CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng hoà nhịp với xu thế chung của thế giới cũng như chuyển biến tích cực
của đất nước , hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã có những
bước khởi sắc đáng kể , hệ thống ngân hàng được kết cấu lại đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế thị trường , hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương
mại Việt Nam không ngừng đổi mới và ngày càng hoàn thiện theo hướng
ngân hàng đa năng , hiện đại hoá từng bước hội nhập vào cộng đồng tài chính
khu vực và thế giới .
Bên cạnh các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống , các ngân hàng thương
mại Việt Nam đã triển khai nhiều nghiệp vụ mới trong đó không thể không kể
tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ . Đây được xem là một trong những mảng
hoạt động kinh doanh lớn nhất của mô hình hiện đại . Với vai trò như chiếc
cầu nối giữa kinh tế nội địa với kinh tế thế giới , thị trường hối đoái Việt Nam
tuy còn rất non trẻ và rất sơ khai về trình độ , qui mô hoạt động cũng như kỹ
năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh nhưng đã tạo ra môi trường kinh doanh
ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại đồng thời cung cấp những công cụ
hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro hối đoái cho các công ty xuất nhập khẩu và
những nhà đầu tư quốc tế .
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ thực chất là việc mua bán một loại hàng hoá
đặc biệt (đồng tiền của các quốc gia khác nhau ) , hoạt động này không chỉ
nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán mà còn mang lại lợi nhuân rất lớn cho nhà
đầu cơ kinh doanh nó . Tuy vậy gắn liền với lợi nhuận nhiều luôn là rủi ro ;
việc mua bán ngoại tệ chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như tình hình
kinh tế , chính trị tỷ giá hối đoái , lãi suất ...
Do vậy vấn đề đặt ra cho các ngân hàng , các doanh nghiệp kinh doanh xuất
nhập khẩu và những bên liên quan khác là phải nắm vững bản chất , đặc điểm
của những xu hướng phát triển của kinh doanh ngoại tệ , của thị trường hối
1
1
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
đoái , từ đó tìm ra cho mình các biện pháp , hướng đi phù hợp để có thể đạt
được hiệu quả cao trong hoạt động này .
Một khi hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển đạt trình độ cao sẽ thúc
đẩy hoạt động kinh tế khác như hoạt động kinh tế xuất nhập khẩu , đầu tư
quốc tế ... trở nên linh hoạt hơn nền kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh hơn vì vậy
việc tìm ra những biện pháp nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh
ngoại tệ là rất cần thiết .
Sau thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống
Đa ,em được biết hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng công thương
Đống Đa trong thời gian qua đã phần nào đáp ứng được nhu cầu nào trong
kinh doanh. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những vấn đề nổi lên cần phải
xử lý tiếp như quan hệ mua bán giữa các loại ngoại tệ, giữa ngoại tệ và nội tệ,
giữa huy động và sử dụng,.. Do đó đòi hỏi phải tìm kiếm các giải pháp nhằm
thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ . Vì vậy trên cơ sở những kiến thức
đã học kết hợp với tình hình thực tiễn thu được trong quá trình thực tập , em
muốn thông qua bài viết với đề tài :
“ Một số giải pháp tăng cường hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân
Hàng Công Thương Đống Đa “
Mong được góp một phần nhỏ bé giải quyết những vấn đề bức xúc của thực
tiễn
Kết cấu bài viết gồm 3 chương :
Chương I : Những vấn đề lý lụân cơ bản về hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Chương II : Thực trạng kinh doanh ngoại tệ tại chi nhánh Ngân Hàng Công
Thương Đống Đa
Chương III : Một số giải pháp tăng cường hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại
chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Đống Đa
Do kiến thức và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế , thời gian nghiên cứu chưa
nhiều nên bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót . Với lòng biết ơn sâu
sắc em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến cô giáo : TS . Nguyễn Thị
2
2
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Hường và TS . Tạ Lợi đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành đề tài , em cũng
xin gởi lời cảm ơn đến các cô chú , các anh chị ở chi nhánh Ngân Hàng Công
Thương Đống Đa đã giúp đỡ em rất nhiệt tình trong thời gian thực tập .
Cuối cùng , em mong nhận được những ý kiến phê bình , góp ý quí báu
của các thầy cô giáo , các cán bộ ngân hàng đã giúp em nâng cao trình độ hiểu
biết về lí luận cũng như thực tiễn .
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ
1/ KHÁI NIỆM VÀ THỰC CHẤT CỦA KINH DOANH NGOẠI TỆ
Khái niệm : Kinh doanh ngoại tệ là việc mua bán ngoại tệ đảm bảo số dư tài
khoản ngoại tệ, tìm cách thu lời thông qua tỷ giá giữa các đồng tiền khác nhau
Như vậy kinh doanh ngoại tệ cũng giống như kinh doanh hàng hoá, nhưng ở
đây là hàng hoá đặc biệt đó là ngoại tệ, tiền của nước ngoài. Vì tiền tệ là một
loại hàng hoá đặc biệt nên nó có những đặc trưng riêng có của nó. Hoạt động
kinh doanh luôn nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ phần chênh lệch giữa
giá mua và bán hàng hoá nhưng lợi nhuận trong kinh doanh ngoại tệ không
thuần tuý là chênh lệch giữa giá mua và bán ngoại tệ . điều này chỉ đúng khi
số dư nguồn huy động nguồn ngoại tệ luôn được đảm bảo bằng nguyên tệ từ
3
3
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
đầu cho đến cuối kỳ báo cáo . Trong thực tế nguồn vốn và sử dụng vốn ngoại
tệ luôn có sự chênh lệch .
Trường hợp nguồn ngoại tệ huy động chuyển hoá thành nội tệ để kinh
doanh , khi đó trạng thái ngoại tệ (trạng thái ngoại tệ là sự thay đổi lượng tiền
của đồng nội tệ lúc mua ngoại tệ và đến lúc bán ngoại tệ này) trở nên âm, nếu
có biến động tỷ giá tăng. Ngược lại nếu nội tệ được chuyển hoá thành ngoại tệ
phục vụ cho kinh doanh, trạng thái ngoại tệ dương và nếu có biến động tỷ giá
tăng ngân hàng sẽ có chênh lệch dương.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng xuất phát từ vị trí trung tâm
trong việc thực hiện các hoạt động thanh toán quốc tế . Trong hoạt động thanh
toán quốc tế được thực hiện theo một chỉ thị nào về một loại ngoại tệ thì vẫn
phát sinh dư thừa hoặc là thiếu ngoại tệ một trong những ngân hàng tham dự .
Việc cân bằng dư thừa hay là thiếu ngoại tệ diễn ra trên thị trường hối đoái
thông qua các hình thức mua bán kinh doanh ngoại tệ .
Kinh doanh ngoại tệ gồm kinh doanh ngoại tệ tiền mặt và kinh doanh
chuyển khoản . Kinh doanh ngoại tệ tiền mặt chủ yếu liên quan đến các hoạt
động du lịch có doanh số giao dịch rất nhỏ so với kinh doanh ngoại tệ chuyển
khoản. Khác với hình thức kinh doanh tiền mặt, kinh doanh ngoại tệ được
thực hiện nhờ vào các lệnh được chuyển qua mạng thông tin thanh toán.
Những lệnh này chỉ định nghiệp vụ ghi vào tài khoản của một đồng tiền này
ghi nợ vào một tài khoản khác .
