Lời nói đầu
Trong lch s kinh t nhõn loi, dt may là ngành khởi đầu cho việc phát
triển các ngành công nghiệp trên thế giới. Đây là ngành kinh tế có thị trường tiêu
thụ rộng lớn, sử dụng nhiều lao động, cơng nghệ đơn giản, rất thích hợp cho buổi
đầu phát triển kinh tế. Việt Nam là nước có xuất phát điểm thấp, trình độ lạc hậu,
vì thế Đảng và Nhà nước đã xác định dệt may là ngành mũi nhọn trong giai đoạn
đầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá. Từ khi đất nước ta mở cửa đến
nay, xuất khẩu dệt may là một trong những nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của quốc
gia, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm,
nâng cao đời sống nhân dân. Vì vậy, thúc đẩy xuất khẩu dệt may là nhiệm vụ
chiến lược nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo nền kinh tế phát triển hiệu
quả, bền vững.
Trong bối cảnh hiện nay, xu hướng tự do hoá thương mại đang diễn ra mạnh mẽ
trong từng khu vực và trên thế giới. Hịa cùng xu thế đó, Việt Nam ngày càng tham gia
tích cực vào các tổ chức quốc tế, mở rộng các mối quan hệ song phương. Một trong
những đối tác quan trọng của Việt Nam phải kể đến đó là EU. Với dân số đông, thu
nhập cao, thị trường EU đang là thị trường tiêu thụ hàng hố nói chung và hàng dệt
may nói riêng đứng thứ hai thế giới. Bên cạnh thị trường Mỹ đầy tiềm năng và nhiều
hứa hẹn thì EU vẫn là thị trường dệt may truyền thống, giữ vị trí chiến lược hàng đầu.
Đây là mơt thị trường có nhu cầu phong phú và đa dạng song cũng rất “khó tính”. Các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam cho đến nay vẫn chỉ chiếm một vị trí khiêm tốn so với
các nước xuất khẩu dệt may khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan…Một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
cịn thấp. Từ 1/1/2005, WTO chính thức bãi bỏ hạn ngạch dệt may giữa các nước thành
viên. Mặc dù chưa gia nhập WTO nhưng EU vẫn dành ưu đãi trên cho Việt Nam. Đây
là cơ hội to lớn song đồng thời là thách thức không nhỏ cho dệt may Việt Nam trong
việc khẳng định chỗ đứng trên thị trường EU. Theo quan điểm thị trường, Việt Nam
muốn hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì một yếu tố quan
trọng là phải đưa ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh hay có lợi thế so sánh
với các sản phẩm cùng loại của các nước khác.
1
Với những nét đặc thù về kinh tế, con ngời và môi trờng kinh doanh của EU
đà và đang đặt ra nhiều những thách thức cũng nh cơ hội đối víi hµng hãa cđa
ViƯt nam nãi chung vµ hµng thđ dệt may của VINATEX nói riêng khi quyết định
xâm nhập vào thị trờng EU. Do đó tôi chọn công ty VINATEX làm đề tài đề án
môn học, bài viết này sẽ làm cho chúng ta hiểu rõ hơn về môi trờng kinh tế EU
và đa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xuất khẩu hàng hóa Việt nam
vào thị trờng EU. Trong quá trình hoàn thành Đề án này chắc chắn không tránh
khỏi thiếu sót do trình độ hạn chế, tôi mong có đợc sự góp ý nhiệt tình từ phía
Thầy cô và bạn bè để tôi có thể làm tốt hơn cho những bài viết sau.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn đà hớng dẫn giúp
đỡ em hoàn thành đề án nµy .
2
Chơng I:
phân tích môI trờng kinh tế eu tác động đến quyết
định thâm nhập thị trờng eu của vinatex
1.1.
Môi trờng kinh tế eu và những điểm cơ bản tác
động đến quá trình thâm nhập của vinatex
1.1.1 Dung lng th trng.
EU có nền thương mại lớn thứ hai thế giới, sau Hoa Kỳ, là thị trường xuất
khẩu lớn nhất và thị trường nhập khẩu lớn thứ hai. Hàng năm, EU nhập khẩu
một khối lượng hàng hoá từ khắp các nước trên thế giới. Kim ngạch nhập khẩu
không ngừng được gia tăng từ 622,48 tỷ USD năm 1994 lên 2.298 tỷ năm 2000.
Cơ cấu nhập khẩu của EU: Sản phẩm thô chiếm 29,74% tổng kim ngạch nhập
khẩu hàng năm, sản phẩm chế tạo chiếm trên 67,19%, các sản phẩm khác chiếm
gần 3,07%. Các thị trường nhập khẩu chính của EU là Hoa Kỳ, Nhật, Trung
Quốc, khối NAFTA (Hiệp định tự do mậu dịch Bắc Mỹ), ASEAN, OPEC (tổ
chức các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ). EU cũng nhập nhiều loại mặt hàng dệt
may, khống sản, thuỷ sản, giầy dép, nơng sản, đồ gốm, đồ gia dụng, cà phê,
chè, gia vị. Đây cũng là thế mạnh của xuất khẩu Việt Nam và là những mặt hàng
thị trường EU ưa chuộng.
Từ năm 1990 đến nay, EU tích cực “đẩy mạnh nhất thể hố” trên tất cả các
lĩnh vực từ kinh tế, tiền tệ, ngoại giao, an ninh đến nội chính và tư pháp. Các
quốc gia thành viên từng bước tập trung quyền lực quá độ tiến đến thành lập
Liên bang Châu Âu. Hiện nay số thành viên EU là 25, nhiệm vụ chính của giai
đoạn này là thực hiện nhất thể hoá xuyên quốc gia thay thế cho hợp tác thông
thường. Cho đến nay, sau nhiều lần nỗ lực của EU, quá trình nhất thể hoá Châu
Âu đã đạt đựơc kết quả rất khả quan cả về an ninh, chính trị, xã hội kinh tế và
thương mại.
1.1.2.Chính sách thương mại của EU
EU ngày nay được xem như là một quốc gia ở Châu Âu, chính sách thương
mại chung của EU cũng giống như chính sách thương mại của một quốc gia, bao
3
gồm chính sách nội thương và chính sách ngoại thương. Tất cả các nước thành
viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với những nước
ngồi khối. Uỷ ban Châu Âu là người đại diện duy nhất cho Liên minh trong
đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực
này. Để đảm bảo tính cạnh tranh cơng bằng trong thương mại, EU đã thực hiện
các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng giả.
EU đã ban hành chính sách chống bán phá giá và áp dụng thuế "chống xuất khẩu
dưới hình thức bán phá giá" để đấu tranh với những trở ngại trong buôn bán với
những nước ngoài khối. Ngoài ra, các biện pháp chống hàng giả của EU cho
phép ngăn chặn không cho nhập khẩu những hàng hoá được sản xuất do vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ.
Khơng chỉ ở việc áp dụng các biện pháp chống cạnh tranh khơng lành
mạnh, EU cịn sử dụng một số biện pháp để đẩy mạnh thương mại với các nước
đang phát triển và chậm phát triển. Đó là GSP, một cơng cụ quan trọng của EU
để hỗ trợ các nước nói trên. Bằng cách này, EU có thể làm cho nhóm các nước
đang phát triển (trong đó có Việt Nam) và nhóm các nước chậm phát triển dễ
dàng thâm nhập vào thị trường của mình. Nhóm nước chậm phát triển được
hưởng ưu đãi cao hơn các nước đang phát triển. Hệ thống GSP của EU bao gồm
4 nhóm sản phẩm của các nước đang phát triển được hưởng thuế ưu đãi phổ cập
của EU, đó là các sản phẩm rất nhạy cảm, sản phẩm nhạy cảm, sản phẩm bán
nhạy cảm và sản phẩm không nhạy cảm. Hàng của các nước đang và chậm phát
triển khi nhập khẩu vào thị trường EU, muốn được hưởng GSP thì phải tuân thủ
các quy định của EU về xuất xứ hàng hóa và phải xuất trình giấy chứng nhận
xuất xứ mẫu A do cơ quan có thẩm quyền của các nước được hưởng GSP cấp.
