Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Giáo trình Tài chính tiền tệ: Phần 2 - Trường ĐH Công nghiệp Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.02 KB, 93 trang )

Chương 5
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
5.1. Ngân hàng trung ương
5.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của NHTW
a. Sự ra đời và phát triển của NHTW các nước
Trong thời kỳ đầu hoạt động các ngân hàng thực hiện đồng thời các nghiệp vụ:
nhận tiền gửi và cho vay đối với khách hàng, phát hành các kỳ phiếu của mình vào lưu
thơng, thực hiện các dịch vụ ngân hàng như thanh toán, chuyển tiền, đổi tiền…
Từ thế kỷ XVIII, Nhà nước của các quốc gia đã bắt đầu can thiệp vào hoạt động
của hệ thống ngân hàng, bằng cách hạn chế số lượng các ngân hàng được phép phát
hành kỳ phiếu ngân hàng.
Đến thế kỷ XIX, ở các nước phát triển có xu hướng ra đời các đạo luật chỉ cho
phép một ngân hàng duy nhất phát hành tiền, còn các ngân hàng khác đơn thuần kinh
doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng. Ở Anh năm 1844, Nhà nước cấm các ngân
hàng tư nhân phát hành tiền, và toàn bộ nghiệp vụ phát hành tiền tệ được tập trung vào
Anh quốc ngân hàng. Ngân hàng cổ phần tư nhân Pháp thành lập năm 1800, đến năm
1948 độc quyền phát hàng giấy bạc ngân hàng trên toàn nước Pháp.
Đầu thế kỷ thứ XX, ở các nước các ngân hàng được phép phát hàng tiền đều
thuộc sở hữu tư nhân, Nhà nước khơng có điều kiện can thiệp các hoạt động kinh tế
thông qua các tác động của tiền tệ. Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 – 1933 đã
buộc Chính phủ các nước tăng cường can thiệp hơn nữa vào lĩnh vực kinh tế. Ngồi
việc điều tiết nền kinh tế thơng qua hệ thống pháp luật, chính sách thuế… Nhà nước
cần phải nắm lấy phương tiện cơ bản của kinh tế thị trường – tiền tệ để góp phần giải
quyết tình trạng bất ổn định trong nền kinh tế. Vì thế, sau tổng khủng hoảng kinh tế thế
giới 1929 – 1933, phần lớn các nước đã tiến hành quốc hữu hóa hoặc thành lập mới
ngân hàng phát hành thuộc sở hữu Nhà nước, nhằm nắm trọn quyền phát hành tiền tệ
để qua đó điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô. Canada quốc hữu hóa ngân hàng phát
hành năm 1938, Đức quốc hữu hóa ngân hàng phát hàng năm 1939, Pháp quốc hữu
hóa ngân hàng phát hành năm 1945, Anh quốc hữu hóa ngân hàng phát hành năm
1946… Từ đó, khái niệm ngân hàng trung ương được sử dụng để thay thế cho khái
niệm Ngân hàng phát hành.


Ngân hàng Trung ương không chỉ thực hiện chức năng phát hành tiền tệ vào lưu
thông, mà còn thực hiện chức năng quản lý về mặt nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng ngân hàng. Tuy nhiên, ở một số nước, ngân hàng phát hành khơng hồn tồn
thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, nhưng hoạt động vẫn mang tính chất như một ngân
hàng của Nhà nước, và người đứng đầu cơ quan quản lý cao nhất của nó là do chính
phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản là ngân hàng cổ phần
theo luật năm 1942, trong đó cổ phần Nhà nước chiếm 55%, cổ phần thuộc sở hữu tư
nhân chiếm 45%, nhưng cơ quan quản trị ngân hàng là hội đồng chính sách có bảy
thành viên do Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Ở Mỹ hệ thống dự trữ liên bang là
ngân hàng cổ phần tư nhân, nhưng cơ quan lãnh đạo cao nhất của ngân hàng này là
Hội đồng Thống đốc có 7 thành viên do Tổng thống đề cử và Quốc hội bổ nhiệm…
b. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng Nhà nước Việt Nam

91


Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập vào năm 1951, tiền thân là
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Trải qua 37 năm (1951 – 1988) hoạt động theo mơ
hình ngân hàng một cấp. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa đảm nhận chức năng của
ngân hàng Trung ương là phát hành tiền, quản lý Nhà nước về các hoạt động tiền tệ ngân hàng, vừa thực hiện chức năng của các ngân hàng thương mại. Nó được tổ chức
thống nhất từ Trung ương xuống địa phương (chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh,
thành phố và quận huyện). Mô hình tổ chức và hoạt động của ngân hàng Nhà nước
trong giai đoạn này là phù hợp với cơ chế kế hoạch hố tập trung. Tuy nhiên nó đã bị
hạn chế là khơng làm trịn cả chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh
tiền tệ. Kết quả là nền kinh tế rơi vào tình trạng vừa thiếu tiền mặt vừa lạm phát. Hoạt
động mang tính bao cấp của ngân hàng Nhà nước đã dẫn đến sự phân bổ và sử dụng
vốn thiếu hiệu quả.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, thi hành Nghị định số
53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 26/3/1988, hệ thống ngân hàng một cấp được
chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp: ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng

chuyên doanh. Ngân hàng Nhà nước hoạt động với các chức năng là ngân hàng phát
hành tiền, là cơ quan quản lý Nhà nước về tìên tệ, tín dụng và là cơ quan quản lý dự
trữ ngoại hối của Nhà nước. Với các chức năng đó, ngân hàng Nhà nước Việt Nam trở
thành ngân hàng Trung ương với đúng nghĩa của nó.
Với việc đổi mới tồn diện hoạt động của hệ thống ngân hàng, Nhà nước ban
hành hai Pháp lệnh ngân hàng (25/5/1990) và Luật ngân hàng (12/1997) thì ngân hàng
Nhà nước Việt Nam mới thực sự là ngân hàng Trung ương của Việt Nam. Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đựơc tổ chức theo mơ hình ngân hàng Trung ương trong nền kinh
tế thị trường và trực thụơc Chính Phủ. Khái niệm ngân hàng trung ương lần đầu tiên
được đề cập trong pháp lệnh ngân hàng Nhà nước và được hoàn thiện hơn trong qui
định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ
quan của Chính phủ và là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng,
là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng được
làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ”.
Quyền lực điều hành của ngân hàng Nhà nước tập trung vào ban lãnh đạo ngân
hàng gồm Thống đốc và các Phó thống đốc. Mơ hình tổ chức theo qui định của Luật
Ngân hàng Nhà nước: “Ngân hàng Nhà nước có trụ sở chính tại thủ đơ Hà nội và tổ
chức các chi nhánh ở những khu vực cần thiết”. Nhưng do nhu cầu cung ứng tiền và
quản lý Nhà nước về tiền tệ, tại các địa phương, cho nên hiện nay ở mỗi tỉnh, Thành
phố trực thuộc trung ương đều có một chi nhánh của ngân hàng Nhà nước. Các chi
nhánh này thực hiện chức năng ngân hàng trung trên phạm vi tỉnh và thành phố và
chịu sự lãnh đạo của Ngân hàng Nhà nước trung ương về tổ chức cũng như hoạt động
nghiệp vụ.
c. Định nghĩa ngân hàng Trung ương
Ngân hàng trung ương là một định chế quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và
ngân hàng, độc quyền phát hành tiền tệ, là ngân hàng của các ngân hàng thực hiện
chức năng tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ trong phạm vi cả nước nhằm ổn định giá
trị đồng tiền.
5.1.2. Mơ hình tổ chức ngân hàng Trung ương


92


Tuy có nhiều tên gọi khác nhau như ngân hàng trung ương, ngân hàng Nhà
nước, ngân hàng dự trữ liên bang…nhưng chúng đều có tính chất chung, đó là một cơ
quan thuộc bộ máy Nhà nước, được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục
tiêu cơ bản là ổn định giá trị đồng tiền, duy trì sự ổn định và an toàn trong hoạt động
của hệ thống ngân hàng, ban hành các văn bản pháp lý để hướng dẫn và giám sát hoạt
động của các ngân hàng kinh doanh.
Do tính chất đó, ngân hàng Trung ương nắm giữ một trong những công cụ quan
trọng nhất để quản lý nền kinh tế vĩ mơ, đó là chính sách tiền tệ. Bởi vậy, ngân hàng
Trung ương có vị trí đặc thù trong bộ máy quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước.
Cho đến nay trên thế giới có hai mơ hình tổ chức và quản lý của ngân hàng Trung
ương:
a. Ngân hàng Trung ương trực thuộc Chính phủ
Đây là mơ hình phổ biến của ngân hàng Trung ương các nước trên thế giới.
Theo mơ hình này, ngân hàng Trung ương thuộc tổ chức của Chính phủ, chịu sự
chi phối trực tiếp của Chính phủ về nhân sự, tài chính và đặc biệt về các quyết định
liên quan đến việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ.
Mơ hình này phù hợp với yêu cầu tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng
xây dựng kinh tế. Chính phủ quản lý trực tiếp ngân hàng Trung ương và sử dụng ngân
hàng này trong việc thực hiện các chức năng của mình. Ngân hàng Trung ương được
coi là cơng cụ phục vụ cho các mục tiêu trước mắt và chiến lược của quốc gia. Đồng
thời thơng qua chính sách tiền tệ để phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế vĩ mô
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
b. Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ, trực thuộc Quốc hội
Theo mơ hình này, ngân hàng Trung ương là do Quốc hội lập ra, chịu sự điều
hành và chi phối của Quốc hội về nhân sự và các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Nó

khơng nằm trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ. Quan hệ giữa ngân hàng Trung ương
và Chính phủ là quan hệ hợp tác. Ngân hàng Trung ương toàn quyền quyết định việc
xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ mà khơng bị ảnh hưởng bởi các áp lực chi tiêu
của Ngân sách hoặc các áp lực chính trị khác.
Tuy nhiên, khơng phải tất cả các ngân hàng Trung ương được tổ chức theo mơ
hình này đều đảm bảo được sự độc lập hồn tồn khỏi áp lực của Chính phủ khi điều
hành chính sách tiền tệ. Mức độ độc lập của mỗi ngân hàng Trung ương phụ thuộc vào
sự chi phối của người đứng đầu Nhà nước, cơ chế lập pháp và nhân sự của ngân hàng
Trung ương. Điển hình cho mơ hình này là Cục dự trữ liên bang Mỹ, ngân hàng dự trữ
liên bang của Cộng hoà liên bang Đức, ngân hàng Trung ương Thuỵ Sỹ…Xu hướng tổ
chức ngân hàng Trung ương theo mơ hình này đang ngày càng tăng ở các nước thị
trường phát triển.
c. Mơ hình tổ chức và quản lý của Nhà nước đối với ngân hàng Trung ương ở một số
quốc gia
* Ngân hàng Trung ương Mỹ
Ngân hàng Trung ương Mỹ gọi là Cục dự trữ liên bang, là một ngân hàng cổ
phần, gồm 12 chi nhánh ở 12 khu vực phân bố đều trong khắp nước.