Kinh doanh ngoại tệ gặp phải nhiều yếu tố mà kinh doanh thông thường
không gặp. Các yếu tố này bao hàm rủi ro về lạm phát , các thị trường tiền tệ
đa hệ các qui định kiểm soát ngoại tệ , các rủi ro chính trị v..v
2/ ĐẶC TRƯNG VÀ CÁC HÌNH THỨC KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA
NGÂN HÀNG
2.1 Đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngoại tệ
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là hoạt động chứa nhiều rủi ro . Các loại
rủi ro thường gặp trong kinh doanh ngoại tệ là rủi ro về tỷ giá , rủi ro về
lãi suất .
4
4
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
+ Rủi ro về tỷ giá: Là rủi ro đặc trưng trong kinh doanh ngoại tệ. Nó sẽ
xuất hiện khi ngân hàng có trạng thái thừa hay thiếu, rủi ro về tỷ giá là rủi
ro mà các Ngân Hàng Thương Mại rất hay gặp . Khi ngoại tệ lên giá khi đó
ngân hàng kinh doanh sẽ có lợi nếu ngân hàng đang ở trạng thái dư ngoại
tệ và ngược lại. Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ tỷ giá luôn luôn biến
đổi nên ngân hàng luôn gặp phải rủi ro do tỷ giá biến động
+ Rủi ro về lãi suất : Lãi suất tăng của một đồng tiền sẽ tác động đến tỷ giá
hối đoái vì vậy so với rủi ro về tỷ giá thì rủi ro về lãi suất ít có ý nghĩa hơn
nhưng với khối lượng kinh doanh lớn thì cũng tạo ra những thiệt hại đáng
quan tâm
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động phức tạp để thành
công trong kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi phải có một hệ thống thông tin
hoàn hảo đây là đặc trưng của nền kinh tế thị trường hiện đại vì vậy để
thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ cần phải có đủ cơ sở vật chất
và các thiết bị hiện đại.
- Nhà kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi phải có chuyên môn nhất định về
nhiều lĩnh vực , phải có những kỹ năng nhất định , phải có trình độ
quản lý vì kinh doanh ngoại tệ là hoạt động có mức độ rủi ro cao ,
không những thế nhà kinh doanh cũng phải có trí tuệ cao cùng với
những nỗ lực thường xuyên để xác định những gì sẽ xảy ra trên thị
trường và tỷ giá sẽ biến động đến mức nào .
- Những nhà kinh doanh ngoại tệ cần có trạng thái tâm lí trí tuệ tốt và tự
tin rằng họ có thể kiếm được lợi nhuận thông qua giao dịch trong mọi
tình huống diễn biến cua thị trường tác động đến hoạt động kinh doanh
ngoại tệ là luôn luôn đúng do đó nhà kinh doanh phải là người thực tế
và có sự hiểu biết nhất định để thừa nhận những sai sót của mình , phải
sẵn sàng giảm các trạng thái ngoại hối đang thua lỗ trước khi khoản lỗ
trở nên trầm trọng .
2.2 Các hình thức kinh doanh ngoại tệ
5
5
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Thực tế cho thấy, bất kỳ loại hình kinh doanh nào mang lại lợi nhuận lớn
thì rủi ro mà nó đem lại cũng không phải là nhỏ và kinh doanh ngoại tệ cũng
không nằm ngoài quy luật đó.
Để hạn chế các rủi ro người ta áp dụng các hình thức kinh doanh ngoại tệ trên
thị trường hối đoái.
Tuy nhiên, các hình thức này không chỉ đơn thuần là hạn chế phòng ngừa rủi
ro mà trong quá trình thực hiện, nó còn mang lại một phần lợi nhuận đáng kể
trong tổng lợi nhuận. Do đó, nó cũng là các hình thức kinh doanh ngoại tệ
trong chính sách đa dạng hoá sản phẩm kinh doanh cuả ngân hàng. Mục đích
kinh doanh của ngân hàng là: phòng ngừa rủi ro, kinh doanh kiếm lời và kinh
doanh mang tính chất dịch vụ để thu phí.
1.2.1.Hình thức kinh doanh ngoại tệ giao ngay
Thị trường hối đoái giao ngay là một bộ phận của thị trường hối đoái,
doanh số hoạt động của nó chiếm khoảng 58 % tổng số doanh số thương mại
ngoại hối, trong khi thị trường kỳ hạn và thị trường theo quyền chọn chỉ
chiếm tương ứng là 40% và 20%.
Hình thức hối đoái giao ngay được thực hiện bằng hợp đồng mua bán
ngoại tệ giao ngay trong đó việc cung ứng các đồng tiền chuyển đổi được
thực hiện chậm nhất là hai ngày làm việc kể từ khi hợp đồng được ký kết.
Tỷ giá thanh toán ngay (sau hai ngày làm việc) trong thương mại quốc tế gọi
là SPORT-RATE, nếu một nhà kinh doanh ngoại tệ muốn thay đổi thời hạn
thực hiện hai ngày thành ba ngày thì có thể đề nghị bạn hàng của mình thực
hiện tỷ giá SPORT-NEXT, nếu muốn đổi thời hạn thực hiện từ hai ngày thành
một ngày thì đề nghị tỷ giá TOMOROW-NEXT,
Kỹ thuật giao dịch có thể thực hiện bằng điện thoại, hệ thống màn hình
(Computer), bằng điện báo và trên các sở giao dịch chứng khoán. Thực hiện
bằng kỹ thuật màn hình thực chất là thực hiện qua hệ thống thông tin điện tử,
tức là việc thoả thuận hay các hợp đồng được thực hiện thông qua hệ thống“
Money dealing”. Thông qua hệ thống này, các ngân hàng có thể trực tiếp liên
hệ với nhau và thoả thuận các hợp đồng thương mại. Việc chuyển thông tin
6
6
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
được thực hiện bằng bàn phím với những ký tự điện tử và thông tin sẽ xuất
hiện trên màn hình, đồng thời một máy in được nối mạng với hệ thống sẽ in
lại thành biên bản thông tin được chuyển đi. Hệ thống này có ưu điểm so với
hình thức điện thoại là việc ghi nhận các thoả thuận bằng văn bản, khắc phục
các lỗi nhầm thường gặp trong giao dịch điện thoại như nghe nhầm, viết
nhầm, vì thế hệ thống “ Money dealing” được sử dụng rộng rãi.
Tỷ giá giao ngay (SPORT-RATE) được niêm yết trên các báo kinh tế
hàng ngày ở các quốc gia. Thực tế hiện nay, tỷ giá của hầu hết các loại ngoại
tệ được trao đổi đều được tính toán so với USD mà không được tính toán trực
tiếp với nhau nữa. Đồng USD được sử dụng như một loại ngoại tệ trung
chuyển ( transport), đồng thời tỷ giá giữa hai đồng tiền không thông dụng,
Điều kiện thực hiện hình thức kinh doanh hối đoái giao ngay là:
+ Trước hết, phải có nhu cầu của khách hàng, thông thường hình thức
giao ngay phát sinh khi có nhu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ thực hiện
hình thức này để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
+ Hình thức kinh doanh giao ngay còn được thực hiện trong hoạt động
đầu cơ của ngân hàng, dự toán tỷ giá của một đồng tiền trong thời gian tới,
ngân hàng sẽ mua đồng tiền đó theo hợp đồng giao ngay với ngân hàng khác.