Hiện nay EU đã và đang có xu hướng tăng cường mở rộng sang châu Á,
châu lục có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của EU. Theo chiều
hướng này, Việt Nam ngày càng có vị thế quan trọng trong chiến lược mới của
EU, EU từng bước đẩy mạnh quan hệ hợp tác phát triển thương mại với Việt
Nam trên tất cả các lĩnh vực. Tháng 5/2004 EU đã công nhận Việt Nam áp dụng
cơ chế kinh tế thị trường, cho phép đưa hàng Việt Nam lên ngang hàng với các
4
nước kinh tế thị trường trong việc điều tra và thi hành các biện pháp chống phá
giá. Tuy nhiên, các nước châu Á cũng đang đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường
EU, nhất là Thái Lan, Trung Quốc, Srilanka… các mặt hàng của họ cũng giống
của Việt Nam nhưng chất lượng tốt hơn ta, giá cả cạnh tranh hơn và lại có nhiều
lợi thế như: Hạn ngạch lớn, chậm phát triển, là các nước thành viên WTO. Do
đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải tạo ra lợi thế cạnh tranh hơn so với các đối
thủ khác. Muốn vậy, chất lượng sản phẩm phải được liên tục cải thiện, mẫu mã
và kiểu dáng phải thường xuyên được đổi mới, giá rẻ và phương thức dịch vụ tốt
hơn.
1.1.3. Tập quán và thị hiếu tiêu dùng.
EU gồm 25 thị trường quốc gia, mỗi thị trường lại có đặc điểm tiêu dùng
riêng. Do vậy, có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong
phú về hàng hố. Có những loại hàng hoá rất được ưu chuộng ở thị trường Pháp,
Italia, Bỉ, nhưng lại không được người tiêu dùng Anh, Ailen, Đan Mạch và Đức
chào đón. Tuy có những khác biệt nhất định nhất định về tập quán và thị hiếu
tiêu dùng giữa các thị trường quốc gia trong khối EU, nhưng 25 nước thành viên
đều là những quốc gia nằm ở khu vực Tây và Bắc Âu và Đông Âu nên có những
đặc điểm tương đồng về kinh tế và văn hố. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội
của các nước thành viên khá đồng đều, cho nên người dân thuộc khối EU có
những đặc điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng. Người tiêu dùng EU
thích sử dụng và quen tiêu dùng một số loại hàng hoá sau:
- Hàng may mặc và giầy dép: Người dân Áo, Đức và Hà Lan chỉ mua hàng
may mặc và giầy dép khơng chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ. Khách hàng
EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của 2 loại sản phẩm này.
Nhiều khi yếu tố thời trang lại có tính quyết định cao hơn nhiều so với giá cả.
Đối với 2 loại mặt hàng này nhu cầu thay đổi nhanh chóng, đặc biệt về mẫu mốt.
- Hàng thuỷ hải sản: Người tiêu dùng EU không mua những sản phẩm thủy
hải sản nhập khẩu bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do chất phụ
gia không được phép sử dụng. Đối với các sản phẩm thuỷ hải sản đã qua chế
biến, họ chỉ dùng những sản phẩm đóng gói có ghi rõ tên sản phẩm, nơi sản
5
xuất, các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch. Người châu Âu
ngày càng ăn nhiều thuỷ hải sản vì họ cho rằng sẽ giảm được béo mà vẫn khoẻ
mạnh.
Người tiêu dùng EU có sở thích và thói quen sử dụng những sản phẩm có
nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng những nhãn hiệu này gắn liền với
chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời cho nên dùng những sản phẩm có nhãn
hiệu nổi tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Đặc
biệt đối với những sản phẩm của những nhà sản xuất không có danh tiếng hay
nói cách khác những sản phẩm có nhãn hiệu ít người biết đến thì rất khó tiêu thụ
trên thị trường. Người tiêu dùng EU rất sợ mua những sản phẩm như vậy, vì họ
cho rằng sản phẩm của các nhà sản xuất không co danh tiếng sẽ không đảm bảo
về chất lượng, vệ sinh sản phẩm và an tồn cho người sử dụng, do đó khơng an
tồn đối với sức khoẻ và cuộc sống của họ.
Thị trường EU về cơ bản cũng giống như một thị trường quốc gia, do vậy
có 3 nhóm người tiêu dùng khác nhau: (1) Nhóm có khả năng thanh tốn ở mức
cao, chiếm gần 20% dân số của EU, dùng hàng có chất lượng tốt nhất và giá cả
cũng đắt nhất hoặc những mặt hàng hiếm và độc đáo; (2) Nhóm có khả năng
thanh tốn ở mức trung bình, chiếm 68% dân số EU, sử dụng chủng loại hàng có
chất lượng kém hơn một chút và giá cả cũng rẻ hơn; (3)Nhóm có khả năng thanh
tốn ở mức thấp nhất, chiếm hơn 10% dân số, tiêu dùng những mặt hàng có chất
lượng và giá đều thấp hơn so với hàng của nhóm (2).
Những điểm khác biệt về văn hóa giữa các nước thành viên mà chũng ta có
thể nhận thấy là thị trường EU chỉ thống nhất về mặt kỹ thuật, còn trong thực tế
là nhóm thị trường quốc gia và khu vực, mỗi nước đều có những bản sắc về dân
tộc và văn hoá riêng mà các nhà xuất khẩu tại các nước đang phát triển chưa
hiểu biết hết được. Mỗi thành viên tạo ra cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
các cơ hội khác nhau và yêu cầu cụ thể của họ cũng khác nhau.
1.1.4. Kênh phân phối.
Hệ thống phân phối EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của
một quốc gia gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào hệ
6
thống phân phối này là các công ty xuyên quốc gia, hệ thống các của hàng, siêu
thị, các công ty bán lẻ độc lập…
Các công ty xuyên quốc gia EU thường phát triển theo mơ hình gồm: ngân
hàng hoặc cơng ty tài chính, nhà máy, cơng ty thương mại, siêu thị, cửa hàng…
Các công ty xuyên quốc gia tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng của mình rất chặt
chẽ với các nhà thầu để đảm bảo để cung cấp hàng ổn định và giữ uy tín với
mạng lưới bán lẻ.
Hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU
là theo tập đồn và khơng theo tập đồn. Kênh phân phối theo tập đồn có nghĩa
là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của một tập đồn chỉ cung cấp hàng hố
cho hệ thống các cửa hàng và siêu thị của tập đoàn này mà không cung cấp hàng
cho hệ thống bán lẻ của tập đồn khác. Cịn kênh phân phối khơng theo tập đồn
thì ngược lại, các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của tập đồn này ngồi việc
cung cấp hàng hố cho hệ thống bán lẻ của tập đồn mình mà cịn cung cấp hàng
hố cho hệ thống bán lẻ của tập đồn khác và các cơng ty bán lẻ độc lập.