93


Cục dự trữ liên bang Mỹ thực hiện chức năng của ngân hàng Trung ương đồng
thời còn thể hiện vai trò như một ngân hàng phục vụ ngân khố Mỹ. Cơ quan lãnh đạo
cao nhất của Cục là Hội đồng thống đốc gồm 7 thành viên do Tổng thống đề cử và
Thượng nghị viện bổ nhiệm.
Cục dự trữ liên bang Mỹ hoạt động độc lập. Mọi quyết định của Cục không
phải thông qua Tổng thống, mà chỉ báo cáo với Quốc hội.
Mục tiêu hoạt động của Cục là ổn định tiền tệ tạo việc làm, ổn định giá cả và ấn
định mức lãi suất thích hợp.
* Ngân hàng Trung ương Cộng hoà liên bang Đức

Ngân hàng Trung ương Đức là một pháp nhân trực thuộc chính quyền liên
bang, vốn pháp định thuộc sở hữu liên bang.
Ngân hàng Trung ương Đức độc lập thực thi chính sách tiền tệ, khơng bị ràng
buộc bởi Chính phủ.
Mục tiêu hoạt động: Bảo vệ đồng tiền, giám sát thanh toán đối nội và đối ngoại,
kiểm sốt khối lượng tiền trong lưu thơng và cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.
* Ngân hàng Trung ương Nhật Bản
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản là một ngân hàng cổ phần (theo đạo luật
1942), trong đó 55% cổ phần thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và 45% thuộc sở hữu
tư nhân.
Cơ quan quản trị ngân hàng là Hội đồng chính sách có 7 thành viên do Chính
phủ bổ nhiệm.
Mục tiêu hoạt động: Theo mục tiêu của Quốc gia.
* Ngân hàng Trung ương Trung Quốc
Ngân hàng Trung ương Trung Quốc trực thuộc Quốc vụ viện, vốn do Nhà nước
cấp và thuộc sở hữu Nhà nước.
Độc lập với Chính phủ trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ.
Mục tiêu hoạt động: Ổn định giá trị đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
5.1.3. Chức năng của ngân hàng trung ương
a. Chức năng phát hành tiền.
Tiền trong lưu thông bao gồm các loại: giấy bạc ngân hàng, tiền kim loại và tiền
chuyển khoản (bút tệ).
- NHTW giữ độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại
Ngày nay, việc phát hành giấy bạc ngân hàng và tiền kim loại khơng cịn dựa
trên cơ sở dự trữ vàng. Nó được thực hiện dựa trên cơ sở đảm bảo bằng giá trị hàng
hoá, dịch vụ thể hiện trên các giấy nhận nợ do các doanh nghiệp phát hành hoặc trái
phiếu chính phủ. Thơng qua cơ chế tín dụng ngắn hạn, ngân hàng trung ương thực
hiện tái chiết khấu hoặc tái cầm cố các chứng từ có giá để đưa tiền vào lưu thông.
Khối lượng tiền phát hành phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và nhu cầu tiền
trong từng thời kỳ.


94


- NHTW tham gia và kiểm soát chặt chẽ việc tạo tiền chuyển khoản của các
ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Tiển chuyển khoản được tạo ra thơng qua nghiệp vụ tín dụng và thanh tốn
khơng dùng tiền mặt qua hệ thống ngân hàng. Cơ chế tạo tiền này khơng thể thiếu
được sự tham gia và kiểm sốt chặt chẽ của ngân hàng trung ương. Nghiệp vụ kiểm
soát này được thực hiện bằng việc định ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cơ cấu hợp lý giữa tiền
mặt và tiền chuyển khoản, lãi suất tái chiết khầu… và giao dịch tín dụng, thanh tốn
với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng là ngân hàng trung ương thực hiện
nội dung chức năng phát hành tiền.
Việc phát hành tiền của ngân hàng trung ương theo các kênh sau:
+ Cho vay các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Ngân hàng trung
ương phát hành tiền qua hoạt động cấp tín dụng, dưới hình thức tái chiết khấu, hoặc tái
cầm cố các chứng từ có giá của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
Đây là kênh phát hành tiền quan trọng nhất và phù hợp với cơ chế phát hành tiền hiện
nay.
+ Phát hành qua thị trường vàng và ngoại tệ. Ngân hàng trung ương phát hành
tiền để mua vàng và ngoại tệ nhằm làm tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và điều tiết tỷ
giá hối đoái khi cần thiết.
+ Ngân sách nhà nước vay. Chính phủ vay của ngân hàng trung ương trong
trường hợp ngân sách nhà nước bị thiếu hụt tạm thời hoặc bội chi. Cũng có thể NHTW
phải ứng trước cho chính phủ, trong trường hợp NSNN chi trước và thu sau. Những
khoản cho chính phủ vay quan trọng nhất là NHTW tái chiết khấu, tái cầm cố các loại
trái phiếu của chính phủ thơng qua các ngân hàng thương mại.
+ Phát hành qua nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng trung ương phát hành tiền
mua các chứng từ có giá ngắn hạn trên thị trường mở, nhằm để tăng khối lượng tiền
cung ứng, khi có sự tăng lên của nhu cầu tiền.

b. Chức năng ngân hàng của các ngân hàng.
- Quản lý tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng.
+ Tài khoản tiền gửi thanh toán. Ngân hàng trung ương buộc các NHTM phải
mở tài khoàn tiền gửi thanh tốn và duy trì thường xun một lượng tiền trên tài khoản
này để thực hiện nghĩa vụ chi trả với các ngân hàng khác trong toàn hệ thống ngân
hàng.
+ Tài khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc. Ngân hàng trung ương nhận tiền gửi dự
trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại theo quy định. Mục đích của dự trữ bắt
buộc là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán và sử dụng nó là cơng cụ để điều tiết
lượng tiền cung ứng.
- Cho vay đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Ngân hàng trung ương cho các ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái
chiết khấu được tái cầm cố các chứng từ có giá. Với tư cách là ngân hàng của các ngân
hàng, ngân hàng trung ương luôn là chủ nợ và là người cho vay cuối cùng đối với các
ngân hàng thương mại.
- Tổ chức thanh tốn khơng dùng tiền mặt.

95


Các ngân hàng thương mại đều mở tài khoản tiền gửi thanh toán và gửi tiền vào
các tài khoản này tại ngân hàng trung ương. Cho nên, ngân hàng trung ương có thể tổ
chức thanh tốn khơng dùng tiền mặt cho các ngân hàng thương mại thơng qua hình
thức thanh tốn bù trừ trong tồn hệ thống ngân hàng.
- Thực hiện quản lý nhà nước và kiểm soát hoạt động đối với các ngân hàng
thương mại và tổ chức tín dụng, bao gồm:
+ Cấp giấy phép hoạt động.
+ Quy định nội dung, phạm vi hoạt động kinh doanh và các quy chế nghiệp vụ
đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tuân thủ.

+ Kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của các ngân hàng thương mại.
+ Đình chỉ hoạt động hoặc giải thể ngân hàng thương mại trong trường hợp mất
khả năng thanh toán.
c. Chức năng ngân hàng nhà nước.
- Ngân hàng trung ương xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Quản
lý nhà nước về các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng đối nội cũng như đối
ngoại.
- Nhận tiền gửi của kho bạc nhà nước, cho ngân sách nhà nước vay khi ngân
sách bị thiếu hụt tạm thời hoặc bội chi, quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia.
- Thay mặt chính phủ ký kết các hiệp định tiền tệ, tín dụng, thanh tốn với nước
ngồi và tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế.
- Đại diện cho chính phủ tham gia vào một số tổ chức tài chính tín dụng quốc tế
với cương vị là thành viên của các tổ chức này.
5.1.4. Vai trò của ngân hàng trung ương
a. Điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng hoặc kìm hãm sự phát
triển kinh tế. Do đó, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thơng cho phù hợp với nhu cầu
của nền kinh tế trong từng thời kỳ là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất đối với ngân hàng
trung ương.
Trong nền kinh tế thị trường, sự biến động kinh tế theo thời gian trước thăng
trầm theo chu kỳ. Từ đó, nhu cầu về tiền cũng biến động tương ứng. Cần phải điều tiết
khối lượng tiền trong lưu thông cho phù hợp với sự diễn biến trên của nền kinh tế, để
góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiềm chế lạm phát.
Ngân hàng trung ương thực hiện vai trị điều tiết khối lượng tiền trong lưu
thơng để phục vụ cho sự ổn định và phát triển kinh tế, chỉ có hiệu quả trong những
điều kiện có sự phối hợp đồng bộ với quá trình sử dụng linh hoạt các cơng cụ kinh tế tài chính khác.
b. Thiết lập và điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Ngân hàng trung ương tham gia vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội, nhằm thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp lý nhất và có hiệu quả cao.