Khi tỷ giá thay đổi theo đúng dự toán, ngân hàng có thể bán trao ngay số tiền
đầu cơ đó và thu chênh lệch. Ngoài ra, hình thức trao ngay được sử dụng kết
hợp với các hình thức khác trong các đầu cơ chênh lệch lãi suất.
1.2.2 Hình thức kinh doanh ngoại tệ chênh lệch tỷ giá( ARBITRAGE)
Hình thức kinh doanh ARBITRAGE là hình thức kinh doanh của bản thân
ngân hàng, theo ý nghĩa nguyên thuỷ cuả nó, hình thức này là việc lợi dụng sự
chênh lệch về tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối khác nhau để thu lời thông
qua hoạt động mua và bán. Do đó, nó có tên gọi là kinh doanh chênh lệch tỷ
giá. Đó là việc tiến hành mua bán ngoại tệ đồng thời trên các thị trường hối
đoái theo nguyên tắc mua ở nơi rẻ và bán ở nơi đắt. Nghĩa là mua với tỷ giá
thấp và bán với tỷ giá cao.
Hình thức này được thể hiện dưới hai dạng: kinh doanh giản đơn và kinh
doanh phức tạp. Kinh doanh giản đơn là việc mua bán ngoại tệ được thực hiện
7
7
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ở hai thị trường khác nhau trong cùng một thời điểm. Kinh doanh phức tạp là
việc mua bán ngoại tệ thông qua nhiều thị trường, từ 3 thị trường trở lên. Dù
là giản đơn hay phức tạp, hình thức này chỉ áp dụng giao dịch giữa ngân hàng
với ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của các nhà kinh tế có thu
chi ngoại tệ vẫn diễn ra thường xuyên, để đạt được hiệu quả trong việc sử
dụng các loại ngoại tệ, họ đã yêu cầu ngân hàng sử dụng hình thức
ARBITRAGE để thực hiện dịch vụ cho họ. Khi đó,ngân hàng với tư cách là
người phục vụ khách hàng và thu phí.
Khi thực hiện hình thức này, người ta áp dụng tỷ giá giao ngay, là tỷ giá
áp dụng tại thời điểm giao dịch (J) nhưng ngày giá trị của nó là sau hai ngày
việc (J+2). Trong trường hợp khách hàng cần giao dịch với hai đồng ngoại tệ
thì ngân hàng phải xác định tỷ giá chéo của hai loại đồng tiền thông qua đồng
tiền trung gian thứ ba.
Nếu là giao dịch với khối lượng ngoại tệ lớn sẽ tạo ra một khoản chênh
lệch đáng kể cho khách hàng. Sở dĩ có khoản chênh lệch này là do có sự
chênh lệch khác nhau giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán của các đồng tiền. Trước
đây,hình thức này rất phát triển chiếm tới đến 40 % lợi nhuận kinh doanh
ngoại tệ của ngân hàng nhưng ngày nay, trên cơ sở những thông tin hiện đại,
các thị trường ngoại hối trở nên thông suất hình thức kinh doanh
ARBITRAGE trên không cón ý nghĩa lớn trong kinh doanh ngoại hối.
Khái niệm hình thức kinh doanh ARBTRAGE ngày nay được hiểu là việc
mua bán ngoại tệ để nhằm thu lợi nhuận từ chênh lệch tỷ giá mua tỷ giá bán,
nhưng hai hoạt động đối ứng này không phát sinh cùng một thời điểm mà
thông thường liên quan tơí những phát sinh khi cân đối ngoại tệ.
* Điều kiện để thực hiện hình thức kinh doanh ARBITRAGE là :
Trước hết, Ngân hàng phải là thành viên của hện thống thông tin điện tử,
ở đó Ngân hàng có thể thường xuyên theo dõi biến động tỷ giá các thị trường
khác nhau trên thế giới, đồng thời có thể đưa ra tỷ giá chào mua, chào bán của
mình.
Thứ hai, cán bộ kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng cần có trình độ, phản
ứng linh hoạt với thị trường. Người kinh doanh ngoại tệ phải biết thông tin
8
8
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
kinh tế chính trị, xã hội phải dự đoán được phản ứng của thi trường trước
những thông tin đó, đưa ra được mức tỷ giá thực tế luôn biến động ( ví dụ :
Khi nhận được thông báo thu từ nước ngoài vào Pháp giảm nhẹ trong tháng
qua, dự đoán xuất khẩu giảm sẽ dẫn tới giảm cung USD trong tương lai, lập
tức cán bộ ngân hàng Pháp ấn định tỷ giá của mình tăng cao một chút để tránh
những thiệt hại xẩy ra. Một ngân hàng Đức có 3 triệu USD chưa cân đối được
sau một hợp đồng bán FRF với khách hàng, nhận thấy cố thể thu lợi từ tỷ giá
chào mua vừa tăng của ngân hàng Pháp, lập tức bán 3 triệu USD này cho
ngân hàng Pháp.
Như vậy, các ngân hàng liên tục thay đổi tỷ giá, liên tục giao dịch ngoại tệ
trong ngày nhằm tránh rủi ro trước những biến động tỷ giá và thu lơị nhuận
ARBITRGE. Lợi nhuận này có thể thấp hơn lợi nhuận tính theo khoảng cách
giữa tỷ giá mua vào và bán ra của ngân hàng.
1.2.3. Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn (FORWARD):
Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng kỳ hạn được thực hiện bằng
hợp đồng mua bán bằng ngoại tệ kỳ hạn, trong đó việc hoàn tất hình thức này
được thực hiện vào một thời điểm nhất định sau đó, với tỷ giá nhất định đã
được quy định trong hợp đồng tại thời điểm ký kết.
Khác với hình thức mua bán theo hợp đồng giao ngay là kinh doanh
chênh lệch giá kiếm lời, hình thức mua bán theo hợp đồng kỳ hạn chủ yếu là
phòng ngừa rủi ro do biến động của tỷ giá tại thời điểm chuyển đổi quyền sở
hữu về tài sản hữu hình của các chủ thể kinh tế trong nước và nước ngoài với
tỷ giá tại thời điểm thanh toán các giao dịch trong tương lai.
Đối với ccác nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, họ luôn có nguồn thu chi về
ngoại tệ trong nước cũng như nứoc ngoài và họ không thể tránh khỏi rủi ro do
các đồng ngoại tệ đem lại , vì nó luôn biến động theo chiều hướng tăng hoặc
giảm. Chính vì vậy các nhà xuất nhập khẩu, thực hiện hợp đồng với nước
ngoài về xuất khẩu một loại hàng hoá nào nhưng việc thanh toán không xẩy ra
ngay sau khi giao hàng mà nó xảy ra vào một ngày ấn định trong tương lai .
Trong khi đó tỷ giá các đồng ngoại tệ có thể thay đổi theo chiều hướng giảm ,
nghĩa là đồng ngoại tệ bị mất giá và đến ngày thanh toán nhà xuất khẩu nhận
9
9
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
được số tiền bản tệ “ít hơn” so với lúc giao hàng. Vì vậy, để giảm bớt rủi ro,
Anh ta ký với ngân hàng một hợp đồng gọi là hợp đồng có kỳ hạn với đúng
bằng thời hạn thanh toán của người nứơc ngoài. Ngược lại các nhà nhập khẩu,
để tránh khỏi rủi ro khi tỷ giá tăng họ cũng có thể ký hợp đồng mua với ngân
hàng.