Hệ thống phân phối của EU đã hình thành lên một tổ hợp rất chặt chẽ và có
nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối không phải là việc dễ đối
với các nhà nhập khẩu Việt Nam hiện nay. Các doanh nghiệp xuất khẩu của ta
hiện nay muốn tiếp cận các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường EU thì phải
tiếp cận được các nhà nhập khẩu EU. Có thể tiếp cận các nhà nhập khẩu EU
bằng 2 cách: Thứ nhất, tìm các nhà nhập khẩu EU để xuất khẩu trực tiếp (doanh
nghiệp có thể tìm các nhà nhập khẩu này qua các thương vụ của Việt Nam tại
EU, phái đoàn EC tại Hà Nội, các đại sứ quán của các nước EU tại Việt Nam);
Thứ hai, những doanh nghiệp Việt Nam có tiềm lực kinh tế nên thành lập liên
doanh với các công ty xuyên quốc gia EU để trở thành công ty con.
7
CHƯƠNG II
công ty vinatex thâm nhập thị trờng eu
2.1.Khái quát chung về công ty vinatex hiện nay:
Tên chính thức của công ty may Vinatex là Tổng công ty dệt may Việt Nam
và tên để giao dịch nớc ngoài là Vietnam national textile & garment corporation .
Vinatex là tên viết tắt của công ty để tiện giao dịch trên thị trờng. Chủ tịch tập
đoàn dệt may Việt Nam hiện nay là ông Lê Quốc Ân. Hiện Công ty có hai trụ sở
tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
Website: www.vinatex.com
Văn phòng Hà Nội :
ia ch : 25 B Triu, Q. Hoàn Kiếm ., Hà Nội, Việt Nam
Tel: 84-4-8265897 / 8257700 Fax: 84-4-8262269
E-mail:
Văn phịng tại TP Hồ Chí Minh :
Địa chỉ: 10 Nguyễn Huệ, TP Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tel: 84-8-8297352 / 8291452 Fax: 84-8-8292349
E-mail:
Lịch sử hình thành cơng ty
Tổng công ty dệt may Việt Nam (Vinatex) được thành lập theo quyết định
253/Ttg ngày 29/4/1995 của Thủ tướng chính phủ với vốn chủ sở hữu là
2.298,943 tỷ đồng (31/12/2004), có khoảng 105.000 lao động ( chiếm 10% tồn
ngành ) và 57 đơn vị thành viên. Trong đó có 23 doanh nghiệp nhà nước, 19
công ty cổ phần, 7 đơn vị sự nghiệp, 8 doanh nghiệp phụ thuộc ngoài ra tổng
cơng ty cịn trực tiếp đầu tư, góp vốn liên doanh liên kết tại trên 18 công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh
trong và ngoài nước.
8
Vinatex có nhiều ngành nghề kinh doanh từ nguyên liệu, vật tư, thiết bị,
phụ tùng, phụ tùng hoá chất, thuốc nhuộm, các sản phẩm cuối cùng của dệt
may…Vinatex được xem là nòng cốt của ngành dệt may cả nước, giúp nhà nước
hoạch định chính sách, cơ chế quản lý đối với ngành dệt may cả nước; tham gia
quy hoạch phân công, hợp tác sản xuất kinh doanh, thẩm định các dự án đầu tư
trong lĩnh vực dệt may.
Vào năm 2005, Vinatex đã và đang trong lộ trình hội nhập vào các tổ
chức kinh tế quốc tế, khu vực như WTO, APEC, AFTA … Tổng cơng ty đã có
quan hệ thương mại với trên 70 nước, thiết lập văn phòng đại diện tại New
York, tại Cộng hoà Liên bang Nga, tại Ba Lan, Vinatex Hong Kong tại Hong
Kong… và ngày càng khẳng định vị thế và uy tín của mình cả trong và ngồi
nước.
Ngày 9/6/2004 Thủ tướng Chính Phủ đã chính thức phê duyệt đề án xây
dựng Tổng công ty dệt may Việt Nam theo mơ hình tập đồn kinh tế. Đến ngày
1/12/2005 Vinatex chính thức chuyển đổi thành tập đồn dệt may lấy tên giao
dịch quốc tế là VINATEX ( Viet Nam National Textile And Garment
corporation Co.) - chuyển hẳn từ quan hệ hành chính sang quan hệ kinh doanh
giữa cơng ty mẹ tập đồn với các cơng ty con theo nguyên tắc tự nguyện và
cùng phát triển.
Mục tiêu của cơng ty là tiến hành xây dựng tập đồn hàng đầu Việt Nam
trong lĩnh vực dệt may, kinh doanh đa ngành trong đó kinh doanh hàng dệt may
ra thị trường thế giới. Trong đó khách hàng mà cơng ty hướng tới là toàn bộ thị
trường tiêu dùng Việt Nam, các khách hàng quốc tế ở các nước mà công ty đã
đặt và mở văn phòng đại diện và một số thị trường tiêu dùng hàng hố thời trang
mà cơng ty đang hướng tới.
Thị trường xuất khẩu của Vinatex
Tổng công ty đang mở rộng mạng lưới phân phối của mình sang thị
trường quốc tế thơng qua việc đặt các văn phịng đại diện của mình tại các nước
như: Mỹ, CHLB Đức, Hong Kong, Balan, Nga, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia,
9
Bangladesh, Pakistan… Thơng qua đó đã xuất khẩu sản phẩm của Tổng công ty
sang các nước ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Úc…
Kim ngạch xuất khẩu đạt gần 1,14 tỷ USD, chiếm khoảng 24% xuất khẩu
toàn ngành. Trong đó xuất khẩu một số nguyên liệu phục vụ cho dệt may được
coi là chủ đạo bao gồm các sản phẩm như: Bông, Sợi, các loại len, thảm…
Trong đó sản xuất các loại sản phẩm may mặc đồng bộ được coi là mang lại giá
trị cao cho Tổng công ty đặc biệt là đối với thị trường Mỹ và EU.
Tuy nhiên hiện nay công ty đang ngày càng phải đối đầu với cạnh tranh
mạnh mẽ từ các nước Châu Á khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan… Vì vậy
Tổng cơng ty cũng đang ngày càng có nhiều biện pháp nhằm tăng thị trường của
mình tại nhiều thị trường mới như Đức, Úc…
Sản phẩm của Vinatex
Vinatex thực hiện sản xuất tất cả các sản phẩm phục vụ cho ngành dệt
may và ngày càng cố gắng nâng cao về chất lượng để đáp ứng và thoả mãn nhu
cầu của khách hàng trong nước và quốc tế. Trong đó các dịng sản phẩm chủ yếu
của công ty:
- Các sản phẩm dệt kim: chỉ may cơng nghiệp, vải, bao bì, thảm, quần áo
bảo hộ, các sản phẩm may mặc khác, các loại đồ dung nội thất ( khăn trải bàn,
thảm…).
- Bông: bông xơ, bông cotton…
- Các loại sợi: Tơ tằm, sợi đay, nilon…
- Vải lụa thành phẩm: vải tơ tằm, vải lụa, vải nilon, vải jacket, vải bò…
- Các sản phẩm may mặc: Suit, các loại quần áo thời trang trẻ, trang phục
trẻ em, đồ bảo hộ lao động, đồ Jean, cavat, blouse..
