Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Những thuận lợi và khó khăn khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.09 MB, 123 trang )

TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
ĐẠI
HÓC NGOẠI
THƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT
NGHIỆP
<2£tàù
NHỮNG
THUẬN
LỢI VÀ KHÓ
KHẢN
KHI THÂM
NHẬP
THỊ
TRƯỜNG
HOA KỲ CỦA
CÁC
DOANH
NGHIỆP
XUẤT
KHẨU
HÀNG
DỆT MAY
VIỆT
NAM
Giáo viên hướng dẫn


:
GIẢNG
VIÊN vũ THỊ
HẠNH
Sinh
viên
thực
hin
:
MAI THỊ
THANH
HÒA
Lớp —: NGA - K40 - KTNT
pLíĩQỈX-í

ãLL£j
HÀ NỘI
-
2005
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận văn
tốt
nghiệp
-
Khóa 2001
-

2005
MỤC
LỤC
Chương Ị. TONG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT
KHẨU
HÀNG
DỆT MAY
VIỆT
NAM Ì
ì-
Lịch sử phát
triển
ngành
dệt
may
Việt
Nam Ì
Ì-
Giai
đoạn trước năm 1986
(giai
đoạn hình thành
của
ngành
dệt
may
Việt
Nam)
2
2-

Giai
đoạn
từ
năm
1986-1987
(Giai
đoạn
phục
hồi
của ngành
dệt
may
Việt
Nam)
3
3-
Giai
đoạn
từ
1987 đến nay
(Giai
đoạn phát
triển
của
ngành
dệt
may
Việt
Nam)
6

li.
Thực
trạng
vấn đề sỰn
xuất

xuất
khẩu hàng
dệt
may
nước
ta
10
Ì- Thực
trạng
vấn
đề
sản
xuất
hàng
đét
may
10
2-
Tinh
hình
xuất
khẩu
hàng
dệt

may
của
Việt
Nam 21
Chương
ụ- THỰC TRẠNG XUẤT
KHAU
HÀNG
DỆT MAY
VIỆT
NAM
SANG
THỊ
TRƯỜNG
HOA KỲ
-
THUẬN
LỢI
VÀ KHÓ KHẢN.
ì-
Tổng
quan
về
thị
trường
Hoa Kỳ 30
Ì- Khái quát
về
thị
trường

Hoa
Kỳ 30
2-
Đc
điểm
thị
trường
dệt
may Hoa
Kỳ 31
3-
Vấn đề pháp
luật
tại
thị
trường
Hoa
Kỳ 36
4-
Hệ
thống
phân
phối
hàng
hoa
trên
thị
trường
Hoa
Kỳ 38

li-
Thực
trạng
xuất
khẩu hàng
dệt
may
Việt
Nam
tại
thị
trường
Hoa Kỳ 40
Ì- Các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
chủ yếu
thực hiện xuất
khẩu
hàng
dệt
may
Việt
Nam
sang
thị
trường
Hoa

Kỳ
trong
thời
gian
qua
40
2-
Tinh
hình
xuất
khẩu
44
Sinh
viên thục hiện:
Mai
Thị Thanh
Hòa
- Lớp
Nga
K40D
-
KTNT
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận vãn
tốt
nghiệp

-
Khóa 2001
-
2005
ni-
Thuận
lợi
và khó
khăn đôi
với
hàng dệt
may
Việt
Nam
khi thâm
nhập
thị
trường
Hoa Kỳ 52
Ì-Thuận
lợi
52
1.1-
Thuận
lợi
mang tính chủ
quan
52
1.2- Thuận
lợi

mang tính khách
quan
56
2-
Khó khăn và
tồn
tại
60
2.1-
Khó khăn mang tính chủ
quan
60
2.2-
Khó khăn mang tính khách
quan
67
Chương HI- GIẢI PHÁP
ĐẨY
MẠNH
XUẤT KHẨU
HÀNG
DỆT MAY
VIỆT
NAM VÀO THể
TRƯỜNG
HOA KỲ 83
ì- Định hướng phát
triển
hàng dệt
may

Việt
Nam
vào
thị
trường
Hoa Kỳ
trong
những
năm
tới
83
Ì-
Sự
cần
thiết
của
việc
đẩy
mạnh
xuất
khẩu
hàng
dệt
may
Việt
Nam
vào
thị
trường
Hoa

Kỳ
trong
những
năm
tới
83
2-
Định
hướng
phát
triển
hàng
dệt may
Việt
Nam vào thị
trường
Hoa
Kỳ
84
li-
Giải
pháp đẩy
mạnh
xuất
khẩu hàng dệt
may
Việt
Nam
vào
thị

trường
Hoa
Kỳ
92
Ì-
Giải
pháp

mô 92
2-
Giải
pháp
vi
mô 105
IU- Kiến
nghị
109
Ì -
Kiến
nghị
xem
xét
lại
cách phân b hạn
ngạch
dệt
may
sang
Hoa
Kỳ 109