“Hợp đồng mua bán kỳ hạn” là một hợp đồng trao đổi một đồng tiền này
với một đồng tiền khác, tỷ giá trao đổi trong tuơng lai được ấn định ngày ký
hợp đồng (J), việc giao vốn đựoc thực hiện ở một ngày xác định trong tương
lai (J+N)
Thị trường hối đoái giao ngay và thị trường hối đoái kỳ hạn có những đặc
điểm chung về phạm vi nhân sự tham dự và tổ chức thị trường, kỹ thuật ký
kết hợp đồng, ưu thế giao dịch của đồng USD. Điểm khác lớn nhất giữa
chúng thể hiện ở chỗ : Trên thị trường kỳ hạn , tỷ giá giao dịch ít phụ thuộc
vào mức độ cung cầu thời hạn mà phụ thuộc lớn vào mức chênh lệch lãi suất
giữa hai đồng tiền giao dịch .
* Điều kiện để thực hiện hình thức kinh doanh theo hợp đồng kỳ hạn là:
+ Các quy định của pháp luật phải cho phép, tạo điều kiện cho các ngân
hàng qua các quy định về xác định tỷ giá kỳ hạn, phí hợp đồng...
+ Khách hàng biết đến hình thức này của ngân hàng và có yêu cầu thực
hiện nó nhằm tránh những biến động tỷ giá ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động
kinh doanh của khách hàng.
+ Khả năng của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nếu ngân
hàng chỉ thực hiện một hình thức kỳ hạn đơn lẻ, ngân hàng có thể phải gánh
chịu một rủi ro hối đoái thay cho khách hàng của mình. Vậy khả năng, mối
quan hệ của ngân hàng với khách hàng khác, với các ngân hàng bạn trong
nước và thế giới là yếu tố quan trọng để ngân hàng thực hiện được các hình
thức đối ứng, loại trừ rủi ro trên. Hơn nữa, ngân hàng còn có khả năng đưa ra
mức tỷ giá kỳ hạn hấp dẫn với khách hàng hơn các ngân hàng khác.
10
10
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.2.4.Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo hợp đồng tương lai
Đây là một hình thức hối đoái mới, đưa vào các giao dịch ngoại tệ từ đầu
những năm 80. Hình thức này cũng được thực hiện gần giống với hợp đồng
kỳ hạn,trong đó quy định tránh nhiệm mua hoặc bán một khối lượng ngoại tệ
nhất định vào thời điểm ấn định và theo tỷ giá thoả thuận từ trước. Điểm khác
biệt giữa hợp đồng tương lai và hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng tương lai được
tiêu chuẩn hoá, cụ thể như sau:
* Số đồng tiền giao dịch chỉ giới hạn ở một số ít đồng tiền cò lưu lượng
giao dịch lớn.
* Quy mô của từng giao dịch : Được quy định là bội chuẩn theo từng
loại đồng tiền giao dịch.
* Thời điểm tất toán : Được quy định là một số thời điểm nhất định
trong năm, bất kể hợp đồng được ký kết vào các thời gian khác nhau.
*Phương thức đánh dấu thị trường : Các loại động trên thị trường hối
đoái tương lai không tất toán trực tiếp giữa người bán và người mua.Việc ký
kết mỗi một hoạt động là việc ký kết với quỹ cân đối . Các hợp đồng dược
đảm bảo thực hiện bằng giá trị nguồn đảm bảo tại quỹ cân đối, quỹ này sau
mỗi ngày làm việc có trách nhiệm đánh giá lại các hợp đồng giao dịch cuối
ngày. Nếu có sự thay đổi về giá so với hợp đồng đã ký kết , quỹ cân đối sẽ
thực hiện ba hoạt động đó là ; Chuyển tiền từ nguồn đảm bảo của bên bị thiệt
hại sang bên được lợi, huỷ bỏ hợp đồng cũ và ký kết hợp đồng mới.
* Khác với các giao dịch hối đoái kỳ hạn, các giao dịch hối đoái tương
lai rất ít được duy trì cho tới thời điểm tất toán. Trong khi tỷ lệ hợp đồng kỳ
hạn được thực hiện là 90% thì với giao dịch hối đoái chỉ khoảng 10%. Thông
thường ở giao dịch tương lai, chỉ có các hình thức thanh toán chênh lệch tại
thời điểm tất toán.
1.2.5. Hình thức kinh doanh ngoại tệ hoán đổi.
Trong hình thức kinh doanh kỳ hạn, một ngân hàng chỉ hoạt động một
giá để phục vụ khách hàng của mình, nghĩa là ngân hàng mua hoặc bán ngoại
tệ theo tỷ giá kỳ hạn mà không đồng thời thoả thuận với khách hàng một hình
thức đối ứng bán hoặc mua lại. Những hình thức như vậy được gọi là hình
11
11
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
thức có kỳ hạn đơn phương (SOLO) chỉ được các ngân hàng thực hiện với
khách hàng hoặc theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Ngược lại, giữa các ngân
hàng người ta sử dụng phổ biến hình thức SWAP,đó là hình thức mà mua bán
ngoại tệ thực hiện cùng một bạn hàng, Ngân hàng đồng thời mua và bán hai
loại ngoại tệ khác nhau theo tỷ giá giao ngay và theo tỷ giá kỳ hạn.
* Hình thức SWAP thông thường:
Nếu tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch có kỳ hạn nhằm hạn chế rủi ro do
những biến động lớn về tỷ giá thì hình thức SWAP là nghiệp vụ được thực
hiện nhằm giải quyết những nhu cầu tạm thời.
* Điều kiện để thực hiện hình thức SWAP cũng tương tự như với hình
thức hợp đồng kỳ hạn, tuy nhiên SWAP có những ưu điểm hơn so với hợp
đồng kỳ hạn đối với một số đối tượng sau :
+ Một doanh nghiệp lớn vừa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Doanh
nghiệp này vừa nhận được khoản thu ngoại tệ về xuất khẩu, anh ta muốn đổi
nội tệ để sử dụng chi trả trong nước. Tuy nhiên, anh ta lại có nhu cầu ngoại tệ
trong tháng tới để trả tiền hàng nhập khẩu. Thay vì ký kết hợp đồng bán ngoại
tệ giao ngay và hợp đồng mua ngoại tệ kỳ hạn, doanh nhiệp này sẽ sử dụng
SWAP. Như vậy doanh nghiệp vừa đảm bảo tránh được rủi ro hối đoái vừa
giảm được chi phí giao dịch phải trả cho ngân hàng khi chỉ ký kết SWAP, chứ
không phải hai hợp đồng riêng biệt.
+ Đối với Ngân Hàng Thương Mại, SWAP là công cụ hữu hiệu tạo ra
trạng thái vốn của hai đồng tiền mà không làm ảnh hưởng tới trạng thái ngoại
hối . Vì vậy, giao dịch này trong thực tế thường được các ngân hàng thực hiện
với nhau nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng một đồng tiền nhất định mà không
phải đi vay trên thị trường. Hình thức SWAP còn giúp các ngân hàng cân
bằng được sự mất cân đối về hối đoái trong các hình thức tiền gửi và tiền vay.
1.2. 6. Hình thức kinh doanh ngoại tệ theo quyền chọn
Hình thức hối đoái theo quyền chọn là một sự thoả thuận bằng hợp đồng
giữa người mua và người bán về quyền chọn mua (call-option) hoặc quyền
12
12
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
chọn bán (put-option), một loại ngoại tệ nhất định, với số lượng cụ thể theo tỷ
giá cố định và vào thời điểm cụ thể.