- Các sản phẩm cơ khí cơng nghiệp phục vụ dệt may khác: kim, các loại
cúc, máy móc cơng nghiệp…
- Các loại nguyên liệu cho ngành dệt may và các ngành khác : thuốc
nhuộm, bao, nẹp, hoá chất…
Lĩnh vực hoạt động
10
Trước năm 2005, Vinatex chưa thực hiện chuyển đổi, Tổng cơng ty cịn
tập trung cho xuất khẩu chủ yếu sản phẩm của ngành dệt may. Tuy nhiên, sau
khi thực hiện hình thức tổ chức Tập đồn, Vinatex chủ trương trở thành Tập
đồn kinh doanh đa ngành trong đó các ngành chính như :
- Cơng nghiệp dệt may: Sản xuất và chế biến các sản phẩm phục vụ cho
ngành may mặc
- Kinh doanh hạ tầng cơ sở khảo sát, thiết kế, tư vấn đầu tư, xây dựng các
cơng trình hạ tầng cơ sở, bất động sản, khu công nghiệp…
- Công nghiệp cơ khí: sửa chữa, chế tạo, lắp ráp phụ tùng thiết bị dệt may
và sản phẩm cơ khí khác.
- Hoạt động dịch vụ thương mại: Kinh doanh thương mai, XNK tổng hợp,
hợp tác lao động, dịch vụ giao nhận hàng, vận tải hang hoá..
- Hoạt động bán lẻ
- Hoạt động dịch vụ tư vấn: cung cấp các dịch vụ đào tạo nghiên cứu khoa
học, kiểm nghiệm chất lượng vật tư sn phm, chuyn giao cụng ngh
2.2. Quá trình thâm nhập thị trờng EU của công ty
Vinatex
2.2.1. Tỡm hiu v th trường EU
- Vinatex xác định EU là một thị trường đầy tiềm năng, bởi đây là một thị
trường có sức tiêu thụ lớn đối với hàng hoá tiêu dùng. Các con rồng Châu Á đã
phát triển nhanh nhờ vào việc chiếm lĩnh thị phần khá lớn tại thị trường này.
- EU là một trung tâm kinh tế mạnh, có vai trò rất lớn trong nền kinh tế và
thương mại thế giới. EU cũng là đơn vị giao dịch thống nhất lớn nhất thế giới,
chiếm khoảng 20% tổng kim nghạch xuất nhập khẩu hàng hóa tồn cầu. Vai trị
quan trọng của EU trong mậu dịch tồn cầu sẽ cịn lớn hơn với kế hoạch mở
rộng và phát triển trong 5-10 năm tới. Là một trong ba trung tâm kinh tế lớn nhất
trong nền kinh tế thế giới ( Hoa Kỳ, Nhật và EU) với GDP năm 1998 đạt 8.482
tỷ USD, chiếm 19.8% GDP toàn cầu, năm 2000 đạt 9.050 ( khoảng 20% toàn
cầu), và năm 2001 đạt 9.315 tỷ USD, đồng thời EU cũng là Trung tâm thương
mại Tài chính khổng lồ với đồng tiền EURO ngang hàng với đồng USD.
11
- Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các nước thành viên
khá đồng đều, cho nên người dân thuộc khối EU có những điểm chung về sở
thích và thói quen tiêu dùng. Đối với hàng may mặc và giày dép,khách hàng EU
đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của hai loại sản phẩm này. Nhiều
khi yếu tố thời trang có tính quyết định cao hơn nhiều so với giá cả. Đối với
nhóm hàng giày dép, người tiêu dùng EU có xu hướng đi giày vải. Xu hướng
này ngày càng tăng lên, tỉ lệ thuận với nhu cầu tiêu dùng giày dép tăng hàng
năm ở EU.
- Đặc biệt, người châu Âu có sở thích tiêu dùng và thói quen sử dụng
các loại sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng, những
nhãn hiệu này sẽ gắn với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên
khi dùng sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và
an toàn cho người sử dụng. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, mặc dù những
sản phẩm giá rất đắt nhưng họ vẫn mua và khơng thích chuyển sang dùng
những sản phẩm không nổi tiếng cho dù giá rẻ hơn nhiều.
2.2.2. Nguyên nhân thâm nhập thị trường EU ca Vinatex
Dệt may đang là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và
đà khẳng định đợc uy tín cũng nh vị trí và sự tin tởng và quan tâm của các đối tác
nớc ngoài.
Việc xây dựng và thành lập tổng công ty dệt may Việt Nam gọi tăt là
Vinatex. Với định hớng đợc Hội đồng quản trị Vinatex vạch ra Xây dựng
Vinatex trở thành tập đoàn dệt may hàng đầu cả về quy mô lẫn năng lực cạnh
tranh trong khu vực Đông Nam á vào năm 2010. Với kim ngạch xuất khẩu đạt đợc hơn 1.03 tỷ USD năm 2004 cho thấy Vinatex vẫn luôn là cánh chim đầu đàn
của ngành dệt may Việt Nam. Việc xây dựng một thơng hiệu mạnh là rất cần thiết
nhất là khi công ty quyết định thâm nhập và đầu t xuất khẩu vào các thị trờng lớn
là Mỹ, EU, Nhật Bản. Đặc biệt là thị trờng EU nơi ngời dân chọn mua sản phẩm
qua thơng hiệu sản phẩm. Và nếu Vinatex không để lại đợc tên thơng hiệu của
mình đối với khách hàng thị việc tồn tại của công ty ở thị trờng truyền thống nh
EU là rất khó khăn.
12
Theo những đánh giá mới đây của các tổ chức may quốc tế, EU vẫn là khu
vực đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc, chiếm 49% tổng giá trị nhập
khẩu hàng dệt may của toàn thế giới. Nhu cầu nhập khẩu hàng năm của EU vào
khoảng 110 tỷ USD hàng quần áo may sẵn và hàng dệt các loại, đem đến cơ hội
tuyệt vời cho các nớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam, mà cụ thể là Vinatex.
EU là thị trờng nhập khẩu hàng dệt may theo h¹n ng¹ch lín nhÊt cđa ViƯt
Nam víi tèc độ tăng trởng kim ngạch lên đến trên 23%/năm. Tuy nhiên, nếu nhìn
từ phía Eu, thì Việt Nam chỉ là nhµ xt khÈu lín thø 16 vµ chiÕm 0.5% kim ngạch
nhập khẩu hàng dệt may của EU.
Trong tơng lai, EU sẽ vẫn là thị trờng xuất khẩu chủ lực của hàng dệt may
Việt Nam ông Lê Văn Thắng Phó Vụ trởng Vụ Xuất nhập khẩu. Bộ thơng mại
đà khẳng định nh vậy. Thị trờng Mỹ quả có là một thị trờng mới rất có triển vọng,
đặc biệt nó mở ra nhiều cơ hội từ hiệp định thơng mại Việt Mỹ đợc ký kết
( năm 200) và chính thức thông qua vào tháng 12-2001. Điều này đà đợc chứng
minh bằng trị giá kim ngạch xuất khẩu vào thị trờng Mỹ tăng nhanh trong năm
2002 đạt 976 triệu USD, gấp hơn 20 lần so với năm 2001. và tăng nhanh qua các
năm 2003 là 1950 triệu USD, năm 2004 là 2368 triệu USD, năm 2005 đạt 2626
triệu USD.Tuy nhiên, việc thâm nhập vào thị trờng mới cần nhiều thời gian và chi
phí, và trớc mắt, Eu vẫn là một thị trờng quen thuộc, có sức tiêu thụ lớn và trong
tầm tay của doanh nghiệp Việt Nam Tìm kiếm thị trờng mới là một hớng đi
đúng, song các doanh nghiệp khôn ngoan sẽ không xao nhÃng một thị trờng rất
nhiều thuận lợi là EU kết luận của các nhà kinh tế.
Có thể khẳng định rằng EU vẫn còn là thị trờng đầy tiềm năng, triển vọng và
thách thức nếu công ty tìm cách khai thác và cạnh tranh đợc trên thị trờng EU.