96


- Với việc xây dựng chính sách, cơ chế tín dụng và tài trợ vốn cho nền kinh tế
thông qua hệ thống ngân hàng thương mại và ngân sách nhà nước để thực hiện có hiệu
quả cơ cấu kinh tế đã thiết lập.
- Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường, ngân hàng trung ương
góp phần điều chỉnh kịp thời cơ cấu kinh tế cho phù hợp với thực tiễn trong nước và
hội nhập kinh tế.
c. Ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia.
Ngân hàng trung ương thơng qua các hoạt động của mình để khống chế tỷ lệ
lạm phát hàng năm, tạo ra sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu về tiền trong nền kinh
tế. Từ đó góp phần ổn định sức mua đối nội của đồng tiền quốc gia.
Mặt khác, ngân hàng trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối để giữ vững
tỷ giá hối đoái hoặc chủ động điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo mục tiêu của sự phát triển
kinh tế xã hội, góp phần ổn định sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia. Nhờ đó,
vừa đẩy mạnh xuất khẩu, vừa tăng cường nhập khẩu phục vụ cho mục tiêu kinh tế đã
được hoạch định.
Ổn định sức mua đồng tiền quốc gia có nghĩa là cố định nó. Sức mua đối nội
cũng như đối ngoại của đồng tiền có thể biến động trong một thời kỳ nào đó. Song sự
biến động ấy cần được kiểm sốt và duy trì ở mức độ hợp lý. Sự biến động ấy phải
được sử dụng để điều chỉnh có lợi cho nền kinh tế quốc dân.
d. Điều chỉnh hoạt động đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng. Ngân hàng trung ương chỉ
huy toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trong cơ chế thị trường, vai trò này được phát huy
chỉ khi ngân hàng trung ương thực sự là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển hệ
thống ngân hàng. Đồng thời, việc chỉ huy hệ thống ngân hàng là một trong những giải
pháp hữu hiệu để sử dụng các công cụ tiển tệ, tín dụng và thanh tốn phục vụ cho các
hoạt động kinh tế xã hội diễn ra liên tục và sôi động diễn ra trên khắp đất nước.
Việc điều chỉnh hoạt động của hệ thống ngân hàng được thực hiện bằng các

định hướng có căn cứ khoa học, sự nắm bắt các tín hiệu thị trường nhanh nhạy, sự
phân tích sắc bén diễn biến trong các lĩnh vực hoạt động ngân hàng, trên các loại thị
trường (tiền tệ, vốn hối đoái…) và đưa ra những giải pháp điều chỉnh hữu hiệu.
Sự chỉ huy của ngân hàng trung ương đối với tồn bộ hệ thống ngân hàng chỉ có
thể thực hiện có hiệu quả trên cơ sở dựa vào hành lang pháp lý nghiêm ngặt, đồng thời
phải có được một đội ngũ cán bộ điều hành và cán bộ nghiệp vụ thành thạo về chun
mơn.
5.2. Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô, mà ngân hàng
trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm sốt và điều tiết khối
lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục kinh tế - xã hội của đất nước trong một
thời kỳ nhất định.
Chính sách tiền tệ có thể được điều chỉnh theo một trong hai hướng sau:
- Chính sách tiền tệ mở rộng là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm
khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm.

97


- Chính sách tiền tệ thắt chặt là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm
hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển q nóng của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ
theo hướng này nhằm đạt mục đích kiềm chế lạm phát.
5.2.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
a. Mục tiêu cao nhất
Các mục tiêu của chính sách tiền tệ cơ bản là thống nhất. Sự điều chỉnh lượng
tiền cung ứng nhằm mục tiêu ổn định tiền tệ, trên cơ sở đó góp phần tăng trưởng kinh
tế và nhằm tạo việc làm. Đây là mục tiêu cao nhất.
Ổn định tiền tệ
Ổn định tiền tệ: là ổn định sức mua đối nội và sức mua đối ngoại của đồng tiền
quốc gia.

- Ổn định sức mua đối nội là ổn định sức mua của đồng tiền đối với hàng hoá
và dịch vụ trong nước (ổn định giá cả). Nền kinh tế có lạm phát hoặc thiểu phát thì sức
mua đồng tiền khơng ổn định. Do đó, kiểm sốt lạm phát và duy trì lạm phát thấp là
thể hiện cụ thể của mục tiêu này. Khi có mức lạm phát thấp sẽ là nhân tố cần thiết thúc
đẩy sự tăng trưởng kinh tế.
- Ổn định sức mua đối ngoại là ổn định tỷ giá hối đoái khi tỷ giá hối đoái biến
động quá mức sẽ ảnh hưởng xấu tới hoạt động xuất nhập khẩu, các hoạt động đối
ngoại khác làm giảm thấp uy tín quốc gia và sự ổn định kinh tế trong nước. Do đó, ổn
định tỷ giá hối đoái được coi là mục tiêu quan trọng.
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế: Được đo bằng tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế, hoặc là tỷ lệ
tăng trưởng GDP danh nghĩa sau khi trừ đi tỷ lệ lạm phát cùng kỳ.
Một nền kinh tế phát triển bền vững với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu
của mọi chính sách kinh tế vĩ mơ. Khi đạt được mục tiêu này sẽ tạo ra nhiều lợi thế
cho nền kinh tế: tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nâng cao thu nhập cho người
lao động, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế…
Thực hiện mục tiêu này, Ngân hàng trung ương cung ứng thêm tiền vào lưu
thơng, trong khi cầu tiền chưa có gì biến động, làm cho lãi suất thị trường giảm. Lãi
suất thấp sẽ kích thích các nhà đầu tư, các doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Thêm vào
đó chi phí cơ hội của việc giữ tiền giảm sẽ khuyến khích dân chúng tiêu dùng, dẫn tới
tổng cầu tăng, sản lượng của nền kinh tế sẽ tăng.
Tạo việc làm
Nền kinh tế có một tỷ lệ thất nghiệp thấp sẽ có tác động tốt, nó tạo ra thị trường
lao động sẵn sàng cung ứng cho các dự án đầu tư và mở rộng sản xuất. Thông thường
mức cung tiền tăng dẫn tới việc gia tăng đầu tư. Đầu tư tăng lên nghĩa là các ngành
kinh tế được phát triển và mở rộng sản xuất, cần bổ sung thêm lao động, tức là công
ăn việc làm tăng.
Giữ ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế và cơng ăn việc làm có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Ngân hàng trung ương không thể cùng một lúc đạt được cả ba mục
tiêu. Do vậy, đưa mục tiêu nào lên hàng đầu là tuỳ theo điều kiện kinh tế của đất nước

trong từng thời kỳ. Đa số các nước coi ổn định tiền tệ là mục tiêu chủ yếu và dài hạn
của chính sách tiền tệ.

98


b. Mục tiêu trung gian
Là mục tiêu được Ngân hàng trung ương lựa chọn để đạt tới mục tiêu cao nhất
của chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương các nước thường dựa vào ba mục tiêu
chuẩn để lựa chọn mục tiêu trung gian:
+ Phải đo lường được mục tiêu cao nhất.
+ Phải kiểm soát được mục tiêu cao nhất.
+ Phải có khả năng tác động trực tiếp tới mục tiêu cao nhất.
Các chỉ tiêu được lựa chọn thường là khối tiền tệ cung ứng MS (M 1, M2, M3,
…) hoặc lãi suất thị trường (ngắn hạn hoặc dài hạn). Ngân hàng trung ương chỉ chọn
một trong hai chỉ tiêu trên làm mục tiêu trung gian, bởi lẽ nếu khối lượng tiền cung
ứng thì phải chịu sự biến động của lãi suất và ngược lại.
Cả hai chỉ tiêu: khối lượng tiền cung ứng và lãi suất thị trường đều đáp ứng đầy
đủ cả ba tiêu chuẩn trên, vì vậy nó đều có thể được chọn làm mục tiêu trung gian của
chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành chính sách tiền tệ ở nhiều nước,
thường thiên về lựa chọn khối lượng tiền cung ứng làm mục tiêu trung gian hơn là
chọn lãi suất thị trường.
c. Mục tiêu hoạt động
Đó là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh của cơng cụ chính
sách tiền tệ.
Tiêu chuẩn để lựa chọn mục tiêu hoạt động như tiêu chuẩn để lựa chọn mục tiêu
trung gian. Các chỉ tiêu được chọn làm mục tiêu hoạt động là dự trữ của Ngân hàng
thương mại và lãi suất thị trường liên ngành ngân hàng.
Chỉ tiêu dự trữ của Ngân hàng thương mại được chọn trong trường hợp hệ
thống tài chính chưa phát triển hoặc các điều kiện kinh tế ít nhạy cảm với tác động

của lãi suất. Chỉ tiêu lãi suất thị trường liên ngành ngân hàng được chọn trong trường
hợp hệ thống tài chính tương đối phát triển, các mức lãi suất thị trường có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau.
Các loại mục tiêu của chính sách tiền tệ có mối liên quan chặt chẽ với nhau.
Mục tiêu cao nhất được coi là mục tiêu cơ bản nhất, là đích cuối cùng của chính sách
tiền tệ.
5.2.2. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ
a. Chính sách tín dụng
Nội dung của chính sách tín dụng là cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế
quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng. Dựa vào các quỹ cho vay
được tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với chính sách tín dụng đã được xác định,
vốn tín dụng vận động hợp lý tới nơi cần.
Chính sách tín dụng bao gồm hai nội dung cụ thể:
- Chính sách lãi suất, căn cứ vào trình độ phát triển và cơ chế quản lý kinh tế,
Ngân hàng trung ương sẽ xây dựng và ban hành chính sách lãi suất thích hợp, để thi
hành thống nhất trong hệ thống ngân hàng. Đó có thể là lãi suất sàn, lãi suất trần, lãi
suất cơ bản, lãi suất thoả thuận…