Trong hợp đồng này, người mua quyền lựa chọn phải trả cho người bán
một khoản tiền đảm bảo. Thông qua đó, người mua dành được quyền mua
hoặc bán một loại ngoại tệ nào đó. Mặt khác, anh ta có thể từ chối bỏ quyền
lựa chọn của mình khi thấy bất lợi. Rủi ro của người mua quyền lựa chọn chỉ
giới hạn ở số tiền phải trả cho quyền đó . Ngược lại, người bán quyền chọn
thu được một khoản tiền từ việc bán quyền nhưng trở thành đối tác thụ động,
chịu rủi ro không hạn mức khi tỷ giá biến động không thuận lợi với anh ta.
Như vậy, hợp đồng quyền chọn là một công cụ đảm bảo tỷ giá thực sự cho các
nhà kinh doanh XNK, các nhà đầu tư tham gia vào thị trường quyền chọn,
ngoài các ngân hàng các nhà XNK còn có các tổ chức kinh tế có ngoại tệ trên
tài khoản, muốn tăng thu nhập bằng việc thu các lệ phí quyền và chấp nhận
làm đối tác thụ động, hay các hãng đầu cơ tham dự với mục đích thu lợi
nhuận chênh lệch.
Hình thức này có ưu điểm hơn hình thức kỳ hạn là bên cạnh việc khắc
phục rủi ro về tỷ giá bất lợi của nó còn tạo khả năng kiếm lời cho người mua
quyền lựa chọn, khi tỷ giá biến động có lợi. Tuy nhiên, để có quyền lựa chọn
các nhà kinh doanh hối đoái phải trả môt khoản phí đảm bảo quyền lựa chọn
mua bán, phí này phụ thuộc vào các yếu tố sau :
* Sự ổn định của tỷ giá các đồng giao dịch : Đây là yêú tố quan trọng
hàng đầu ảnh hưởng đến mức phí, đối với đồng tiền có khả năng biến động
giá mạnh thì mức phí cao và ngược lại những đồng tiền tương đối ổn định thì
mức phí thấp.
Miền hoạt động của các đồng tiền giao dịch: Với những đồng tiền của các
quốc gia phát triển như USD, FRF, GBP ... có doanh số giao dịch lớn, có khả
năng chyển đổi mạnh thì mức phí thấp và ngược lại những đồng tiền của
những nước kém phát triển khó chuyển đổi và ngoại tệ mạnh thí mức phí cao.
* Thời hạn hiệu lực của hợp đồng mua bán quyền lựa chọn : Thời hạn
càng dài thì khả năng kiếm lời của nhà kinh doanh mua quyền chọn càng cao
và tất nhiên với đối tác thụ động thì rủi ro càng nhiều. Vì vậy, phí cho thời
13
13
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
hạn dài thường lớn hơn phí trong mua bán quyền lựa chọn với thời hạn ngắn
rất nhiều.
Mức lãi suất của đồng tiền dùng thanh toán phí mua bán quyền lựa chọn :
Đối với đối tác thụ động coi đây là khoản phí tiền gửi không có lãi, do vậy lãi
suất đồng tiền này cao thì phí càng cao và ngược lại.
Thông thường, các ngân hàng là người bán các hợp đồng quyền lựa chọn
cho khách hàng XNK của mình. Vì phải ngánh chịu rủi ro nên việc xác định
mức tiền đảm bảo cho hợp đồng lựa chọn rất quan trọng.
3 . SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI
TỆ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Để thấy được sự cần thiết phải đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại
tệ ở các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam hiện nay ta đánh giá vai trò
hoạt động kinh doanh ngoại tệ đối với bản thân ngân hàng với bản thân
ngân hàng và đối với nền kinh tế như thế nào .
Ngày nay việc trao đổi hàng hoá ngày càng mở rộng vượt ra khỏi biên giới
của một quốc gia làm nảy sinh việc thanh toán giữa quốc gia này với quốc
gia khác , giữa doanh nghiệp quốc gia này với doanh nghiệp quốc gia khác
trong quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế . Thanh toán quốc tế thường
gắn với việc trao đổi đồng tiền nước này với đồng tiền nước khác .
Nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thanh toán quốc tế, đầu tư vốn bằng
nhiều loại tiền khác nhau, các Ngân Hàng Thương Mại đã tiến một bước
dài vượt ra khỏi những kinh doanh truyền thống để thực hiện các hoạt
động nhận gửi , cho vay và mua bán ngoại tệ trên thị trường hối đoái .
Khi đó hoạt động kinh doanh ngoại tệ nói riêng càng thể hiện vai trò quan
trọng không chỉ đối với ngân hàng mà còn cả đối với nền kinh tế
3.1 Đối với bản thân ngân hàng
- Đối với một Ngân Hàng Thương Mại , hoạt động kinh doanh ngoại tệ
đảm bảo chắc chắn việc thực hiện thanh toán cho khách hàng của ngân
hàng giữa các nước thực hiện trôi chảy , thoả mãn nhu cầu tối đa ngày
càng cao của khách hàng , tăng qui mô của ngân hàng thông qua việc thúc
14
14
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
đẩy mạnh hoạt động tài trợ tín dụng xuất nhập khẩu , thu hút thêm được
nhiều khách hàng đến với ngân hàng
- Thông qua các hình thức mua bán trên thị trường hối đoái đem lại lợi
nhuận cho ngân hàng , tăng cường sức mạnh phòng chống rủi ro , khả
năng cạnh tranh của ngân hàng .
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ góp phần tích cực vào việc đa dạng hoá
các loại hình , hình thức của ngân hàng ( phát triển các hình thức thanh
toán quốc tế , bảo lãnh và các hoạt động hình thức khác ).
3.2 Đối với nền kinh tế
- Ngân hàng tham gia vào thị trường ngoại hối trước hết nhằm đáp ứng
nhu cầu khách hàng . Các khách hàng cần đến vai trò trung gian của ngân
hàng vì ngân hàng là trung tâm thanh toán trong nền kinh tế , có mối quan
hệ thường xuyên rộng khắp với các chủ thể kinh tế nên có khả năng kết nối
người cần mua với người cần bán ngoại tệ .
- Ngân hàng là các chuyên gia trên thị trường ngoại hối , có phương tiện
kỹ thuật , có đội ngũ nhân viên am hiểu về thị trường nên ngân hàng có thể
nắm được thông tin thị trường có khả năng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu
khách hàng . Vì vậy Ngân hàng cung cấp dịch vụ một cách tốt nhất có thể
cho khách hàng bằng cách tạo ra khả năng tiếp cận hoàn hảo nhờ các
phương tiện thông tin hiện đại , cung cấp tỷ giá cạnh tranh , thực hiện giao
dịch nhanh chóng , chính xác tư vấn cho khách hàng ,thậm chí có thể đưa
ra lời khuyên cho khách hàng ngay cả sau khi giao dịch được thực hiện
nếu có biến động lớn trên thị trường ảnh hưởng đến quyền lợi của khách
hàng .
Một ngân hàng hiện đại sẽ có một đội ngũ nhân viên chuyên giao dịch với
khách hàng phân biệt với các nhân viên chuyên giao dịch trên thị trường
Liên Ngân Hàng luôn đáp ứng nhu cầu khách hàng .