Tuy nhiên để có thể thành công trong việc thâm nhập và xuất khẩu sản phẩm sang
thị trờng thì đòi hỏi công ty cần tìm hiểu rõ về m«i trêng kinh tÕ cđa EU hiƯn nay.
2.2.3. Các biện pháp mà Vinatex đã thực hiện để thâm nhập thị trường
EU.
Cho đến đầu những năm 1990, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
của Việt Nam sang EU hầu như vẫn chưa có gì, do quan hệ hai bên chưa
được bình thường hóa. Hiệp định bn bán hàng dệt may được ký kết giữa
13
hai bên có hiệu lực từ đầu 1993 đã mở đường cho sự gia tăng kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may sang thị trường này. Nó mang lại cơ hội quý báu cho các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam lúc ấy đang bấp bênh, vì thừa năng lực
nhưng thiếu thị trường.
Trong những năm đầu của Hiệp định, hàng may mặc xuất khẩu của
Việt Nam từ con số 0 tăng vọt lên 70%-80%, và kể từ 1994 tăng đều đặn 5060 triệu USD/năm. Đặc biệt, những đàm phán tích cực ở cấp chínhp phủ, như
việc sửa đổi Hiệp định Dệt May lần thứ ba để tăng hạn ngạch lên 26% sớm
một năm đã đem lại cho các doanh nghiệp cơ hội lớn hơn về việc làm và lợi
nhuận. Về sau này, các thị trường khác có mở ra đối với hàng Dệt May Việt
Nam, như Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản… song đối với hầu hết các doanh
nghiệp và Vinatex, EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ lực.
Để thâm nhập thành công thị trường EU, trước tiên Vinatex đã thực
hiện các giải pháp lớn đồng bộ nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản
phẩm của mình ra thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng,
đó là:
- Đổi mới công nghệ, giảm giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh
tranh trên thị trường.
- Đầu tư mở rộng quy mô sản xuất từ khâu may đến khâu sản xuất vải
và phụ kiện may, bông sợi cho sản xuất vải, trong đó đầu tư cho các nhà máy
may hiện đại may hàng xuất khẩu trực tiếp ở hai trung tâm lớn là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh, mở rộng mạng lưới may gia công ở tất cả các tỉnh,
thành phố trong cả nước. Cùng với việc quy tụ các nhà máy mới vào 10 cụm
công nghiệp dệt là phát triển vùng bông ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và
Đông Nam Bộ.
- Phối hợp trong hoạt động tiếp thị, tổ chức hoạt động xúc tiến thương
mại, tăng cường quảng cáo, khuyếch trương thông qua các hội chợ trong
nước và nước ngồi nhằm nâng cao uy tín nhán hiệu sản phẩm dệt may Việt
Nam trên thị trường EU cũng như trên các thị trường khác. Áp dụng ngay
14
phương thức thương mại điện tử và tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân
lực.
Vinatex đã mở nhiều văn phòng đại diện dệt may tại các thành phố
của Châu Âu. Văn phòng thương mại đại diện này đặc biệt quan trọng đối
với sự thâm nhập của Vinatex vào EU. Thứ nhất, nó giúp cơng ty tìm hiểu,
thu thập các thơng tin về thị trường, nhu cầu tiêu dùng, môi trường luật pháp,
tập quán kinh doanh... Đây là các thông tin quan trọng góp phần khắc phục
sự thiếu hiểu biết của công ty đối với thị trường EU. Thứ hai, văn phịng này
đóng vai trị như cầu nối trung gian giữa cơng ty với người tiêu dùng EU. Nó
góp phần giới thiệu, quảng bá các sản phẩm dệt may của công ty trên đất EU;
tạo lập củng cố và gia tăng uy tín cho thương hiệu của cơng ty. Qua đó tạo ra
cơ hội kinh doanh, cơ hội tiếp cận thị trường đối với Vinatex cũng như đối
với các doanh nghiệp thành viên. Ngoài ra trong tương lai gần, Vinatex cũng
sẽ thiết lập một loạt các trung tâm bán buôn và bán lẻ ở nhiều thành phố của
EU nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động thâm nhập thành công thị trường EU.
Bên cạnh đó, việc tìm kiếm và mở rộng thị trường được Vinatex nỗ
lực thực hiện bằng cách tham gia các hội chợ triển lãm hay tổ chức các phái
đoàn sang tìm hiểu gặp gỡ với các đối tác nước ngoài. Đối với thị trường EU,
sau khi mở các văn phòng đại diện, Vinatex cũng tham gia triển lãm các sản
phẩm của mình trong các cuộc triển lãm ở thị trường EU nhằm tạo lập và
tăng cường cơ hội hợp tác làm ăn với các doanh nghiệp EU.
Ngoài các biện pháp cụ thể nêu trên, Vinatex còn đưa ra hẳn một nghị
quyết về chiến lược phát triển hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào EU và
hướng các doanh nghiệp thành viên theo hướng chỉ đạo của nghị quyết chung
đó. Nghị quyết chung này bao gồm 5 chương trình nhỏ tập trung vào các lĩnh
vực như sản xuất, đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực và các hoạt động tìm hiểu
nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại...
Ngoài ra, Vinatex cũng chủ trương thực hiện các giải pháp nhằm
nâng cao tính cạnh tranh của hàng dệt may của tổng cơng ty trên thị trường
15
EU thông qua các giải pháp về đầu tư và đào tạo nhằm nâng cao năng lực sản
xuất, chất lượng sản phẩm... qua đó góp phần hỗ trợ hơn nữa cho hoạt động
thâm nhập, mở rộng thị trường của tổng công ty trên thị trường EU cũng như
trên các thị trường tiềm năng khác.
2.2.4. Những kết quả mà công ty đã đạt được trong việc thâm nhập thị
trường EU.
Với việc áp dụng các biện pháp trên, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may của Vinatex sang thị trường EU tăng dần lên qua các năm. Nếu như năm
2001, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU chỉ đạt 598 triệu USD, năm
2002 đạt 546 triệu USD thì đến năm 2003 đạt hơn 600 triệu USD, năm 2004
là 658 triệu USD, năm 2005 là 840 triệu USD.
EU là thị trường truyền thống của dệt may Việt Nam. Sau nhiều năm
đứng đầu về nhập khẩu dệt may của nước ta, thị trường này nay đã có dấu
hiệu chững lại. Mỗi năm Việt nam xuất khẩu vào EU khoảng 600 triệu USD.
Đây vẫn là thị trường quan trọng của dệt may nước ta do kim ngạch xuất
khẩu sang thị trường này vẫn rất lớn.
Cơ hội xuất khẩu sang thị trường EU càng trở nên hấp dẫn hơn khi
EU đang có xu hướng chuyển nguồn nhập khẩu sang các nước đang phát
triển để tận dụng nguồn lao động giá rẻ của các nước này. tỷ trọng mậu dịch
43% trong nội bộ EU và 17% nhập từ các nước đang phát triển đang dần
được điều chỉnh theo hướng tăng tỷ trọng nhập khẩu từ châu Á. Vinatex
thông báo mức xuất khẩu của công ty sang thị trường EU vẫn tăng đều và ổn
định. Với nhiều cuộc đàm phán giữa hai bên Việt Nam và EU, liên minh
châu Âu đã chấp thuận thêm hạn ngạch dệt may đối với các loại cat nóng 5070% và dự kiến sẽ tiếp tục tăng thếm số lượng tương tự theo các năm.
