật
- Sử dụng ngôi kể thứ nhất, người kể là nhân vật hiểu, chứng kiến toàn bộ câu
chuyện và cảm thơng với nhân vật chính.
- Nghệ thuật phân tích tâm lí già dặn, kể chuyện chân thực, màu sắc trữ tình đan
xen triết lí sâu sắc.
- Xây dựng được nhân vật có tính cá thể hóa cao.


III. Đọc – hiểu văn bản
1. Câu chuyện Lão Hạc bán chó và sự day dứt của lão
* Hồn cảnh của lão Hạc:

- Một ông nông dân già yếu, không nơi nương tựa: sống một mình, tự kiếm ăn
ni thân, con trai bỏ đi đồn điền cao su.
- Sau một trận ốm, trong nhà khơng cịn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng –
kỉ vật mà anh con trai để lại, không chỉ là một con vật mà cịn giống như một người
bạn.
=> Hồn cảnh vơ cùng khó khăn, khổ cực.
* Diễn biến tâm trạng của Lão Hạc xoay quanh việc bán cậu Vàng:
- Tình cảm đối với cậu Vàng:





Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó
cùng ăn.
Khi rảnh rỗi cịn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận.
Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như
người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà.
Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp.

=> Đối xử giống như với một con người.
- Quyết định bán cậu Vàng: vơ cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định
một việc trọng đại trong đời.
- Diễn biến tâm trạng sau khi bán chó: Sáng hôm sau, lão Hạc sang nhà ông giáo
kể lại toàn bộ sự việc.


Cố làm ra vẻ vui mừng: “Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ”, nhưng thực ra
lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậc nước.











“Mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước
mắt chảy ra”
Lão hu hu khóc…
Tự trách bản thân mình đã già rồi cịn đi lừa một con chó: “Khốn nạn... Ơng
giáo ơi!... như thế này à?”
Chua chát bảo với ông giáo: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta phải hóa kiếp
cho nó…”
Lão cười và ho sịng sọc, Lão nói xong lại cười đưa đà… Nụ cười dường
như để nén đi nỗi đau đơn khi mất đi “người bạn” duy nhất.

=> Nam Cao đã khắc họa chân thực nỗi đau khổ, day dứt của Lão Hạc sau khi bán
cậu Vàng.

2. Cái chết đầy bất ngờ của Lão Hạc
- Hoàn cảnh: Lão nhờ cậy ông giáo hai việc.



Trong nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó.
Mang hết tiền dành dụm được nhờ ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ
ơng giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình.


=> Chuẩn bị trước cho cái chết của bản thân.
- Diễn biến:




Lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay
đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống
rượu.
Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử.

- Nguyên nhân: Ý thức sâu sắc, rõ ràng hoàn cảnh cùng đường, khơng có lối thốt
của mình.


- Mục đích: Bảo tồn tài sản cho con và khơng muốn phiền hà đến bà con hàng
xóm.
- Vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, mắt long sòng sọc, lão
tru tréo, bọt mép sùi ra.... người lão chốc chốc lại giật mạnh....vật vã đến hai giờ
đồng hồ mới chết
⇒ Sử dụng dày đặc và liên tiếp các từ tượng hình, tượng thanh ⇒ Làm nổi bật
cái chết dữ dội, thê thảm đầy bất ngờ của lão Hạc
⇒ Là người có ý thức cao về lẽ sống, trọng danh dự làm người hơn cả sự sống;
một người cha hết lịng thương con, một người nơng dân trung thực, thật thà,
giàu lòng tự trọng.
Phần thêm:
2. Nhân vật ông giáo
- Có cùng nỗi khổ của sự nghèo túng; có cùng nỗi đau phải bán đi những thứ mà
mình u q nhât

- Thơng cảm, thương xót cho hồn cảnh của lão Hạc, tìm mọi cách an ủi, giúp đỡ
lão.
- Ơng là người hiểu đời hiểu người, có tấm lịng vị tha cao cả
⇒ Ơng giáo là người trí thức chân chính, trọng nhân cách, khơng mất đi lịng tin
vào những điều tốt đẹp ở con người.

-------------------------------------------------------------------------------------------------

NHỚ RỪNG
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm,


Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thuở tung hồnh hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hồng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả mn lồi,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ơi! Thời oanh liệt nay cịn đâu?
Nay ta ơm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dịng
Len dưới nách những mơ gị thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, khơng bí hiểm,
Cũng học địi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị.
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta khơng cịn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,


Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!