- Kinh doanh ngoại tệ ra đời và phát triển theo sự đòi hỏi của hoạt động
thương mại quốc tế . Ngân hàng cung cấp vốn ngoại tệ cho các doanh
15
15
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
nghiệp nhập khẩu máy móc , thiết bị phuc vụ nhu cầu sản xuất trong nước
và xuất khẩu hàng hoá mở rộng thị trường . Ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu
ngoại tệ cho doanh nghiệp cả trong lúc thị trường sẵn ngoại tệ cũng như thị
trường khan hiếm ngoại tệ để doanh nghiệp có thể thanh toán đúng hạn với
đối tác của mình .
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ vì thế đã tạo điều kiện thuận lợi cho
thương mại quốc tế phát triển . Đặc biệt đối với một nước đang trên đường
hội nhập quốc tế như Việt Nam, hoạt động kinh doanh ngoại tệ góp phần
góp phần thúc đẩy , mở rộng mối quan hệ kinh tế nội địa với kinh tế thế
giới bên ngoài , dần khẳng đinh và nâng cao vị thế quốc gia trên trường
quốc tế .
Với vai trò quan trọng như vậy việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại
tệ ở các Ngân Hàng Thương Mại nước ta hiện nay là rất cần thiết .
4/ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH NGOẠI TỆ Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
4.1 Những nhân tố nội tại trong bản thân ngân hàng
Đây là yếu tố thuộc về chủ quan nên mỗi ngân hàng đều có khả năng
kiểm soát được nó , là yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh
doanh . Sau đây là các yếu tố tác động đến hoath động kinh doanh ngoại tệ
của ngân hàng
Khách hàng của ngân hàng :
Ngân hàng kinh doanh ngoại tệ trước hết là nhằm đáp ứng nhu cầu của
khách hàng . Ngân hàng càng thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng bao
nhiêu thì càng thu hút nhiều hơn khách hàng đến với mình , mạng lưới
khách hàng càng mở rộng . Điều này lại tác động trở lại đối với hoạt động
kinh doanh của ngân hàng chẳng hạn như ngân hàng nào càng có nhiều
khách hàng có nhu cầu thanh toán và đầu tư quốc tế thì càng có điều kiện
để phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ . Chính do hoạt động trung
gian với khách hàng mà ngân hàng tham gia mua bán ngoại tệ trên thị
16
16
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
trường ngoại hối cho chính mình để cân bằng lại trạng thái ngoại tệ và sau
đó tìm kiếm lợi nhuận khi trình độ kinh doanh của họ phát triển
Khả năng của một ngân hàng:
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đòi hỏi phải đầu tư về công nghệ và về con
người . Về mặt công nghệ đòi hỏi một hệ thống nối mạng xử lí thông tin và
giao dịch tự động. Nhờ vào hệ thống này mà các nhân viên kinh doanh
ngoại tệ có thể nắm bắt được diễn biến trên thị trường. Nhân viên kinh
doanh phải có hình thức chuyên môn, linh hoạt nhạy bén, quyết định của
họ có thể làm lợi rất lớn cho ngân hàng hoặc gây thiệt hại cũng không nhỏ.
Nhân viên chuyên giao dịch với khách hàng cũng cần có khả năng thực
hiện giao dịch tư vấn, phối hợp với nhân viên giao dịch trực tiếp trên thị
trường. Như vậy đội ngũ cán bộ nhân viên phải dược đào tạo hệ thống bài
bản.
Chính sách của ngân hàng:
Chính sách phát triển kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng phải đặt trong
mối quan hệ với các chính sách tín dụng, chính sách về các hoạt động đối
ngoại. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có mối quan hệ hỗ trợ gắn bó với
các hoạt động sẵn có của ngân hàng thì ngân hàng sẽ đầu tư vào công
nghệ, nhân sự ... Để phát triển nghiệp vụ này do những khoản đầu tư này
đòi hỏi chi phí lớn .
Quan diểm của ngân hàng về rủi ro và lợi nhuận:
Các ngân hàng khác nhau cũng có quan điểm khác nhau về rủi ro và
lợi nhuận.
Những ngân hàng mong muốn thu được lợi nhuận rủi ro cao thường tham
gia vào các hoạt động đầu cơ. Đối với một số ngân hàng nguồn thu chủ
yếu của họ là từ hoạt động đầu cơ. Đó là việc mua bán một đồng tiền dựa
trên dự đoán về biến động tỷ giá. Đầu cơ tạo lợi nhuận cho nhiều ngân
hàng mà cũng có thể làm cho họ phá sản .
Các ngân hàng thận trọng thường giới hạn hoạt động của mình trong các
hoạt động trung gian với khách hàng và các hoạt động bảo hiểm về rủi ro
17
17
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Tất thảy các yếu tố này đều tác động đến hoạt động kinh doanh nói chung
và hoạt động kinh doanh ngoại tệ nói riêng của ngân hàng . Điều này giải
thích tại sao trong cùng một môi trường kinh doanh , cùng chịu một chế độ
quản lí mà có ngân hàng hoạt động tốt và hoạt động chưa tốt , vị thế cạnh
tranh của mỗi ngân hàng khác nhau .
4.2 Các yếu tố bên ngoài ngân hàng
4.2.1 Tỷ giá hối đoái và lãi suất
Tỷ giá hối đoái và lãi suất là hai biến số rất quan trọng trong việc mua
bán ngoại tệ . Một khi có sự biến động sảy ra thì các ngân hàng buộc phải
điều chỉnh các quyết định kinh doanh của mình .
Tuy nhiên tỷ giá hối đoái và lãi suất chịu tác động của nhiều nhân tố
như: sức mua của đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát của các nước liên quan,
chênh lệch lãi suất giữa các đồng tiền, các nhân tố tác động đến cung cầu
hàng hoá, yếu tố tâm lí của công chúng, vị thế của các nước liên quan trên
trường quốc tế, tình hình kinh tế thế giới, chính sách tỷ giá hối đoái của
quốc gia .
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ gắn liền với sự biến động của tỷ giá trên
thị trường . Các thành viên trên thị trường luôn theo dõi diễn biến của tỷ
giá để ra quyết định mua hay bán một loại ngoại tệ nào đó . Dự báo tỷ giá
quan trọng đối với ngân hàng. Dự báo dài hạn và trung hạn là cơ sở cho
chính sách và chiến lược. Dự báo ngắn hạn là cơ sở cho các quyết định về
hình thức .
Trên thị trường nếu tỷ giá biến động mạnh thì ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Nhưng ngược lại nếu tỷ giá cố định các
hình thức kinh doanh ngoại tệ cũng không thể phát triển phong phú được .
ở những nước đang phát triển , chế độ điều tiết tỷ giá trở nên linh hoạt hơn
, điều này khuyến khích sự phát triển hình thức kinh doanh của Ngân Hàng
Thương Mại .
18
18
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
4.2.2 Sự phát triển của thị trường hối đoái
Thị trường hối đoái là nơi diễn ra hoạt động kinh doanh ngoại tệ . Thị
trường hối đoái tác động đến sự thành công hay thất bại của hoạt động
kinh doanh ngoại tệ thông tỷ giá và lãi xuất .
Tuy nhiên , mức tác động và việc thực hiện các chức năng trên lại phụ
thuộc vào trình độ phát triển của thị trường . Đối với thị trường hối đoái
chưa phát triển thì hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng chỉ mang tính sơ
khai , có ít các ngiệp vụ kinh doanh ngoại tệ , đôi khi là hình thức chưa
mang lại hiệu quả trong kinh doanh.