99


- Chính sách và quy chế tín dụng, tuỳ thuộc vào khả năng nguồn vốn, nhu cầu
vốn của nền kinh tế, Ngân hàng trung ương xây dựng chính sách và quy chế tín dụng
để huy động nguồn vốn trong xã hội và mở rộng cho vay ở mức cao nhất.
b. Chính sách ngoại hối
Chính sách ngoại hối nhằm đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các loại ngoại
hối (vàng, ngoại tệ và các phương tiện có giá trị thanh tốn ngoại hối) phục vụ có hiệu
quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chính sách ngoại hối bao gồm các nội dung:
- Chính sách tỷ giá hối đối. Ngân hàng trung ương lựa chọn một chế độ tỷ giá

và quyết định điều chỉnh tỷ giá hối đoái khi cần thiết. Bởi lẽ, tỷ giá hối đối có ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu, đến việc làm cho người lao động.
- Chính sách quản lý ngoại hối: Chính sách này hướng vào việc ngăn chặn dự
trữ ngoại hối không hợp lý trong các pháp nhân và thể nhân, quản lý việc mua bán
ngoại tệ, thu hút các nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng.
- Chính sách dự trữ ngoại hối: Dự trữ một lượng ngoại hối để phục vụ cho nhu
cầu thanh toán quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền trong nước là cần thiết cho mỗi
quốc gia. Bởi vậy, Ngân hàng trung ương cần có chính sách mua bán ngoại tệ và vàng
để tăng quỹ dự trữ ngoại hối theo kế hoạch nhà nước đề ra hoặc điều chỉnh tỷ giá hối
đoái khi cần thiết.
c. Chính sách đối với ngân sách
Chính sách này nhằm đảm bảo cung cấp phương tiện thanh toán cho chính phủ
trong trường hợp Ngân sách nhà nước bội chi, Ngân hàng trung ương thực hiện cho
vay để chính phủ giảm bớt khó khăn. Tuy nhiên, khi cho vay sẽ làm tăng khối lượng
tiền tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng. Nhưng trong trường hợp cần thiết Ngân hàng
trung ương phải đảm bảo phương tiện thanh tốn cho chính phủ.
5.2.3. Cơng cụ của chính sách tiền tệ
5.2.3.1. Cơng cụ trực tiếp
Đó là những cơng cụ mà ngân hàng trung ương có thể sử dụng để tác động trực
tiếp vào mục tiêu trung gian, qua đó đạt được mục tiêu cao nhất của chính sách tiền tệ.
Cơng cụ trực tiếp thường được sử dụng trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung và giai đoạn đầu chuyển sang cơ chế thị trường. Khi đó thị trường tiền tệ chưa
phát triển hoặc có mức lạm phát cao. Điển hình cho loại công cụ này là lãi suất tiền
gửi, lãi suất cho vay và các hạn mức tín dụng.
a. Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
Tuỳ theo mức độ phát triển của cơ chế quản lý tín dụng, Ngân hàng trung ương
có thế sử dụng cơng cụ này trên hai phương diện sau:
+ Ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay.
Nếu lãi suất tiền gửi quy định cao, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm tăng tiền
vốn cho vay, giảm tỷ lệ lạm phát. Nếu lãi suất tiền gửi thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm

khả năng mở rộng tín dụng.

100


Nếu lãi suất cho vay quy định thấp, các doanh nghiệp có cơ hội vay được nhiều
vốn cho sản xuất kinh doanh. Nếu lãi suất cho vay cao, nó sẽ kìm bớt sự phát triển
“q nóng” của một số ngành.
Nhược điểm của biện pháp này là làm cho các ngân hàng thương mại mất đi
tính linh hoạt và quyền tự chủ kinh doanh, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân
hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ ngoại
tệ, bất động sản trong khi ngân hàng bị thiếu hụt về tiền mặt cũng như vốn cho vay.
Hơn nữa, khi ngân hàng cho vay với mức lãi suất thấp là thể hiện cơ chế “xin cho”
làm cho vốn vay sử dụng kém hiệu quả.
+ Ấn định khung lãi suất tiền gửi cho vay.
Ngân hàng trung ương có thể quy định khung lãi suất dưới các hình thức: Lãi
suất sàn và lãi suất trần, lãi suất trần và mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình
quân và lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất trần, lãi suất cơ bản… Và bắt buộc các
ngân hàng thương mại phải xây dựng biểu lãi suất kinh doanh nằm trong khung lãi
suất.
Biện pháp này có ưu điểm là các ngân hàng thương mại được phép xây dựng
các mức lãi suất linh hoạt hơn và bước đầu có quyền tự chủ quy định mức lãi suất kinh
doanh. Đồng thời giúp cho các Ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay,
loại bỏ được những dự án kinh tế kém hiệu quả. Nhìn chung việc ẩn định khung lãi
suất tiền gửi và cho vay ngày càng ít được áp dụng ở các nước theo cơ chế thị trường.
Bởi vì, trong cơ chế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận
động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
b. Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa Ngân hàng trung ương cho phép các
ngân hàng thương mại cấp cho nền kinh tế. Hạn mức này được quy định cho từng ngân

hàng, căn cứ vào đặc điểm kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho các đối tượng chính sách và
nằm trong tổng dư nợ tín dụng của tồn bộ nền kinh tế trong một thời gian nhất định.
Ngân hàng thương mại chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín
dụng.
Hạn mức tín dụng là cơng cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân
hàng trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng cung ứng cho nền kinh tế
nhằm đảm bảo tăng trưởng khối lượng tiền cung ứng theo mục tiêu đã đề ra.
Công cụ này kém hiệu quả điều tiết, thiếu linh hoạt, khơng thể thay đổi thường
xun vì ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình kinh doanh của các Ngân hàng thương mại.
Việc xác định hạn mức tín dụng cho các Ngân hàng thương mại rất khó, nhiều khi
thiếu chính xác. Khi nó lớn hơn nhu cầu tín dụng thì cơng cụ này khơng có ý nghĩa.
Ngược lại, nếu hạn mức tín dụng q nhỏ, nó có thể làm tăng lãi suất tín dụng, thúc
đẩy “thị trường vốn ngầm” ra đời và phát triển.
5.2.3.2. Cơng cụ gián tiếp
Đó là cơng cụ Ngân hàng trung ương có thể sử dụng để tác động trước hết vào
mục tiêu hoạt động, nhờ sự lan truyền của cơ chế thị trường ảnh hưởng tới mục tiêu
trung gian, từ đó đạt được mục tiêu cao nhất của chính sách tiền tệ. Các cơng cụ gián
tiếp thường được sử dụng ở những nền kinh tế thị trường phát triển và có mối liên hệ
chặt chẽ giữa các mức lãi suất thị trường.

101


a. Lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất cho vay ngắn hạn của Ngân hàng trung ương
đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng dưới hình thức tái chiết khấu
các chứng từ có giá chưa đến thời hạn thanh tốn.
Ngân hàng thương mại ấn định lãi suất tái chiết khấu cho từng thời kỳ, căn cứ
vào mục tiêu chính sách tiền tệ. Lãi suất này được sử dụng để kiểm soát sự biến động
lãi suất trên thị trường và điều tiết lượng tiền cung ứng.

Cơ chế sử dụng:
+ Khi lãi suất tái chiết khấu tăng lên, các ngân hàng thương mại sẽ bất lợi trong
việc vay vốn của Ngân hàng trung ương. Trong điều kiện đó, các Ngân hàng thương
mại khơng có khả năng mở rộng tín dụng. Nghĩa là nhu cầu vay vốn của các Ngân
hàng thương mại giảm, lượng tiền cung ứng giảm.
+ Ngược lại, khi lãi suất tái chiết khấu giảm, các ngân hàng thương mại có khả
năng mở rộng cho vay đối với khách hàng, do được lợi trong việc vay vốn của Ngân
hàng trung ương. Như vậy số lượng tiền cung ứng tăng lên.
Sự thay đổi lãi suất tái chiết khấu được coi như dấu hiệu của sự định hướng
chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Khi có chiều hướng biến động lãi suất
tái chiết khấu tăng lên là dấu hiệu của chính sách tiền tệ thắt chặt hoặc giảm xuống là
dấu hiệu của chính sách tiền tệi mở rộng. Tuy nhiên, hiệu ứng thơng báo chỉ có hiệu
quả khi lãi suất tái chiết khấu phù hợp với mức lãi suất thị trường.
Công cụ lãi suất tái chiết khấu có khả năng điều tiết một cách linh hoạt các mục
tiêu trung gian. Tuy nhiên mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này căn cứ vào mức
độ phụ thuộc về vốn của Ngân hàng thương mại vào Ngân hàng trung ương, vì thế nó
là cơng cụ kém chủ động. Để khắc phục nhược điểm này người ta thường sử dụng kết
hợp với công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
b. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Theo luật định, khi các ngân hàng thương mại huy động được vốn tiền gửi trong
xã hội, phải trích ra một phần của số tiền gửi này để gửi vào tài khoản dự trữ bắt buộc
tại Ngân hàng trung ương và để tại quỹ của mình. Số tiền gửi được trích là theo tỷ lệ
dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền dự trữ bắt buộc và tổng số
dư tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc các ngân hàng thương mại thu hút được trong
khoảng thời gian nhất định.
Tuỳ theo điều kiện của từng nước, trong từng thời kỳ, có nhiều quy định về việc
xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc thể quy định riêng cho từng ngân. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
có thể quy định chung cho tồn bộ các loại tiền gửi hoặc có thể quy định đối với từng
loại tiền gửi (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn dưới một năm, tiền gửi có kỳ

hạn dưới hai năm…).
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc tạo điều kiện để ngân hàng trung ương kiểm
soát quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại và quan trọng hơn là ngân
hàng trung ương sử dụng để tác động đến mức cung tiền tệ.
Cơ chế sử dụng:

102


Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, làm thay đổi mức dự trữ bắt buộc, từ đó ảnh
hưởng đến lượng tiền cung ứng trên các phương diện sau:
+ Khi ngân hàng trung ương quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
làm giảm hoặc tăng khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh
tế. Từ đó, làm giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền tệ.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một thành phần quan trong mẫu số của công thức tạo
tiền. Vì thế sự tăng lệ hoặc giảm xuống của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hoặc
tăng hệ số mở rộng tiền gửi và do đó khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống ngân
hàng sẽ giảm hoặc tăng lên.
c. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các chứng từ có giá của ngân
hàng trung ương trên thị trường tiền tệ.
Trong nền kinh tế thị trường, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ quan
trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Thông qua
việc sử dụng công cụ này sẽ điều tiết mức dự trữ của các ngân hàng thương mại và
điều tiết mức cung tiền tệ.
Cơ chế sử dụng:
Công cụ này được sử dụng theo cơ chế là mua hoặc bán các chứng từ có giá
của ngân hàng trung ương với các thành viên tham gia thị trường mở.
- Khi muốn gia tăng khối lượng tiền lưu thông, mở rộng tín dụng cho nền kinh
tế, Ngân hàng trung ương thực hiện mua các chứng từ có giá trên thị trường.