I.Tác giả
1. Tiểu sử
- Thế Lữ (1907- 1989), tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ.
- Quê quán: Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội).
- Ông là nhà thơ tiêu biểu trong thơ mới hiện đại (1932 - 1945).
2. Sự nghiệp
- Ngồi viết thơ, Thế Lữ cịn viết truyện với nhiều thể loại như trinh thám, truyện
kinh dị...
- Ông cũng hoạt động trên lĩnh vực sân khấu, có cơng trong xây dựng ngành kịch
nói ở nước ta.
- Được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm
2000.
- Tác phẩm tiêu biểu: Bên đường Thiên lôi, Mấy vần thơ…
- Phong cách sáng tác: Thơ ơng dồi dào, đầy lãng mạn, qua đó thể hiện những ẩn
ý sâu sắc vô cùng.
2. Phong cách sáng tác: Thơ ông dồi dào, đầy lãng mạn, qua đó thể hiện những
ẩn ý sâu sắc vơ cùng.
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ
- Nhớ rừng là một bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm góp phần mở
đường cho sự thắng lợi của thơ mới.
2. Bố cục
- Đoạn 1 + 4: Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú
- Đoạn 2 + 3: Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ


- Đoạn 5: Niềm khát khao tự do mãnh liệt
3. Giá trị nội dung và nghệ thuật
a. Nội dung

- Bài thơ mượn lời con hổ nhớ rừng để thể hiện sự u uất của lớp những người
thanh niên trí thức yêu nước, đồng thời thức tỉnh ý thức cá nhân. Hình tượng con
hổ cảm thấy bất hịa sâu sắc với cảnh ngột ngạt tù túng, khao khát tự do cũng
đồng thời là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước bấy giờ.
b. Nghệ thuật
- Hình ảnh mang tính chất biểu tượng, giàu chất tạo hình
- Ngơn ngữ và nhạc điệu phong phú, giàu tính biểu cảm.

III. Đọc - hiểu văn bản
1. (Đoạn 1+4): Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú
a. Đoạn 1
- Hoàn cảnh bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một thứ đồ chơi
- Tâm trạng căm hờn, phẫn uất tạo thành một khối âm thầm nhưng dữ dội như
muốn nghiền nát, nghiền tan
- “Ta nằm dài” – cách xưng hô đầy kiêu hãnh của vị chúa tể ⇒ Sự ngao ngán
cảnh tượng cứ chầm chậm trôi, nằm buông xuôi bất lực
- “Khinh lũ người kia”: Sự khinh thường, thương lại cho những kẻ (Gấu, báo)
tầm thường nhỏ bé, dở hơi, vô tư trong môi trường tù túng
⇒ Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, giọng thơ u uất diễn tả tâm trạng căm hờn, uất ức,
ngao ngán
⇒ Tâm trạng của con hổ cũng giống tâm trạng của người dân mất nước, Căm
hờn và phẫn uất trong cảnh đời tối tăm.
b. Đoạn 4
- Cảnh tượng vẫn không thay đổi, đơn điệu, nhàm chán do bàn tay con người sửa
sang ⇒ tầm thường giả dối


⇒ Cảnh tù túng đáng chán, đáng ghét
⇒ Cảnh vườn bách thú là thực tại của xã hội đương thời, thái độ của con hổ
chính là thái độ cú người dân đối với xã hội đó

2. (Đoạn 2+3): Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ
a. Đoạn 2
- Cảnh núi rừng đầy hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ nghiêm thâm
- Những tiếng “gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi” ⇒ Sự hoang dã của chốn
thảo hoa không tên không tuổi
⇒ Những từ ngữ được chọn lọc tinh tế nhằm diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn
lao mạnh mẽ, bí ẩn thiếng liêng
- Bước chân dõng dạc đường hoàng ⇒ vẻ oai phong đầy sức sống
⇒ Vẻ oai phong của con hổ khiến tất cả đều phải im hơi, diễn tả vẻ uy nghi,
dũng mãnh vừa mềm mại vừa uyển chuyển của vị chúa sơn lâm
b. Đoạn 3
- “Nào đâu ... ánh trăng tan”⇒ Cảnh đẹp diễm lệ khi con hổ đứng uống ánh trăng
thật lãng mạn
- “Đâu những ngày ...ta đổi mới” ⇒ Cảnh mưa rung chuyển đại ngàn, hổ lãng
mạn ngắm giang sơn đổi mới.
- “Đâu những bình minh...tưng bừng”⇒ cảnh chan hịa ánh sáng, rộn rã tiếng
chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.
- Cảnh tượng cuối cùng cho thấy hổ là lồi mãnh thú đợi màn đêm bng xuống
nó sẽ là chúa tể mn lồi
⇒ Một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy, cho thấy những cảnh thiên nhiên hoang
vắng đẹp rợn ngợp và con hổ với tư thế và tầm vóc uy nghi, hồnh tráng
3. (Đoạn 5): Niềm khao khát tự do mãnh liệt
- Sử dụng câu cảm thán liên tiếp⇒ lời kêu gọi thiết tha ⇒ khát vọng tự do mãnh
liệt nhưng bất lực
⇒ Nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt


⇒ Tâm sự của con hổ chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang
sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ những năm tháng tự do oanh liệt với những
chiến thắng vẻ vang trong lịch sử.