Trong phạm vi một quốc gia , trung tâm của thị trường hối đoái là thị
trường Liên Ngân Hàng . Ở Việt Nam việc tổ chức và vận hành tốt hoạt
động của thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng cũng chính là tiền đề , là nền
tảng vô cùng quan trọng cho việc thiết lập thị trường hối đoái cho hoàn
chỉnh . Thông qua thị trường ngoại tệ Liên Ngân Hàng , ngân hàng nhà
nước sử dụng quĩ điều hoà ngoại tệ với tư cách là người mua bán cuối
cùng để can thiệp vào thị trường một cách có hiệu quả nhằm thực hiện
chính sách tiền tệ , tỷ giá của chính phủ .
4.2.3 Chính sách quản lí ngoại hối của nhà nước
Chính sách quản lí ngoại hối của một quốc gia là những qui định thể lệ của
nhà nước trong việc quản lí ngoại tệ , vàng bạc đá quí và các chứng từ có
giá trị ghi bằng ngoại tệ trong vấn đề trao đổi , sử dụng mua bán trên thị
trường nội địa và quan hệ thanh toán tín dụng với nước ngoài .
Nội dung của chính sách ngoại hối là quản lí các nguồn vận động của
ngoại hối từ nước ngoài vào trong nước và ngược lại , đồng thời chính
sách quản lí ngoại hối cũng kiểm soát việc lưu thông và sử dụng ngoại hối
trong phạm vi quốc gia tuỳ theo đặc điểm mục tiêu phát triển của nền kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia mà quốc gia đó quản lí kinh doanh ngoại hối
theo các loại hình :
19
19
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Chính sách nhà nước độc quyền quản lí ngoại thương ngoại hối , với
chính sách này toàn bộ quan hệ kinh tế đối ngoại do nhà nước độc
quyền nắm giữ . Việc xuất nhập khẩu hàng hoá hay vay mượn nước
ngoài đều tập trung trong tay nhà nước và được thống nhất quản lí .
Việc chuyển đổi ngoại tệ ra nội tệ do xuất khẩu hàng hoá đều thực hiện
qua tỷ giá do nhà nước ấn định mang tính chất áp đặt chủ quan. Trong
xã hội nghiêm cấm mua bán kinh doanh tàng trữ ngoại hối .
- Chính sách thắt chặt quản lí ngoại thương ngoại hối : Đặc trưng cơ bản
của chính sách này là nhà nước không nắm giữ độc quyền trong kinh tế
đối ngoại song nhà nước quản lí gắt gao đối với toàn bộ việc xuất nhập
khẩu hàng hoá cũng như xuất nhập khẩu tư bản , thực hiện việc xây
dựng hàng rào thuế quan, quản lí chặt chẽ các luồng vận động của
ngoại hối .
Trong cơ chế này toàn bộ ngoại hối bất kì tổ chức hay cá nhân có được từ
bất kể nguồn nào đều phải bán cho nhà nước thông qua hệ thống ngân
hàng . Các tổ chức cá nhân được phép mở tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng
phải chịu sự quản lí , kiểm soát của ngân hàng . Khi cần ngoại tệ để nhập
hàng hoá hay thanh toán cho nước ngoài phải được sự đồng ý của cơ quan
có thẩm quyền . Nếu cần chỉ tiêu trong lãnh thổ cần rút nội tệ ra .
- Chính sách nới lỏng quản lí ngoại thương ngoại hối : Chính sách này
không quản lí chặt chẽ việc đầu tư tư bản cũng như quan hệ thương mại
xuất nhập khẩu hàng hoá , đồng thời cho phép mở rộng các mặt hàng
xuất nhập khẩu đối với các thành phần kinh tế .
Chính phủ tham gia vào thị trường hối đoái như một thành viên để tác
động vào tỷ giá trong trường hợp cần thiết có lợi cho nền kinh tế . Các tổ
chức cá nhân có ngoại tệ thu từ bất kể nguồn nào đều có quyền bình đẳng
và được tự do mở tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng . Khi cần thu hút ngoại
tệ , chính phủ sẽ mua lại của các chủ tài khoản thông qua công cụ lãi xuất
tỷ giá ...
- Chính sách tự do quản lí ngoại thương , ngoại hối : Nội dung của chính
sách này là thực hiện tự do hoá ngoại thương và ngoại hối với cơ chế
20
20
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
thị trường . Vai trò của chính phủ là điều tiết quản lí ở tầm vĩ mô ,
không hạn chế hay quản lí gắt gao ngoại hối , cũng như ngoại thương,
hoàn toàn xoá bỏ hàng rào thương mại . Các luồng vận động của hàng
hoá , dịch vụ cũng như luồng hoạt động của ngoại hối nói chung phụ
thuộc vào cơ chế điều tiết của thị trường và qui luật cung cầu .
Như vậy chính sách quản lí ngoại hối có tác động mạnh mẽ tới sự phát
triển của thị trường ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân
hàng .
Các nước phát triển có đồng tiền tự do chuyển đổi , nhà nước chỉ tác động
vào thị trường hối đoái bằng các công cụ thị trường .
Ngược lại ở các nước đang phát triển ,chế độ quản lí ngoại hối tương đối
chặt chẽ . Nhà nước sẽ đưa ra những qui định cụ thể cho hoạt động kinh
doanh này như qui định về loại ngoại tệ , chế độ thực hiện các giao dịch
hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng . Mọi hoạt động kinh doanh
ngoại tệ phải nằm trong khuôn khổ của các qui định này.
Ngoài ra chính sách quản lí ngoại hối có ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế
đối ngoại , từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân, đến khả năng
chuyển đổi của đồng bản tệ .
Việc áp dụng chế độ quản lí ngoại hối chặt chẽ đến mức nào phụ thuộc vào
diều kiện từng nước . Một chính sách quản lí ngoại hối đúng đắn phù hợp
sẽ có tác động kinh doanh đối ngoại , dẫn đến sự phát triển kinh doanh
ngoại tệ . Trái lại chính sách quản lí ngoại hối cứng nhắc , không hợp lí sẽ
gây nhièu trở ngại , kìm hãm hoạt động kinh doanh ngoại tệ , cản trở sự
phát triển của thị trường hối đoái
4.2.4 Tình hình chính trị kinh tế xã hội
Một đất nước có tình hình chính trị kinh tế xã hội ổn định vững mạnh
tạo được lòng tin với các nhà đầu tư trong và ngoài nước , là nhân tố thuận
lợi thúc đẩy phát triển kinh tế cùng các hoat động tài chính tiền tệ .
21
21
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Trên cơ sở đó , đồng bản tệ của quốc gia này có giá trị và ổn định trên thị
trường , giành được một tỷ giá hối đoái thuận lợi trao đổi kinh doanh ngoại
tệ với nước ngoài .
Trái lại một đất nước có tình hình xã hội rối ren , có nhiều mâu thuẫn xung
đột , nội chiến về đảng phái sắc tộc ... Sẽ tác động tích cực đến hoạt động
kinh tế sản suất , thương mại quốc tế...
Một quốc gia có hoạt động ngoại thương phát triển dẫn đến hoạt động
thanh toán phát triển thì hoạt động kinh doanh ngoại tệ sẽ thuận lợi và
ngày càng mở rộng vì buôn bán với nước ngoài là bộ phận lớn tuyệt đối
trong bộ phận cung và cầu ngoại tệ .
Ngoài ra đầu tư nước ngoài vào trong nước hay đầu tư trong nước ra nước
ngoài cũng là những loại hình của ngoại thương và chuyển dịch vốn làm
phát sinh nhu cầu hay gia tăng ngoại tệ .