Trong chuyến thăm Việt Nam 19/2/2002, Dupont tập đoàn hàng đầu
của Mỹ trong lĩnh vực này đã ký kết với Vinatex hợp đồng hợp tác. Theo đó,
Việt Nam sẽ mua và sử dụng những loại sợi cao cấp của Dupont, còn Dupont
sẽ giúp Việt Nam xuất khẩu vải thành phẩm và hàng may mặc có sử dụng sợi
16
của tập đoàn này sang thị trường EU và các thị trường cao cấp khác. Ơng
Mai Hồng Ân, Tổng Giám đốc Vinatex nhấn mạnh: “ Thơng qua chương
trình này, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ có dịp làm quen với cơng
nghệ sợi, dệt, nhuộm cao cấp”.
Hiện nay có một số mặt hàng xuất khẩu mạnh vào EU là hàng sơ mi
dệt kim, áo khoác, sơ mi vải dệt thoi, quần vải tổng hợp...
Trong quá trình thâm nhập thị trường EU, Vinatex cịn một số hạn
chế. Đó là do EU là một nền kinh tế lớn, bao gồm nhiều quốc gia khác nhau,
các doanh nghiệp may mặc của EU đã có thương hiệu nổi tiếng tồn thế giới,
u cầu về thời trang và chất lượng của họ khá cao, bên cạnh đó là đơn đặt
hàng của họ thường lớn. Một đơn đặt hàng của EU có thể lên tới hàng triệu
sản phẩm mà thời gian cung ứng hàng lại rất nhanh mà hầu hết các doanh
nghiệp thành viên của Vinatex đều đang sản xuất với quy mô vừa và nhỏ nên
không thể đáp ứng được các đơn đặt hàng ln ú.
2.3. Những thuận lợi và khó khăn của Vinatex khi thâm
nhập th trờng EU
2.3..1. Nhng thun li
- Liên minh châu Âu là một khối liên kết kinh tế chặt chẽ nhất thế giới hiện nay.
Đây cũng là một khu vực phát triển kinh tế ổn định và có đồng tiền riêng khá vững
chắc và có nhiều triển vọng tiếp tục mở rộng. Trong tơng lai đây sẽ là một thị trờng xuất khẩu rất rộng lớn và ổn định.
- Hiện nay, EU đà và đang có xu hớng chiến lợc tăng cờng và mở rộng quan hệ
sang châu á. Châu lục này có vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của EU.
Theo chiều hớng này, Việt Nam ngày càng có vị thế quan trọng trong chiến lợc
mới của EU. EU từng bớc đẩy mạnh quan hệ hợp tác phát triển thơng mại với Việt
Nam trên tất cả các lĩnh vực, đây thực sự là cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp
Việt Nam xuất khẩu sang thị trờng này.
- Thị trờng EU có nhu cầu lớn, rất đa dạng và phong phú về chủng loại hàng hóa.
Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nâng cao trình độ và tay nghề của ng17
ời lao động hơn nữa để sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà Việt Nam có lợi
thế.
- EU đang điều chỉnh chính sách thơng mại đối với châu á để phù hợp hơn với
tình hình hiện nay, điều này sẽ tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh
nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trờng EU. Tháng 5/2000, EU đà công nhận
Việt Nam áp dụng cơ chế kinh tế thị trờng, cho phép đa hàng Việt Nam lên ngang
hàng với các nớc kinh tế thị trờng trong việc điều tra và thi hành các biện pháp
chống bán phá giá.
- EU là thị trờng có nhu cầu nhập khẩu lớn và khá ổn định những mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam nh giày dép, dệt may, thuỷ hải sản, nông sản, thủ công
mỹ nghệ. EU có chính sách thơng mại chung cho 25 nớc thành viên và đồng tiền
thanh toán cho 12 nớc thuộc EU. Khi xuất khẩu hàng hoá sang bất cứ nớc thành
viên nào trong khối, chỉ cần tuân theo chính sách thơng mại chung và thanh toán
bằng đồng EURO - đây là một lợi thế lớn.
2.3.2.Nhng khú khn
Môi trờng kinh tế EU trong nó những thách thức không nhỏ đối với hoạt động
xuất khẩu hàng dệt may của VINATEX sang thị trờng này, thể hiện bằng hệ thống
những vấn đề đặt ra cần có sự giải quyết từ phía công ty:
- EU thơng lợng với các nớc ngoài khối nh một thực thể đồng nhất trong các
vấn đề thơng mại toàn cầu và trở thành tiếng nói chung của châu Âu trong
các cuộc thảo luận quốc tế, các doanh nghiệp làm ăn ở châu Âu tất nhiên
phải tuân theo các quy tắc, hớng dẫn và chịu sự giám sát của Uỷ ban châu
Âu.
- Những điểm khác biệt về văn hoá giữa các nớc thành viên mà chúng ta có
thể nhận thấy là thị trờng EU chỉ thống nhất về mặt kỹ thuật còn trong thực
tế là nhóm thị trờng quốc gia và khu vực, mỗi nớc có một bản sắc dân tộc
và văn hoá riêng mà các nhà xuất khẩu tại các nớc đang phát triển cha hiểu
hết đợc. Mỗi thành viên tạo ra cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam
các cơ hội khác nhau và yêu cầu cụ thĨ cđa hä cịng kh¸c nhau.
18
- EU là một thành viên của WTO, có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa
vào các nguyên tắc của tổ chức này, EU vẫn còn các mặt hàng quản lý bằng
hạn ngạch tuy không nhiều. EU là một thị trờng bảo hộ rất chặt chẽ vì hàng
rào phi thuế quan rất nghiêm ngặt. Rào cản kỹ thuật khá tinh vi chính là quy
chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ ngời tiêu dùng nh chất lợng,
vệ sinh thực phẩm, an toàn của ngời sử dụng, bảo vệ môi trờng, tiêu chuẩn
lao động...
- Chính sách thơng mại và đầu t của EU bấy lâu nay nhằm vào các thị trờng
truyền thống có tính chiến lợc là châu Âu và châu Mỹ. Đối với châu á,
chính sách thơng mại của EU mới hình thành gần đây và đang trong quá
trình xem xét, thử nghiệm và khai thác. Hơn nữa chính sách thơng mại của
EU đối với Việt Nam thời gian trớc đây chủ yếu dựa trên nguyên tắc xếp
Việt Nam vào danh sách những nớc thực hiện chế độ độc quyền ngoại thơng, gần nh không đợc hởng các u đÃi của EU dành cho các nớc đang phát
triển.
- Quá trình đổi mới công nghệ, thiết bị của Việt Nam rất chậm, cha làm tốt
khâu marketing.
Tóm lại, trong môi trờng kinh tế EU tồn tại những tác động có tính hai mặt, thiết
nghĩ công ty cần lu tâm và có hớng giải quyết đúng đắn cho phù hợp để có thể
nâng cao khả năng thâm nhập của công ty nh những chuyển biến tất yếu : Bởi một
lẽ, không nằm ngoài qui luật phát triển kinh tế, kinh tế EU đà và đang chứa đựng
những biến chuyển sâu sắc về kinh tế nh vấn đề tăng trởng cao gắn liền với suy
thoái theo chu kỳ thực sự là một bài toán cần có sự đầu t giải quyết từ phía các
doanh nghiêp nh VINATEX để từ đó có những đánh giá đúng và đầy đủ về môi trờng kinh tế EU và quan trọng hơn là tự rút ra những liệu pháp hợp lý đối với hoạt
động xuất khẩu của mình vào EU sao cho phù hợp với mỗi một giai đoạn phát
triển của nền kinh tế EU cũng nh những diễn biến phức tạp của môi trờng kinh tế
EU .