- Ngược lại, khi muốn giảm mức cung tiền, thu hẹp tín dụng, Ngân hàng trung
ương bán các chứng từ có giá đang nắm giữ.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 5
Câu 1: Trình bày quá trình ra đời và phát triển của NHTW?
Câu 2: Khái niệm, chức năng của NHTW?
Câu 3: Các mơ hình ngân hàng trung ương trên thế giới? Đưa ra ví dụ cụ thể? Chỉ ra
những điểm khác biệt với ngân hàng trung ương Việt Nam?
Câu 4: Vai trò của NHTW?
Câu 5: Chính sách tiền tệ là gì? Chính sách tiền tệ có thể được điều chỉnh theo những
hướng nào? Tác động của từng chính sách cụ thể đó tới nền kinh tế?
Câu 6: Mục tiêu của chính sách tiền tệ? Phân tích mối quan hệ của các mục tiêu này?
Câu 7: Các mục tiêu cao nhất của chính sách tiền tệ là gì? Phân tích các mục tiêu này?
Câu 8: Có thể cùng một lúc đạt được ba mục tiêu trong nhóm mục tiêu cao nhất của
chính sách tiền tệ khơng? Giải thích?
Câu 9: Phân tích các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ?
Câu 10: Phân tích các mục tiêu cao nhất của chính sách tiền tệ?
Câu 11: Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ?

103


Câu 12: Các cơng cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ? Ưu điểm và nhược điểm của
công cụ trực tiếp?
Câu 13: Cơng cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ? Ưu điểm và nhược điểm của công
cụ gián tiếp?
Câu 14: Hiện nay, NHNN Việt Nam đang sử dụng những công cụ nào để điều tiết
lượng tiền trong lưu thông? Hiệu quả của những cơng cụ đó?
Câu 15: Lấy ví dụ cụ thể để minh họa cơ chế tác động của lãi suất tái chiết khấu đến
lượng cung tiền vào lưu thơng?
Câu 16: Lấy ví dụ cụ thể để minh họa cơ chế tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc đến

lượng cung tiền vào lưu thông?

104


Chương 6
CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH TRUNG GIAN
6.1. Những vấn đề chung về tổ chức tài chính trung gian
6.1.1. Sự ra đời của các tổ chức tài chính trung gian
Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai chủ thể đối lập nhau: người có vốn tạm thời
nhàn rỗi và người cần vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng. Dù là người
có vốn mong muốn tìm được người cần vốn để cho vay kiếm lời hay người cần vốn
muốn tiếp xúc với người có vốn thì đều phải tốn kém chi phí giao dịch. Bởi vì những
người đó khơng thể gửi tiền, vay vốn ở những nơi không quen biết hoặc thiếu tin
tưởng mà không cần luật sư, trung gian môi giới hoặc những người làm chứng khác.
Những trung gian tài chính ra đời và hoạt động nhằm mục tiêu tối thiểu hóa
những chi phí giao dịch giữa những người có vốn và người cần vốn, giúp người có
món tiết kiệm nhỏ có cơ hội đầu tư sinh lời, giúp người cần vốn có cơ hội vay vốn.
Vậy những trung gian tài chính đã giảm chi phí giao dịch như thế nào?
Trước hết đó là vấn đề tiết kiệm do quy mô. Việc gom vốn từ nhiều người có
món tiết kiệm nhỏ và đảm bảo cho họ một lợi tức thỏa đáng, đồng thời có thể cho vay
nhiều người với các món tiền lớn, nhỏ khác nhau, đem lại những lợi ích to lớn nhờ
phương pháp tiết kiệm theo quy mô. Theo phương pháp này, quy mô vốn đầu tư và các
vụ giao dịch tăng lên đã làm giảm chi phí giao dịch cho mỗi đơn vị tiền tệ được đầu tư.
Bên cạnh đó, do đa dạng hóa danh mục đầu tư của các trung gian tài chính hoặc
số vốn gom được đủ lớn để mua một danh mục chứng khốn đa dạng hóa nên các
trung gian tài chính đã phân tán rủi ro cho chính mình và cho những người có vốn.
Vấn đề chun mơn hóa trong nghề nghiệp. Do tính chun mơn hóa, các trung
gian tài chính có khả năng tốt hơn để bảo tồn vốn, sử dụng vốn hiệu quả, giảm thiểu
rủi ro, hạ thấp chi phí giao dịch. Họ sẵn sàng đưa ra những hợp đồng vay nợ ít tốn kém

và cung cấp những dịch vụ tài chính tiện lợi giá rẻ.
Vì những lý do trên, các tổ chức tài chính trung gian đã ra đời và ngày càng
đóng vai trị quan trọng hơn trong việc truyền dẫn vốn giữa các chủ thể trong xã hội,
đặc biệt là các nguồn vốn ngắn hạn.
6.1.2. Chức năng của các tổ chức tài chính trung gian
Các tổ chức tài chính trung gian thực hiện chức năng dẫn vốn từ những người
có vốn tới những người cần vốn nhưng khác với tài chính trực tiếp trong thị trường tài
chính, các trung gian tài chính thực hiện quá trình dẫn vốn thơng qua cầu nối (có nghĩa
là để người cần vốn đến được người có vốn phải thơng qua người thứ ba). Một trung
gian tài chính đứng giữa người cho vay và người đi vay, giúp chuyển vốn từ người này
sang người kia được gọi là tài chính gián tiếp.
Các trung gian tài chính thực hiện những chức năng chủ yếu sau đây:
- Chức năng tạo vốn. Để có thể cho vay hoặc đầu tư, các trung gian tài chính
tiến hành huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, hình thành các quỹ tiền tệ
tập trung, phương thức huy động vốn hoặc theo thể thức tự nguyện thông qua cơ chế
lãi suất hoặc theo thể thức bắt buộc qua cơ chế điều hành của Chính phủ. Với chức

105


năng này, các trung gian tài chính đem lại lợi ích cho chính mình và cho những người
có tiền nhàn rỗi đem gửi tại các tổ chức này.
- Chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế. Tiền vốn được huy động từ những
người có vốn là để thực hiện mục tiêu cung ứng vốn cho những người cần nó. Trong
nền kinh tế thị trường, người cần vốn là các doanh nghiệp, Chính phủ, các tổ chức, cá
nhân trong nước và nước ngoài. Với chức năng này, các tổ chức tài chính trung gian
đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu về vốn của các cá nhân và doanh nghiệp.
- Chức năng kiểm sốt. Các trung gian tài chính thực hiện chức năng kiểm soát
nhằm giảm tối thiểu các rủi ro có thể xảy ra (rủi ro kinh doanh, rủi ro đạo đức...). Yêu
cầu của chức năng này là các trung gian tài chính phải thường xun kiểm sốt người

vay vốn, cả trước, trong và sau khi vay.
6.1.3. Vai trị của các tổ chức tài chính trung gian
Các tổ chức tài chính trung gian với nhiều loại hình khác nhau vừa đóng vai trị
là trung gian tài chính, vừa góp phần đa dạng hố các dịch vụ tài chính cho nền kinh
tế. Sự góp mặt của các tổ chức này vào hệ thống tài chính đã mang lại những tác động
thiết thực hữu ích.
a. Tập trung các nguồn vốn tiết kiệm nhỏ lẻ
Nguồn vốn tiết kiệm của cá nhân, gia đình được tạo ra nhờ có sự vượt trội giữa
thu nhập với chi phí hiện tại. Người có tiền tiết kiệm ln có ý thức dùng nó để dự
phịng và để sinh lãi. Vì vậy họ đem số tiền đó để cho vay và các tổ chức tài chính là
nơi tương đối an toàn cung cấp các dịch vụ tài chính sinh lợi. Ngồi các ngân hàng thì
các tổ chức tài chính phi ngân hàng với mạng lưới rộng lớn, với sự linh hoạt trong hoạt
động đã tập trung được các nguồn tiết kiệm, đặc biệt là các món tiền nhỏ, lẻ để đưa
vào thị trường tài chính. Khi cần tăng cường huy động vốn, họ gửi tín hiệu đến người
tiết kiệm dưới hình thức lãi suất cao hơn và điều này sẽ khuyến khích các gia đình
giảm bớt tiêu dùng tăng cường tiết kiệm để cho vay.
b. Tạo cơ hội đầu tư sinh lời cho các cá nhân
Bản thân mỗi cá nhân không thể dễ dàng làm lợi từ chính món tiền của mình.
Món tiền đó có thể là quá nhỏ, đầu tư trực tiếp không những rủi ro cao mà phí giao
dịch thì q lớn, việc đăng ký các thủ tục kinh doanh quá phiền hà. Nhờ có các tổ chức
tài chính phi ngân hàng các cơ hội đầu tư cho cá nhân tăng lên. Nguồn lợi sẽ mang lại
cho cả hai nhờ tính kinh tế do quy mô, nhờ sự phân tán rủi ro do đa dạng hố và nhờ
việc giảm phí giao dịch trong tổng thể.
c. Thúc đẩy đầu tư, cạnh tranh và tiến bộ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng
Đầu tư, cho vay là một chức năng sinh lợi của các tổ chức tài chính. Các tổ
chức tài chính cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho việc mua sắm hàng hoá, dịch vụ, tài trợ
cho đầu tư, xây dựng nhà cửa, xa lộ, cầu cống và những cơng trình kiến trúc khác, đầu
tư để mua máy móc thiết bị và kết quả là làm tăng của cải xã hội, tạo ra mức sống cao
hơn cho các cá nhân và gia đình. Sự tham gia của ngân hàng và các tổ chức tài chính
phi ngân hàng làm cho đầu tư thêm sơi động, làm tăng tính cạnh tranh, giảm giá vốn

và thúc đẩy sự ra đời nhiều tiến bộ tài chính mới. Những năm gần đây, do xuất hiện
nhiều loại hình trung gian tài chính mới nên sản phẩm tài chính ngày càng trở nên đa
dạng hơn. Áp lực cạnh tranh trong hệ thống đã làm cho chất lượng phục vụ được cải
thiện, giá vốn đầu tư ngày càng giảm, tạo ra nhiều khả năng lựa chọn cho khách hàng.