Thực tế cho thấy , các nước có nền kinh tế phát triển thì hoạt động kinh
doanh ngoại tệ cũng phát triển . Sự phát triển này ban đầu nhằm đáp ứng
các nhu cầu thương mại quốc tế đến trình độ nào đó các ngân hàng kinh
doanh cho chính mình để kiếm lơì và bảo hiểm rủi ro . Còn ở các nước
đang phát triển , hoạt động kinh doanh ngoại tệ cũng đơn giản , nhu cầu
giao dịch ngoại tệ cũng không lớn , trình độ các thành viên tham gia thị
trường cũng hạn chế .
Các chỉ số vĩ mô như tăng trưởng , lạm phát tình trạng cán cân thanh toán
được các nhà lãnh đạo ngân hàng , những người vạch ra chiến lược phát
triển ngân hàng nói chung và chính sách phát triển kinh doanh ngoại tệ nói
riêng rất quan tâm . Các nhân viên kinh doanh ngoại tệ cũng theo dõi
những chỉ số này để quyết định kinh doanh
22
22
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG KINH DOANH
NGOẠI TỆ TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG ĐỐNG ĐA
1/ TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM)
1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của Ngân Hàng Thương Mại
ít có thiết chế nào lại tác động đến đời sống con người và xã hội mạnh
mẽ như ngân hàng và hoạt động của nó . Có thể nói không ngoa rằng
không có hệ thống ngân hàng và hoạt động của nó thì nền kinh tế thế giới
không có được như ngày hôm nay .
Thế nhưng , không phải hoạt động ngân hàng bỗng dưng hiện sẵn ra
trong nền kinh tế . Vào thời điểm mà lãnh thổ của các cộng đồng chưa
được phân định , chiến tranh cướp bóc xảy ra khắp nơi trên các vùng có
dân cư . Các gia đình có của cải vật quí chỉ tìm thấy sự an tâm khi tài sản
của họ vào nhà thờ hay những thợ vàng . Đến lượt những người giữ hộ tài
sản thông minh này nhanh chón nhận thấy thật là phí phạm vì có nhiều
thương nhân rất cần có tiền để sản xuất kinh doanh trong khi đó họ có
lượng tiền dự trữ trong kho hầu như không đổi trong khoảng thời gian dài .
Nghiệp vụ cho vay từ đó xuất hiện.
Cùng với sự phát triển nền sản xuất hàng hoá , nhu cầu trao đổi hàng hoá ,
dịch vụ ngày càng nhiều , các ngân hàng đã thực hiện thêm nghiệp vụ
trung gian thanh toán . hoạt động Ngân Hàng Thương Mại đã phát triển vô
cùng nhanh chóng theo sự bành chướng của thương mại quốc tế .
Như vậy giống như mọi thiết chế vật chất tinh thần khác , để có được vị trí
như ngày hôm nay , hệ thống ngân hàng và hoạt động của nó đã đi từ
những bước hình thành cực kỳ thô sơ và không cái gì khác hơn , chính nhu
cầu cần phát triển của loài người và nền kinh tế là tác nhân thúc đẩy hoạt
động các ngân hàng không ngừng được cải thiện , nâng cao cả về thực
hành lẫn lí thuyết để có được như ngày hôm nay .
23
23
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
1.2 Các hoạt động cơ bản của Ngân Hàng Thương Mại
1.2.1 Huy động vốn
Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội là lẽ sống quan
trọng bậc nhất của Ngân Hàng Thương Mại . Đây là nghiệp nghiệp vụ
chủ yếu nhất để duy trì sự ổn định và phát triển của Ngân Hàng Thương
Mại .khác với các tổ chức hoạt động kinh doanh khác hoạt động chủ
yếu bằng vốn tự có , nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại chủ yếu là
tiền gửi . Nguồn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản nợ của
ngân hàng , nguồn này được huy động bằng cả ngoại tệ và nội tệ .
Ngoài ra ngân hàng còn có thể huy động thêm vốn bằng việc phát hành
chứng chỉ tiền gửi , trái phiếu và các giấy tờ có giá hoặc có thể vay vốn
từ các khoản dự trữ ngắn hạn của các ngân hàng khác , các tổ chức tài
chính trên thị trường tiền tệ và của ngân hàng nhà nước .
Như vậy việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư , của các tổ chức
đơn vị kinh tế qua hình thức tiền gửi là công tác cơ bản đầu tiên trong
hoạt động của Ngân Hàng Thương Mại và là hoạt động đặc trưng trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng .
Việc huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế tạo ra
cho ngân hàng có khả năng cung cấp tín dụng và thực hiện các hoạt
động đầu tư , qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo ra lợi nhuận
ngày càng cao cho ngân hàng .
1.2.2Hoạt động cho vay và đầu tư
Hoạt động cho vay của Ngân Hàng Thương Mại là nghiệp vụ có ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển và tồn tại của một ngân hàng , là
hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng
( chiếm từ 60 - 80% trong nghiệp vụ có của ngân hàng ) .Ngân hàng
thương mại cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp để ghực hiện các
khoản thanh toán và dự trữ hàng hoá ...
24
24
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Hoạt động đầu tư của ngân hàng có thể tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau như đầu tư chứng khoán , tham gia vào hoạt động sản xuất
kinh doanh với tư cách là người góp vốn ( hoạt động tài trợ đồng tài trợ
) góp phần nâng cao phần lợi tức của ngân hàng nhưng mục đích chính
là để thâm nhập vào nền kinh tế , nắm bắt thông tin để điều tiết cung
cấp vốn , kiểm soát được mục đích sử dụng tiền vay .
1.2.3Hoạt động trung gian
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại , các ngân hàng
đã thực hiện thêm hoạt động trung gian . Đóng vai trò là người trung
gian , ngân hàng thực hiện cung cấp cho khách hàng các dịch vụ như
làm trung gian thanh toán , uỷ thác cung cấp dịch vụ tài chính .
Với vai trò trung gian thanh toán , đại bộ phận chi trả về hàng hoá
dịch vụ của doanh nghiệp hay của cá nhân được chuyển giao cho ngân
hàng thực hiện . Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy lưu
thông hàng hoá , tiết kiệm chi phí lưu thông . Bên cạnh vai trò làm
trung gian thanh toán , ngân hàng còn quản lí các phương tiện thanh
toán một cách có hiệu quả nhờ hệ thống máy móc điện tử và các thiết
bị liên lạc hiện đại
2. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NHCT ĐỐNG ĐA VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM
KINH TẾ KỸ THUẬT CHỦ YẾU CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ
2.1Sự ra đời và phát triển của Ngân Hàng CôngThương( NHCT)Đống Đa
Thực hiện nghị định số 53/HĐBT ngày 16/3/1988 của Hội đồng Bộ
trưởng, hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển từ một cấp sang hai cấp trong
đó phân định rõ chức năng quản lý nhà nước của ngân hàng nhà nước và
chức năng kinh doanh của hệ thống NHTM. Trong bối cảnh lịch sử đó, cùng
với sự ra đời của NHCT Việt Nam ngày 1/7/1988 ,chi nhánh NHCT Đống Đa
được thành lập.
Là chi nhánh trực thuộc của NHCT Nà Nội từ năm 1988 đến 1990 là
thời kỳ chuyển đổi khó khăn của hệ thống ngân hàng nói chung và NHCT
25
25