-------------------------------------------------------------------------------------------------

ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn khơng thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
Ơng đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngồi trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Khơng thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
I.Tác giả
. Tiểu sử
- Vũ Đình Liên (1913 - 1996).


- Quê quán: Quê gốc là ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội.
- Là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới.

2. Sự nghiệp
- Ngồi sáng tác thơ, ơng cịn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học.
- Tác phẩm tiêu biểu: Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc…
‘’ Phong cách sáng tác: Thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ,
hoài vọng.
II. Tác phẩm
1 . Hoàn cảnh sáng tác
Từ đầu thế kỉ XX, nền văn Hán học và chữ Nho ngày càng suy vi trong đời sống
văn hóa Việt Nam, khi mà Tây học du nhập vào Việt Nam, có lẽ vì đó mà hình
ảnh những ơng đồ đã bị xã hội bỏ quên và dần vắng bóng. Vũ Đình Liên đã viết
bài thơ Ơng đồ thể hiện niềm ngậm ngùi, day dứt về cảnh cũ, người xưa.
2. Bố cục
Chia làm 3 phần:
- Phần 1 (Hai khổ thơ đầu): Hình ảnh ơng đồ thời Nho học cịn thịnh hành, thịnh
thế.
- Phần 2 (Hai khổ tiếp theo): Hình ảnh ông đồ khi Nho học suy vi (lụi tàn).
- Phần 3 (Cịn lại): Tâm tư thầm kín, niềm tiếc thương tác giả gửi gắm.
3. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
a. Giá trị nội dung
- Tác phẩm khắc họa thành cơng hình cảnh đáng thương của ơng đồ thời vắng
bóng, đồng thời gửi gắm niềm thương cảm chân thành của nhà thơ trước một lớp
người dần đi vào quá khứ, khới gợi được niềm xúc động tự vấn của nhiều độc
giả.
b. Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn gồm nhiều khổ.
- Kết cấu đối lập đầu cuối tương ứng, chặt chẽ.


- Ngơn từ trong sáng bình dị, truyền cảm.
II. Đọc - hiểu văn bản

1. Hình ảnh ơng đồ trong q khứ
- Thời gian: Mùa xuân với hoa đào nở.
- Hành động: Bày mực tàu, giấy đỏ – công cụ chủ yếu của các nhà nho
- Địa điểm: Bên phố đông người ⇒ Sự đông vui, náo nhiệt lúc xuân về.
⇒ Hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi dịp tết đến xuân về thưở xưa.
- “Bao nhiêu người thuê viết”, “Tấm tắc khen ngợi tài”: Sự thịnh thế của Hán
học, các nhà Nho khẳng định vị trí của mình trong lịng người, đó là những con
người được ngưỡng mộ vì tài năng, học vấn.
⇒ Góp phần khơng nhỏ trong việc gợi khơng khí náo nhiệt truyền thống, nét văn
hóa khơng thể bỏ qua của mùa xuân trong tâm thức cổ truyền của dân tộc.
⇒ Nhịp thơ nhanh: Giữa khơng khí náo nức, ông đồ như một người nghệ sĩ,
mang hết tài năng của mình hiến cho cuộc đời.
=> Một thời q khứ vàng son.
2. Hình ảnh ơng đồ trong hiện tại
- -Nhưng mỗi năm mỗi vắng: từ nhưng tạo bước ngoặt trong cảm xúc người
đọc, sự suy vi ngày càng rõ nét, người ta có thể cảm nhận một cách rõ ràng, day
dứt nhất.
- Câu hỏi tu từ: “Người thuê viết nay đâu?” là câu hỏi thời thế, câu hỏi tự vấn
bộc lộ tâm trạng buồn bã, nuối tiếc.
- Hình ảnh nhân hóa “giấy đỏ buồn khơng thắm”, “mực đọng trong nghiên
sầu”: giấy bẽ bàng sầu tủi, mực buồn đọng trong nghiên hay chính tâm tình của
người nghệ sĩ buồn đọng, khơng thể tan biến
- Hình ảnh “lá vàng rơi trên giấy”, “ngồi đường mưa bụi bay”: Tả cảnh ngụ
tình – nỗi lịng của ơng đồ. Đây là hai câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Lá vàng
rơi gợi sự cô đơn, tàn tạ, buồn bã, mưa bụi bay gợi sự ảm đạm, lạnh lẽo ⇒ Tâm
trạng con người u buồn, cơ đơn, tủi phận.
3. Nỗi xót xa của nhà thơ trước hồn cảnh của ơng đồ



×