106


Nếu như các ngân hàng đặc biệt chú trọng đến những khoản đầu tư ở những doanh
nghiệp lớn thì các tổ chức tài chính phi ngân hàng tạo ra nguồn đầu tư chủ yếu cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho các cá nhân, gia đình. Mỗi loại hình có thế mạnh riêng
nhưng tất cả đều góp phần tăng cường hiệu quả kinh tế, xã hội.
d. Đáp ứng nhu cầu trong việc bảo vệ tài chính
Trong cuộc sống thường nhật, rủi ro luôn là nguy cơ đối với tất cả chúng ta. Rủi
ro xảy ra làm tổn thất tài chính vì vậy mọi người đều phải có dự phịng và tìm ra cách
để bảo vệ tài chính. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng là nơi giúp chúng ta thực hiện
vấn đề này. Họ cung cấp các hợp đồng bảo hiểm, các dịch vụ trả lương hưu…Trong
hoạt động đầu tư, họ đáp ứng các nhu cầu về thông tin nếu như chúng ta muốn hoặc
nhận các uỷ nhiệm nếu chúng ta cần. Với nhiều loại dịch vụ khác nhau nhưng tất cả
đều nhằm mục đích bảo vệ tài chính, phân tán rủi ro cho mọi người. Đây là một khía
cạnh đặc thù mà các tổ chức tài chính phi ngân hàng cung cấp cho xã hội.
6.2. Các loại hình trung gian tài chính
Căn cứ vào những đặc trưng cơ bản về cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu sử dụng
vốn, các tổ chức tài chính trung gian được chia thành:
6.2.1. Ngân hàng thương mại
6.2.1.1. Khái niệm
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục đích lợi nhuận
thông qua việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế,
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Bản chất của ngân hàng thương

mại thể hiện qua các khía cạnh sau đây:
- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và là một đơn
vị kinh tế kinh doanh trong ngành dịch vụ tài chính ngân hàng.
Nói ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp và là một đơn vị kinh tế nghĩa
là ngân hàng thương mại hoạt động trong một ngành kinh tế, có cơ cấu, tổ chức bộ
máy như một doanh nghiệp bình đẳng trong quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp
khác, phải tự chủ về kinh tế và phải có nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước như các đơn
vị kinh tế khác.
- Hoạt động của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh. Để hoạt động
kinh doanh, các ngân hàng thương mại phải có vốn (vốn được cấp nếu là ngân hàng
Nhà nước, được cổ đơng góp vốn nếu là ngân hàng cổ phần….); phải tự chủ về tài
chính (tự lấy thu nhập để bù đắp chi phí); đặc biệt hoạt động kinh doanh cần đạt đến
mục tiêu tài chính cuối cùng là lợi nhuận, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại cũng khơng nằm ngồi xu hướng đó. Tuy nhiên, việc tìm kiếm lợi nhuận là phải
chính đáng trên cơ sở chấp hành luật pháp của nhà nước.
- Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là hoạt động kinh doanh tiền
tệ và dịch vụ ngân hàng. Đây là lĩnh vực đặc biệt, vì trước hết nó liên quan trực tiếp
đến tất cả các ngành, liên quan đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội và mặt khác,
lĩnh vực tiền tệ ngân hàng là lĩnh vực “nhạy cảm” nó địi hỏi một sự thận trọng và
khéo léo trong điều hành hoạt động ngân hàng để tránh những thiệt hại cho xã hội.

107


Lĩnh vực hoạt động này của ngân hàng thương mại góp phần cung ứng một khối lượng
vốn tín dụng rất lớn cho nền kinh tế - xã hội.
Tóm lại, ngân hàng thương mại là loại hình định chế tài chính trung gian hoạt
động trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Đây là tổ chức tài chính trung gian
quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường, góp phần tạo lập và cung
ứng vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển.

6.2.1.2. Các loại hình ngân hàng thương mại
Người ta có thể căn cứ vào một số tiêu thức để phân chia thành các loại hình
ngân hàng thương mại:
* Căn cứ tiêu thức sở hữu và góp vốn:
Ngân hàng thương mại chia thành bốn loại:
- Ngân hàng thương mại Nhà nước là ngân hàng thuộc sở hữu của Nhà nước,
được thành lập bằng 100% vốn của ngân sách Nhà nước cấp.
- Ngân hàng thương mại cổ phần là ngân hàng được thành lập dưới hình thức
một cơng ty cổ phần, vốn của nó là do cổ đơng đóng góp.
- Ngân hàng thương mại liên doanh là ngân hàng được thành lập dưới hình thức
góp vốn liên doanh giữa các đối tác sở hữu khác nhau.
- Ngân hàng thương mại nước ngoài (chi nhánh) là ngân hàng được thành lập
theo pháp luật và thuộc sở hữu của nước ngồi. Được Chính phủ nước sở tại cấp giấy
phép hoạt động và tuân thủ theo luật pháp của nước đó.
* Căn cứ vào tiêu thức số lượng chi nhánh:
Ngân hàng thương mại chia thành hai loại:
- Ngân hàng thương mại duy nhất là loại hình ngân hàng thương mại chỉ có một
hội sở hoạt động duy nhất trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia.
- Ngân hàng thương mại mạng lưới là loại hình ngân hàng thương mại có hội sở
Trung ương và các chi nhánh hoạt động trên lãnh thổ quốc gia và ở nước ngoài.
* Căn cứ tiêu thức chun mơn hố hoạt động tín dụng.
Ngân hàng thương mại chia thành hai loại:
- Ngân hàng thương mại chuyên ngành là ngân hàng phục vụ cho một hay một
nhóm ngành kinh tế.
- Ngân hàng thương mại đa ngành là ngân hàng phục vụ cho mọi ngành kinh tế
trên một địa bàn nhất định.
Ngoài các tiêu thức trên, người ta cịn có thể dựa vào một số tiêu thức khác để
phân chia các loại ngân hàng thương mại, như doanh số hoạt động, cơ quan cấp giấy
phép, nghiệp vụ kinh doanh…Tuy nhiên, cách phân loại dựa vào tiêu thức sở hữu và
góp vốn được coi là ưu việt nhất. Bởi lẽ, phân loại các ngân hàng thương mại theo tiêu

thức này là một trong những nội dung quan trọng để Nhà nước quản lý và đánh giá
hiệu quả hoạt động của từng ngân hàng thương mại.
6.2.1.3. Chức năng của ngân hàng thương mại
a. Chức năng trung gian tín dụng

108


Thứ nhất, Ngân hàng thương mại huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các chủ
thể kinh tế trong xã hội, từ các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, cơ quan nhà nước,
Ngân hàng trung ương, Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác… để hình
thành nguồn vốn cho vay.
Thứ hai, Ngân hàng thương mại dùng nguồn vốn đã huy động được để cho vay
đối với chủ thể kinh tế thiếu vốn – có nhu cầu bổ sung vốn, gửi vào tài khoản dự trữ
bắt buộc hoặc tài khoản thanh toán tại Ngân hàng trung ương, Ngân hàng thương mại
hoặc các tổ chức tín dụng khác.
Chức năng trung gian tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối
tác trong quan hệ tín dụng:
- Người gửi tiền thu được lợi từ vốn tạm thời nhàn rỗi với khoản lãi tiền gửi.
Hơn nữa, Ngân hàng cịn đảm bảo an tồn cho các khoản tiền gửi và cung cấp cho
khách hàng các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
- Người đi vay thoả mãn được nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc tiêu
dùng, mà khơng phải tốn kém nhiều chi phí và thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung
cấp vốn.
- Bản thân Ngân hàng thương mại sẽ thu được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng mơi giới. Lợi nhuận này là có sở để tồn
tại và phát triển ngân hàng.
- Đối với nền kinh tế, chức năng này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì
nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và
để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi

khơng hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích q trình luân chuyển vốn, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh.
b. Chức năng trung gian thanh toán
Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán trên cơ sở những hoạt động đi
vay và cho vay. Việc nhận tiền gửi và theo dõi các khoản chi trên tài khoản tiền gửi
của khách hàng là tiền đề để ngân hàng thực hiện chức năng này. Mặt khác, việc thanh
toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như khơng an
tồn, chi phí lớn… đã tạo nên nhu cầu thanh toán qua ngân hàng.
Khi làm trung gian thanh toán, Ngân hàng thương mại tiến hành các nghiệp vụ
như: Mở tài khoản tiền gửi, nhận vốn tiền gửi vào tài khoản và thanh toán theo yêu cầu
của khách hàng. Trong đó, thanh tốn theo u cầu của khách hàng là kết quả sau khi
thực hiện hai công việc trên. Ngân hàng trích tiền từ tài khoản tiền gửi của khách hàng
để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi, tiền thu bán
hàng và các khoản thu theo lệnh của khách hàng.
Chức năng trung gian thanh tốn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh
tế:
- Nhờ tập trung cơng việc thanh tốn của xã hội vào ngân hàng, nên mọi khoản
thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an tồn và tiết kiệm
chi phí. Điều này góp phần tăng nhanh tốc độ lưu thơng hàng hố, tốc độ luân chuyển
vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.