Do đó việc thờng xuyên có những hoạt động nh nghiên cứu, đánh giá môi trờng
kinh doanh EU phải là một công việc thờng xuyên và liên tục, là những bớc quan
19
trọng để công ty có thể tìm cho mình những bớc thâm nhập hiệu quả vào thị trờng
EU.
2.3.3.Các biện pháp mà Vinatex áp dụng để vợt qua các khó khăn trong việc
thâm nhập thị trờng EU:
Tuy chỉ mới ở trong giai đoạn thử nghiệm thâm nhập thị trờng với doanh số
bán không đáng kể nhng Vinatex đà và đang tiếp tục áp dụng một số biện pháp để
giải quyết những khó khăn mà Tổng công ty đang và sẽ còn phải giải quyết khi
tiếp tục thâm nhập vào thị trờng EU.
- Để có thể tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm may mặc của mình, Tổng công
ty liên tục đầu t vào việc cải tiến công nghệ, đào tạo tay nghề và chuyên môn cho
các cán bộ công nhân viên trong Tổng công ty để có thể tạo ra các sản phẩm có
chất lợng cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh.
- Để né tránh áp lực cạnh tranh và rủi ro tại thị trờng EU, Tổng công ty chỉ kinh
doanh với số lợng nhỏ, theo đơn đặt hàng, lấy giá cả và chất lơng làm thế mạnh để
có thể cạnh tranh với các công ty may mặc của EU.
- Tạo nên thơng hiệu mạnh, có chỗ đứng vững chắc và lâu dài trên thị trờng khắc
nghiệt nh EU
- Công ty đà rất tích cực trong hoạt động hội chợ, triển lÃm hàng hoá trên thị trờng
EU nhằm quảng bá các sản phẩm của mình tại EU song Tổng công ty chỉ dừng
hoạt động quảng bá thơng hiệu và sản phẩm ở đó mà không có những chiến dịch
quảng bá mang tầm sâu rộng và hiệu quả hơn.
Kết quả là sau hàng loạt các biện pháp né tránh và cố gắng giải quyết những
khó khăn mà Tổng công ty vấp phải khi thâm nhập thị trờng EU, hoạt động kinh
doanh và phát triển sản phẩm tại đây vẫn không có hiệu quả và Tổng công ty
không thể phát triển đợc sản phẩm tại thị trờng này theo nh mong muốn vì cha có
biện pháp thực sự thích hợp và mang tính chiến lợc. Do chỉ đang ở trong giai đoạn
thăm dò và cầm chừng trên thị trờng nên Tổng công ty vẫn cha tiến hành các biện
pháp thích hợp để thâm nhập và phát triển thị trờng một cách hiệu quả. Xong trong
giai đoạn mới của quá trình thâm nhập Tổng công ty cần chú trọng hơn tới c¸c
20
biện pháp thực hiện để đạt đợc hiệu quả cao hơn mà vẫn đảm bảo tránh đợc rủi ro
và giải quyết đợc những khó khăn còn tồn đọng.
Chơng III: Bài học kinh nghiệm và Kiến nghị để vinatex
mở rộng thị trờng sản phẩm may mặc ở eu:
3.1.Bài học kinh nghiệm khi công ty thâm nhập thị trờng eu:
Sau một thời gian kinh doanh tuy chØ víi quy m« nhá nh»m thăm dò khả
năng phát triển thị trờng sản phẩm, Công ty đà có những hiểu biết và nắm bắt
nhất định về thị trờng, môi trờng kinh tế của EU và nhu cầu đối với các sản
phẩm may mặc hiện nay của EU để có thể đa sản phẩm thâm nhập vào thị trờng EU. Qua đó Công ty cũng rút ra đợc một số bài học kinh nghiệm cho việc
đa sản phẩm thâm nhập vào thị trờng EU nh sau:
Các u tè cđa hƯ thèng kinh tÕ cđa mét níc luôn theo sát một doanh
nghiệp nớc ngoài khi bắt đầu thâm nhập vào môi trờng của nớc đó. Đó có thể là cơ
sở và điều kiện để Công ty có thể tận dụng để phát triển và tạo thuận lợi cho Công
ty trong quá trình đa sản phẩm của mình vào trong thị trờng nhng cũng sẽ là rào
cản không thể tháo gỡ nếu Công ty không nắm rõ và hoạt động theo đúng những
quy định và quy luật mà hệ thống đó áp đặt cho các doanh nghiệp nớc ngoài khi
muốn tham gia khai thác thị trờng. Chỉ cần Công ty không nắm rõ các quy định về
chế độ sở hữu, quản lý, chế độ phân phối thu nhập cũng nh quản lý cơ cấu ngành
của EU thì Công ty sẽ không thể đa ra đợc những chiến lợc phát triển đúng đắn
sản phẩm tại đây và rất dễ dẫn đến nguy cơ mất vốn, mất thị trờng và gặp nhiều rủi
ro.
Mỗi ngành kinh tế là một bộ phận, một phần của một nền kinh tế, nó hoà
cùng nhịp ®Ëp, cïng h¬i thë víi tỉng thĨ nỊn kinh tÕ chứa đựng nó. Ngành may
mặc cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nền kinh tế EU phát triển nhanh và bền
vững sẽ kéo theo khả năng phát triển cao của ngành may mặc cũng nh khả năng
tiêu thụ của nó. Khi xét đến khả năng phát triển của một ngành thì luôn cần phải
theo dõi và nắm vững các biến động trong trình độ phát triển và tất cả các yÕu tè
21
kinh tế khác có liên quan. Để xem xét khả năng phát triển của một ngành trớc hết
cần phải xem xét và đánh giá tổng quát khả năng phát triển của cả nền kinh tế đó
thông qua các chỉ tiêu vµ yÕu tè kinh tÕ.
Khi tham gia vµo mét lÜnh vực, kinh doanh trong một ngành có tiềm năng
phát triển mạnh nh ngành dệt và may mặc ở EU thì cũng đồng nghĩa với việc Công
ty phải xác định đợc năng lực cạnh tranh cũng nh khả năng chịu áp lực cạnh tranh
của Công ty trong môi trờng này. Nếu Công ty không đánh giá khả năng của bản
thân và của các đối thủ một cách kỹ lỡng và cẩn thận thì Công ty sẽ cầm chắc thất
bại khi kinh doanh trên thị trờng này.
Và cuối cùng, kinh doanh trong lĩnh vực may mặc tức là đang hoạt động
trong lĩnh vực thời trang. Mà đặc trng của tính thời trang trong may mặc là luôn
thay đổi thậm chí trong từng ngày, từng mùa. Nh vậy, theo đuổi thời trang nghĩa là
theo đuổi nhu cầu luôn biến động của khách hàng, đặc biệt là khi nền kinh tế toàn
cầu đang có xu hớng phát triển cao và mức sống của ngời dân cũng ngày càng đợc
nâng cao. Có thể nói khả năng duy trì và phát triển của một Công ty may mặc trên
thị trờng bất kỳ nớc nào và đặc biệt là thị trờng phát triển về may mặc nh EU là
hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng tự làm mới mình, làm mới các sản phẩm của
mình dựa trên mong muốn và nhu cầu của các khách hàng mục tiêu. Không đảm
bảo đợc yêu cầu này thì Công ty không thể phát triển trong lĩnh vực thời trang và
may mặc đợc, đặc biệt là ở EU.
Đây là những bài học mà Công ty rút ra đợc khi tiến hành thâm nhập thị trờng
EU, một thị trờng đầy tiềm năng nhng cũng đầy thách thức và khó khăn đối với
Công ty khi muốn thâm nhập. Tuy nhiên nêu vận dụng linh hoạt đợc các bài
học kinh nghiệm đà có đợc để tiếp tục hoàn thiện và đổi mới mình thì Công ty
sẽ có những chiến lợc phù hợp hơn và đảm bảo thành công hơn khi thực hiện
thâm nhập vào thị trờng EU.