109


- Do thực hiện chức năng trung gian thanh toán, Ngân hàng thương mại có điều
kiện huy động tiền gửi của khách hàng tới mức tối đa, mở rộng cho vay và đầu tư, đẩy
mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
- Qua chức năng này, Ngân hàng thương mại đã góp phần giám sát kỷ luật hợp
đồng kinh tế, tài chính và thanh tốn theo đúng quy định của pháp luật Nhà nước.
c. Chức năng tạo tiền chuyển khoản (bút tệ)

Chức năng này được thực hiện trên cơ sở:
- Khi hệ thống Ngân hàng hai cấp đã được hình thành, các ngân hàng khơng
cịn hoạt động riêng lẻ mà theo hệ thống. Trong đó Ngân hàng trung ương giữ độc
quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và với vai trò ngân hàng của các ngân hàng. Còn
các ngân hàng thương mại chuyên kinh doanh tiền tệ trong mối quan hệ với các doanh
nghịêp và cá nhân…
- Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh tốn, Ngân hàng
thương mại có khả năng tạo ra tiền gửi thanh tốn. Thơng qua chức năng làm trung
gian tín dụng, Ngân hàng sử dụng số tiền cho vay lại được khách hàng sử dụng để
thanh toán chuyển khoản cho khách hàng ở ngân hàng khác và chỉ thực hiện nghiệp vụ
cho vay, ngân hàng mới bắt đầu tạo tiền.
Từ một khoản tiền gửi ban đầu, thông qua hoạt động cho vay trong hệ thống
ngân hàng thương mại, số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với lượng tiền gửi ban đầu.
VD: Ngân hàng Trung ương đưa ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%. Ngân hàng
thương mại A nhận được 100 triệu đồng tiền gửi từ khách hàng.
Tình hình tài chính của ngân hàng thương mại A như sau:
Tài sản
- Dự trữ bắt buộc: 10 triệu
- Tín dụng: 90 triệu

Nguồn vốn
- Tiền gửi của khách hàng: 100 triệu

Giả sử ngân hàng thương mại B vay hết số tiền này của A. Tình hình tài chính
của ngân hàng thương mại B như sau:
Tài sản
- Dự trữ bắt buộc: 9 triệu
- Tín dụng: 81 triệu

Nguồn vốn

- Tiền đi vay: 90 triệu

Giả sử ngân hàng thương mại C vay hết số tiền này của B. Tình hình tài chính
của ngân hàng thương mại C như sau:
Tài sản
- Dự trữ bắt buộc: 8,1 triệu
- Tín dụng: 72,9 triệu

Nguồn vốn
- Tiền đi vay: 81 triệu

Đến lượt ngân hàng thương mại C cho vay, tình hình cũng diễn ra tương tự. Vì
các ngân hàng thương mại phải thực hiện dự trữ bắt buộc tại ngân hàng Trung ương
nên số tiền cho vay giảm dần và đi tới triệt tiêu. Nói cách khác, q trình huy động tiền
gửi và cho vay của các ngân hàng thương mại trên cơ sở lượng tiền mặt khách hàng
gửi vào ban đầu sẽ được kéo dài và chỉ dừng lại khi nào tồn bộ lượng tiền gửi ban đầu
đó quay trở về ngân hàng Trung ương dưới dạng tiền gửi dự trữ bắt buộc.

110


Khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào các yếu tố như: tỷ
lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa và tỷ lệ giữa tiền mặt so với tiền gửi thanh toán.
Mở rộng tiền gửi là chức năng vốn có của hệ thống ngân hàng thương mại, gắn
liền với hoạt động tín dụng và thanh tốn. Hay nói cách khác, khi ngân hàng cung ứng
tín dụng bằng chuyển khoản là nó tạo ra tiền và tăng lượng tiền cung ứng, khi thu nợ,
lượng tiền cung ứng giảm xuống.
Như vậy, lượng tiền trong giao dịch không chỉ là giấy bạc ngân hàng do ngân
hàng Trung ương phát hành, mà một bộ phận quan trọng là tiền chuyển khoản (bút tệ)
do các ngân hàng thương mại tạo ra.

Chức năng tạo tiền có ý nghĩa quan trọng:
- Khối lượng tiền do các Ngân hàng thương mại tạo ra có ý nghĩa lớn, tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của quá trình sản xuất kinh doanh đáp ứng
nhu cầu sử dụng tiền của xã hội.
- Việc tạo ra tiền chuyển khoản để thay thế cho tiền mặt là một sang kiến quan
trọng thứ hai của lịch sử hoạt động ngân hàng. Chính nhờ phương thức tạo tiền đã tiết
kiệm được chi phí lưu thông và ngân hàng trở thành trung tâm của đời sống kinh tế xã hội.
6.2.1.4. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
a. Hoạt động tạo lập vốn
a1/ Vốn chủ sở hữu (vốn tự có)
Mỗi ngân hàng phải có một số vốn tự có làm điều kiện ban đầu cho sự nghiệp
kinh doanh của mình. Số vốn tự có này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn
của ngân hàng thương mại. Vốn tự có của ngân hàng thương mại gồm: vốn điều lệ, các
quỹ và lợi nhuận chưa chia, các loại vốn khác.
- Vốn điều lệ: Là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động và trong giấy phép hoạt
động của ngân hàng. Vốn điều lệ là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng
góp, vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc tối thiểu bằng vốn pháp định, vốn điều lệ phụ thuộc
vào hình thức sở hữu của ngân hàng.
Nếu là ngân hàng quốc doanh thì vốn điều lệ là vốn của Nhà nước. Nếu là ngân
hàng cổ phần thì vốn điều lệ là vốn góp của các cổ đơng. Nếu là ngân hàng tư nhân thì
vốn điều lệ là vốn góp của cá nhân. Nếu là ngân hàng liên doanh thì vốn điều lệ là vốn
góp của ngân hàng bản xứ và ngân hàng nước ngoài.
- Các quỹ và lợi nhuận chưa chia:
Các quỹ của ngân hàng thương mại thường có:
+ Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ
+ Quỹ phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng
+ Quỹ khen thưởng phúc lợi
Các quỹ này của ngân hàng thương mại đều được trích từ lợi nhuận ròng hàng
năm để lập quỹ. Như vậy ngân hàng thương mại nào kinh doanh có lãi cao thì nguồn
vốn chủ sở hữu sẽ tăng nhanh, cịn ngân hàng thương mại nào kinh doanh có lãi thấp

thì nguồn vốn chủ sở hữu sẽ tăng chậm.

111


Ngồi việc trích lập các quỹ trên từ lãi rịng hàng năm, ngân hàng thương mại
phải lập quỹ dự phòng tài chính (quỹ dự phịng rủi ro), quỹ này được tính vào chi phí
của ngân hàng.
Nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh của một
ngân hàng thương mại, nó là tiền đề, là cơ sở để ngân hàng thu hút nguồn vốn huy
động. Đồng thời vốn tự có là cơ sở để xác định hệ số an toàn trong kinh doanh.
a2/ Nguồn vốn huy động
Huy động vốn nhàn rỗi là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của
ngân hàng thương mại, nó tạo ra nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh. Vốn huy động
gồm có huy động tiền gửi, huy động bằng việc phát hành các giấy tờ có giá trị như kỳ
phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi…
* Nguồn vốn huy động tiền gửi:
Ngân hàng thương mại tập trung huy động vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong
xã hội để hình thành quỹ cho vay của mình bằng cách nhận tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại ngoại tệ khác.
- Tiền gửi không kỳ hạn
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào,
nó có thể là tiền gửi thanh tốn hoặc tiền gửi tiết kiệm khơng kỳ hạn.
Với tiền gửi thanh tốn, người sở hữu nó chun dùng để thanh tốn chuyển
khoản và có thể rút ra sử dụng bất kỳ lúc nào mà không cần phải báo trước về thời hạn
và khối lượng tiền cần rút. Khách hàng gửi tiền loại này khơng với mục đích kiếm lời
mà chủ yếu để thực hiện các khoản chi mua hàng hóa, dịch vụ.
Với tiền gửi tiết kiệm khơng kỳ hạn, người sở hữu cũng có thể rút ra sử dụng
bất kỳ lúc nào mà không cần báo trước, tuy nhiên khách hàng gửi loại tiền này khơng
nhằm mục đích kiếm lời hay thanh tốn mà chỉ để an tồn và khi họ cần sử dụng tiền

thì có thể ngay lập tức rút ra.
Tiền gửi không kỳ hạn bao gồm các khoản tiền gửi tạm thời của các cá nhân,
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế…với mục đích chính là thanh toán chuyển khoản.
Đặc trưng của loại nguồn vốn này đối với ngân hàng thương mại là biến động
thường xuyên vì khách hàng có thể rút tiền bất kỳ lúc nào làm cho ngân hàng bị động
sử dụng vốn kinh doanh. Nhưng trong thực tế khách hàng vẫn gửi, rút thường xuyên
hoặc gửi, rút mang tính chất gối đầu nên ngân hàng vẫn sử dụng vào hoạt động cho
vay và đầu tư của mình trên cơ sở số dư ổn định, do kết quả bù trừ của số tiền gửi vào
và rút ra trong thời kỳ nhất định với điều kiện ngân hàng thương mại phải tính tốn
đầy đủ khả năng chi trả của mình, điều này đặc biệt cần được chú ý đến trong thời kỳ
có nhiều biến động trong nền kinh tế.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà chủ sở hữu nó chỉ có thể rút ra và có
quyền hưởng 100% lãi suất theo thời hạn đã định. Nhưng trong thực tế, do quy luật
cạnh tranh chi phối, để thu hút được nhiều tiền gửi của khách hàng, ngân hàng thương
mại cho phép khách hàng rút tiền ra trước thời hạn, nhưng chỉ được hưởng lãi suất của
tiền gửi không kỳ hạn.

112


Tiền gửi có kỳ hạn thường bao gồm các khoản tiền gửi của các nhà kinh doanh
tiền tệ, các công ty, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế.
Khách hàng gửi tiền có kỳ hạn với mục đích là nhắm đến khả năng sinh lời của
tiền tệ, vì vậy đối với loại tiền gửi này ngân hàng thương mại phải thực hiện chính
sách lãi suất thỏa đáng cho khách hàng.
Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn kinh doanh mang tính chất ổn định, ngân hàng
thương mại có thể sử dụng một cách chủ động để cho vay. Vì vậy ngân hàng thương
mại rất quan tâm và sử dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ để huy động loại tiền gửi này,
chẳng hạn như: quy định nhiều loại thời hạn (1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12

tháng, 2 năm, 3 năm…). Quy định nhiều mức lãi suất thích hợp, theo nguyên tắc thời
gian càng dài thì lãi suất tiền gửi càng cao. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại cịn
đưa ra rất nhiều chương trình khuyến mại khác nhằm thu hút bộ phận tiền gửi này.
Tiền gửi có kỳ hạn khác với tiền gửi không kỳ hạn ở chỗ: Tiền gửi khơng kỳ
hạn khơng phải tiền để tích lũy, mà là bộ phận tiền tệ đang chờ thanh toán, khách hàng
có thể rút hoặc sử dụng thanh tốn bất kỳ lúc nào, khách hàng được sử dụng: séc, giấy
chuyển tiền để thanh tốn, khơng ổn định như tiền gửi có kỳ hạn.
* Nguồn vốn huy động do phát hành các giấy tờ có giá trị:
Ngồi huy động tiền gửi, ngân hàng thương mại còn huy động vốn bằng cách
phát hành các giấy tờ có giá trị. Trong hình thức này, ngân hàng chủ động phát hành
chứng từ có giá theo đợt để bổ sung nguồn vốn kinh doanh, bộ phận này được huy
động không thường xuyên, không liên tục mà chỉ mang tính định kỳ hoặc đột xuất khi
ngân hàng cần tăng vốn.
- Chứng chỉ tiền gửi: Là công cụ vay nợ ngắn hạn do ngân hàng thương mại
phát hành, thanh toán lãi định kỳ và thanh toán gốc khi đến hạn cho người sở hữu nó.
- Trái phiếu ngân hàng: Là giấy tờ có giá trị trung và dài hạn, phổ biến là loại
chứng chỉ có thời hạn một năm trở nên.
b. Hoạt động sử dụng vốn
Sử dụng vốn là hoạt động kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sử dụng vốn ngày càng đa
dạng và được thực hiện dưới nhiều hình thức:
b1/ Nghiệp vụ cho vay
Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ cung ứng vốn của ngân hàng trực tiếp cho các
nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thoả mãn các điều kiện vay vốn của ngân hàng.
Khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, ngân hàng có thể kiểm sốt trực tiếp và thường
xuyên mục đích sử dụng tiền vay. Đối với các ngân hàng truyền thống, cho vay là
nghiệp vụ sinh lời chủ yếu và được thực hiện thông qua các hình thức phổ biến sau:
+ Chiết khấu thương phiếu: Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cho vay ngắn
hạn trong đó ngân hàng mua những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán của khách
hàng với giá trị bằng giá trị thương phiếu trừ đi phần lợi tức chiết khấu và hoa hồng

phí. Đến thời hạn thanh tốn của thương phiếu, ngân hàng đòi người mắc nợ thương
phiếu theo giá trị của thương phiếu.
+ Cho vay ứng trước: Cho vay ứng trước là một thể thức cho vay được thực
hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó người đi vay được phép sử dụng một mức

113


cho vay trong một thời hạn nhất định. Để thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng mở cho
khách hàng một tài khoản cho vay, chuyển số tiền cho vay vào tài khoản đó để khách
hàng sử dụng.
+ Cho vay vượt chi (thấu chi): Đây là hình thức đặc biệt của tín dụng ứng trước,
thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó người vay được phép sử dụng dư nợ
trong một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai. Gọi là cho vay thấu
chi vì về ngun tắc, khách hàng ln phải có số dư Có trên tài khoản tiền gửi thanh
tốn để sẵn sàng chi trả và chỉ được chi trong số vốn đã có của mình. Như vậy ngân
hàng đã tự động cho vay một số tiền theo nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Nghiệp vụ này giúp cho khách hàng sử dụng vốn chủ động, tiện lợi nhưng ngân
hàng phải theo dõi chặt chẽ tài khoản này để tránh vượt chi quá hạn mức. Nó thường
được áp dụng cho những khách hàng có khả năng tài chính mạnh và có uy tín.
+ Tín dụng uỷ thác thu hay bao thanh tốn (Factoring)
Trong nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại thông qua cơng ty con mình sẽ
đứng ra mua nợ trên cơ sở hoá đơn, chứng từ của người bán hàng (giá mua bao giờ
cũng nhỏ hơn giá trị thực của khoản nợ), nhờ đó người bán (người chủ nợ) có được
tiền ngay để đáp ứng nhu cầu của họ. Khi đến hạn, người mua (con nợ) phải thanh
tốn tồn bộ số tiền cho ngân hàng (lúc này là chủ nợ mới). Thực ra factoring gần
giống với nghiệp vụ chiết khấu nhưng số tiền khấu trừ trong nghiệp vụ factoring cao
hơn nhiều so với nghiệp vụ chiết khấu bởi vì factoring có hệ số rủi ro cao hơn.
+ Cho vay thuê mua: Cho vay th mua là hình thức tín dụng trung, dài hạn
được thực hiện thông qua việc cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, các động sản và

bất động sản khác. Ngân hàng sẽ dùng vốn của mình để mua tài sản theo yêu cầu của
người thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản
thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và
không được huỷ bỏ hợp đồng trước hạn. Khi hết thời hạn thuê, bên thuê được chuyển
quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận
trong hợp đồng. Đây chính là một nghiệp vụ cho vay, bởi vì thay cho việc cho vay
bằng tiền để khách hàng mua tài sản, ngân hàng đã đứng ra mua và cho thuê lại. Số
tiền thuê phải bù đắp được chi phí khấu hao, chi phí tài chính (ứng với lãi của số vốn
ngân hàng bỏ ra mua tài sản), chi phí quản lý, lãi của người cho thuê (ngân hàng).
+ Bảo lãnh ngân hàng
Thực chất, bảo lãnh ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký, nhờ chứng thư bảo lãnh
của ngân hàng mà người được bảo lãnh có thể ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh
tế, thương mại, hợp đồng tài chính một cách thuận lợi. Tuy bảo lãnh là nghiệp vụ tín
dụng khơng xuất vốn nhưng lại có rủi ro, vì ngân hàng bảo lãnh buộc phải thực hiện
cam kết bảo lãnh khi người bảo lãnh vì lý do nào đó đã khơng thực hiện hoặc thực
hiện khơng đúng nghĩa vụ của mình, nghĩa là ngân hàng bảo lãnh phải đứng ra trả tiền
thay cho người được bảo lãnh. Trong hoạt động kinh tế, thương mại, tài chính các
chứng thư bảo lãnh của ngân hàng đều rất có uy tín, được tin tưởng khơng những trong
phạm vi một nước mà cả trên phạm vi quốc tế.
b2/ Nghiệp vụ đầu tư
Đầu tư là hình thức bỏ vốn nhằm thực hiện và thu được một kết quả nhất định
về kinh tế - xã hội. Theo nghĩa hẹp hơn thì đầu tư là một hình thức bỏ vốn để kiếm lời.

114


Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế, ngồi việc thực hiện nghiệp vụ
tín dụng cịn được quyền thực hiện các nghiệp vụ đầu tư tạo ra tài sản Có sinh lời càng
nhiều càng tốt, đây là nghiệp vụ mang lại khoản thu nhập đáng kể cho các ngân hàng
thương mại.

Đầu tư cuả ngân hàng có thể phân chia thành hai nhóm:
- Đầu tư trực tiếp: Là hình thức ngân hàng bỏ vốn đầu tư trực tiếp quản lý và sử
dụng phần vốn của mình, để tạo ra lợi nhuận. Các ngân hàng chỉ được quyền sử dụng
vốn của mình (vốn chủ sở hữu) để đầu tư trực tiếp. Các hình thức đầu tư này gồm:
+ Hùn vốn liên doanh trong nước và ngoài nước
+ Mua cổ phần của các công ty, đơn vị kinh tế
+ Mua cổ phần của các ngân hàng cổ phần
+ Cấp vốn thành lập các công ty con (công ty cho thuê tài chính, cơng ty chứng
khốn, cơng ty mua bán nợ, cơng ty đầu tư,cơng ty bảo hiểm…)
- Đầu tư tài chính (đầu tư chứng khốn): Đầu tư tài chính là hình thức đầu tư
linh hoạt, người đầu tư có thể dễ dàng thay đổi danh mục đầu tư theo hướng có lợi, vì
vậy đây là hình thức đầu tư thường được các ngân hàng thương mại sử dụng khá phổ
biến. Trong điều kiện có sự hoạt động của thị trường chứng khốn, các chứng khốn
đều có tính thanh khoản cao, do đó đầu tư vào chứng khốn khơng những tạo ra khoản
mục đầu tư có mức sinh lời tương đối ổn định mà còn tạo ra khoản “dự trữ thứ cấp”
sẵn sàng hỗ trợ các nhu cầu thanh toán phát sinh nhanh ngồi dự kiến của ngân hàng.
Đầu tư tài chính rõ ràng là loại hình đầu tư khơn khéo và linh hoạt.
Đầu tư tài chính được thực hiện bằng cách:
+ Đầu tư vào trái phiếu Chính phủ và trái phiếu của ngân hàng Trung ương.
Đầu tư loại này có hệ số rủi ro bằng khơng vì vậy các ngân hàng có vốn khả dụng lớn
thường đầu tư vào loại này.
+ Đầu tư vào trái phiếu công ty: Trái phiếu công ty có lãi suất thường cao hơn
trái phiếu Chính phủ và trái phiếu ngân hàng Trung ương song tỷ lệ rủi ro cũng cao
hơn.
c. Hoạt động dịch vụ
Dịch vụ ngân hàng được phát triển mạnh trong điều kiện kinh tế thị trường và
đưa lại nguồn thu đáng kể cho các ngân hàng thương mại. Hoạt động dịch vụ được
thực hiện dưới các hình thức sau:
- Thanh tốn: Ngân hàng thương mại là một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán cho khách hàng. Dịch vụ này bao gồm thanh toán không dùng tiền mặt hoặc thu –

chi tiền mặt qua ngân hàng. Đây là một nghiệp vụ truyền thống, đồng thời được phát
triển mạnh trong nền kinh tế thị trường. Thơng qua hoạt động thanh tốn, ngân hàng
thu được lệ phí, tập trung được nhiều nguồn vốn và thơng qua đó kiểm sốt được chu
chuyển tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân vì ngân hàng vừa đóng vai trị trung gian
thanh tốn vừa là người kiểm sốt q trình thanh tốn.
Các dịch vụ thanh tốn có thể chia thành hai nhóm:
+ Dịch vụ thanh tốn quốc nội (thanh tốn bằng séc, nhờ thu, uỷ nhiệm chi, thẻ
tín dụng…)

115


×