3.2 những Kiến nghị đối với vinatex khi thâm nhập thị
trờng eu
T nhng phõn tớch chng II cho thấy sức cạnh tranh của hàng dệt may
Việt Nam trên thị trường EU cịn yếu, trong khi đó cạnh tranh ngày càng quyết
22
liệt hơn sau khi EU bãi bỏ hạn ngạch dệt may. Vì thế, nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của là nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Để thực hiện được điều đó
cần phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ và nhất quán giữa Nhà nước và các
doanh nghiệp.
3.2.1.Giải pháp từ phía doanh nghiệp.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đây là biện pháp có tính then chốt và vững chắc nhất để tăng sức cạnh
tranh hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu trên thị trường EU nói riêng và trên thị
trường thế giới nói chung.
Chất lượng sản phẩm được coi là chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá sức cạnh
tranh của bất kỳ một loại hàng hóa nào lưu thơng trên thị trường. Có rất nhiều
yếu tố làm ảnh hưởng tới chất lượng của một hàng hoá nào đó, có thể kể đến
khâu chuẩn bị nguyên phụ liệu, tay nghề cơng nhân, trình độ quản lý... Để cạnh
tranh với các đối thủ có ưu thế về giá trên thị trường, việc nâng cao chất lượng
sản phẩm may mặc của Việt Nam càng trở nên quan trọng hơn.
- Đa dạng hoá các sản phẩm may mặc.
Hàng may mặc là một loại hàng hố mang tính thời vụ và tính thời trang,
nó ln địi hỏi sự đa dạng trong chủng loại, sự phong phú và ấn tượng trong
mẫu mã, kiểu cách. Nếu không đáp ứng được những yêu cầu này thì hàng dệt
may sẽ bị đơn điệu, lạc hậu và kém hấp dẫn, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá.
Hiện nay, cơ cấu sản phẩm của hàng dệt may Việt Nam còn “hẹp”, chậm
đổi mới, mẫu mã, kiểu cách cịn nghèo nàn. Doanh nghiệp có thể thực hiện đa
dạng hoá sản phẩm theo các hướng sau:
- Nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm mới với những tính năng đặc biệt vừa
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng lại vừa tránh bớt được áp lực cạnh
tranh.Ví dụ như bên cạnh việc duy trì và củng cố các tính năng cơ bản của sản
phẩm như: độ bền, độ hút ẩm..., các sản phẩm mới nên tăng cường các tính năng
khác như sự thoải mái (tạo sự mát mẻ, trọng lượng nhẹ, chống nhàu, chống
23
xước...), tính năng về vệ sinh (chống ẩm mốc, chống mùi hơi...), tính năng an
tồn... Việc đưa thêm các giá trị mới vào sản phẩm khiến người sử dụng được
hưởng thêm nhiều lợi ích mới, đáp ứng được những nhu cầu và thị hiếu ngày
càng đa dạng của thị trường.
- Nắm bắt, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm đã và
đang có mặt trên thị trường EU để đánh giá được những ưu, nhược điểm của
từng loại sản phẩm từ đó tìm ra các biện pháp phát huy ưu điểm và thay đổi, cải
tiến, khắc phục các yếu điểm.
- Giảm giá thành sản phẩm dệt may.
Tuy đối với thị trường EU, giá cả không phải là yếu tố quyết định việc một
khách hàng đó mua sản phẩm hay không nhưng để cạnh tranh với những đối
thủ có nhiều lợi thế về giá thì việc các doanh nghiệp cố gắng giảm giá thành
cũng là một công cụ cạnh tranh rất quan trọng. Hiện nay giá thành hàng dệt
may Việt Nam vẫn còn cao hơn khá nhiều so với các sản phẩm cùng loại của
các đối thủ cạnh tranh. Do đó, mục tiêu của ta là phải đề ra các giải pháp để
hạ giá thành ngang bằng và sau đó tiến tới mức giá thấp hơn đối thủ. Muốn
vậy, Doanh nghiệp phải có một kế hoạch đồng bộ và chi tiết từ khâu thu mua
nguyên liệu đầu vào đến khâu phân phối sản phẩm.
Nếu giảm được tối đa chi phí sản xuất, các doanh nghiệp sẽ có thể đưa ra
mức giá bán thấp hơn đối thủ cạnh tranh mà chất lượng sản phẩm vẫn được đảm
bảo. Khi đó sẽ có nhiều khách hàng đến đặt hàng của các doanh nghiệp kéo theo
số lượng tăng, lợi nhuận tăng và uy tín của doanh nghiệp cũng dần được củng
cố.
Việc kết hợp giảm giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ
giúp cho sản phẩm có sức cạnh tranh cao hơn hẳn so với các sản phẩm cùng loại
của các đối thủ.
- Nâng cao năng lực thiết kế thời trang, mẫu mã.
Muốn chủ động sản xuất thì phải có mẫu mã chào hàng, khách hàng xem
xét mẫu mã đẹp, hợp thời trang, giá cả và chất lượng đảm bảo thì họ mới đặt
24
hàng sản xuất. Để tạo ra những sản phẩm có mẫu mã đa dạng, phong phú, có ấn
tượng đặc biệt với khách hàng,
-Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường.
Đối với mặt hàng dệt may - một mặt hàng có yêu cầu cao về sự phù hợp
với các tiêu chuẩn xã hội, truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang... thì cơng
tác nghiên cứu thị trường giữ vai trị đặc biệt quan trọng. Các hoạt động nghiên
cứu thị trường của doanh nghiệp phải đảm bảo nắm bắt đủ các thông tin
Ngồi ra, doanh nghiệp cịn cần phải chú trọng đào tạo đội ngũ quản lý, nhân
viên kinh doanh có trình độ chuyên môn và thông thạo sử dụng tiếng Anh.
Đây là điều kiện quan trọng để giới thiệu sản phẩm, quảng cáo, thuyết phục
khách hàng, dễ dàng nắm bắt các thông tin thị trường, khách hàng, luật pháp
của EU.
-Thiết lập mạng lưới kênh phân phối đa dạng,rộng khắp trên thị trường EU.
Doanh nghiệp Việt Nam nên chủ động trực tiếp tiếp cận với các kênh phân
phối của EU như các nhà bán lẻ, các đại lý bán hàng. Những kênh bán lẻ này
thường có nhiều cửa hàng khơng chỉ ở thị trường EU mà cả thị trường khác trên
thế giới nên có sức ảnh hưởng lớn trong q trình bán hàng, quảng cáo, phát
triển thương hiệu cho nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Các đại lý bán
hàng của EU tuy khơng có uy tín và tiềm lực kinh tế mạnh, quy mô lớn như các
nhà bán lẻ, nhưng họ cũng có nhiều cửa hàng bán khắp EU, khả năng thu thập
thông tin về xu hướng tiêu dùng của khách hàng thay đổi mẫu mốt rất nhanh. Sự
đa dạng trong việc sử dụng các kênh phân phối hàng may mặc sẽ là yếu tố quan
trọng trong nâng cao sức cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần tận dụng tối đa lượng người Việt Nam
sinh sống ở EU để phát triển mạng lưới bán lẻ.
Việc tạo lập một hệ thống phân phối hợp lý sẽ giúp các daonh nghiệp tăng
cường khả năng xuất khẩu và thu thập được nhiều thông tin về nhu cầu từng loại
sản phẩm mà doanh nghiệp đang kinh doanh trên thị trường EU.
25