2-
Kiến
nghị giảm
phí hạn
ngạch
xuất
khẩu
dệt
may
sang
Hoa Kỳ
Ì lũ
Kiến
nghị
đơn
giản
Kết
luận
Tài
liệu
tham
khảo
3- hoa
thủ tục hải
quan
110
4-
Đơn
giản
hoa

thủ tục xuất
khẩu
112
Sinh
viên thục hiện:
Mai
Thị Thanh
Hòa
- Lớp
Nga
K40D
-
KTNT
Trường
Đại học
Ngoại
Thương
Luận văn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001
-
2005
LỜI
MỞ ĐẦU
Việt
Nam là một
quốc
gia đông dân cư, giá nhân công tương đối rẻ so với một
số

quốc
gia trong
khu
vực.
Hơn
nữa, hiện
nay
Việt
Nam đang
trong
giai
đoạn
công
nghiệp
hóa,
hiện
đại hóa đất
nước.
Việc
tập
trung
đẩu tư phát
triển
ngành công
nghiệp
dệt
may
trong
thời
gian

tới
là vô cùng
quan
trọng đối với
nền
kinh tế
nước
ta.
Trải
qua một quá trình phát
triển
lâu
dài,
đến nay ngành công
nghiệp
dệt
may
Việt
Nam đã có mặt
tại
nhiều
thủ
trường
lớn
trên
thế
giới,
đáp ứng nhu cầu của
rất
nhiều

thủ
trường khó tính như: Hoa Kỳ,
Nhật
Bản, EU,
Canada Trong
số các
thủ
trường
tiềm
năng nói trên chúng
ta phải
kể
tới
Hoa Kỳ
với tiềm
năng
nhập
khẩu
hàng
dệt
may
khổng
lồ
hàng năm.
Hiệp
đủnh thương mại
Việt
Nam - Hoa Kỳ được ký
kết
tháng 7 năm

2000
và có
hiệu lực từ
ngày lo tháng 12 năm 2001 đã mở
ra
một
trang
mới trong
mối
quan
hệ
giữa hai
nước,
đổng
thời
Hiệp
đủnh
cũng
tạo
điều
kiện
thúc
đẩy
quan
hệ thương mại
giữa hai
nước.
Với lượng tiêu
thụ
hàng

dệt
may
khổng
lồ
hàng năm, Hoa Kỳ được
coi

thủ
trường
tiềm
năng chủ
chốt
của ngành
dệt
may
Việt
Nam
trong
tương
lai.
Để
thực
hiện
được mục tiêu đó,
việc
nghiên
cứu,
tìm
hiểu
những

đặc
điểm
cũng
như
những
quy đủnh về
hoạt
động
xuất
nhập
khẩu
hàng dệt
may
tại
thủ
trường Hoa Kỳ là vô cùng
quan
trọng
và cần
thiết.
Qua nghiên cứu tình
hình
thủ
trường
cũng
như tình hình
xuất
nhập
khẩu
hàng

dệt
may
Việt
Nam của
thủ
trường
này sẽ giúp ngành
dệt
may đề
ra
được
những
giải
pháp
thiết
thực
nhất
nhằm
gia
tăng kim
ngạch
xuất
khẩu
hàng
dệt
may vào
thủ
trường Hoa Kỳ.
Không kể
phần

phụ
lục,
phần
mở
đầu, kết luận,
bài
luận
văn được
chia
làm 3
chương chính như
sau:
- Chương
ì -
Lủch
sử phát
triển
ngành
dệt
may
Việt
Nam
- Chương
li
-
Thực
trạng
xuất
khẩu
hàng

dệt
may
Việt
Nam
sang
thủ
trường Hoa
Kỳ
-
Thuận
lợi
và khó khăn.
Sinh
viên thực hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận vãn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001 -
2005
- Chương
in
-
Giải
pháp đẩy

mạnh
xuất
khẩu
hàng
dệt
may
Việt
Nam vào
thị
trường
Hoa Kỳ.
Mặc dù đã có
nhiều
cố
gắng
trong việc
nghiên cứu và hoàn thành bài
luận
vãn
này,
song
khóa
luận
cũng
không tránh được một vài
thiếu
sót.
Em mong
nhận
được ý

kiến
đóng
góp,
phê bình
tỡ
phía các
thầy
cô để rút
kinh
nghiệm
trong
các công trình
nghiên cứu
tiếp
theo.
Em
xin
chân thành cảm ơn cô giáo Vũ Thị Hạnh,
người
đã
tận
tình giúp đỡ em hoàn thành bài
luận
văn
này.
Em
xin
chân thành cảm em Khoa
Kinh
tế

Ngoại
Thương đã
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
giúp em hoàn thành bài
luận
văn.
Sinh
viên thực hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
Trường
Đại học
Ngoại
Thương
Luận vãn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001 -
2005
Chương
ì:
TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHAU
HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
ì-
Lịch
sử phát
triển

ngành dệt may
Việt
Nam
Ngành dệt may là một
trong
những
ngành có
lịch
sử phát
triển
lâu đời ở nước
ta.
Công
nghiệp
dệt
may đã có ở
Việt
Nam
khoảng
Ì
thế
kỷ
nay, tuy
nhiên nó mới
chỉ trở
thành ngành
kinh tế
thực
sự
quan

trọng trong
lo năm qua và sự hòa
nhập
cứa
ngành
dệt
may nước
ta
vào ngành
dệt
may
thế
giới
cũng
chậm hơn các
quốc
gia
khác
từ
15 đến 20 năm.
Theo
một số
tài
liệu
ghi
chép
lại
thì sự phát
triển
chính

thức
cùa
ngành Công
Nghiệp
Dệt May
Việt
Nam có
điểm
khởi
đầu từ ngành Công
Nghiệp
Dệt
Nam
Định,
được thành
lập
vào năm
1889.
Xuất
khẩu
hàng
dệt
may đã
trở
thành
một
ngành đặc
biệt
quan
trọng trong

nền
kinh tế
nước
ta với
kim
ngạch
xuất
khẩu
luôn đứng sau dầu thô
trong nhiều
năm
nay.
Tuy
rằng
cho đến nay ngành
dệt
may
nước
ta
vẫn còn non
trẻ
song
toàn ngành
cũng
đã
đạt
được
những
thành
tựu

đáng kể
trong
thời
gian
gần
đây.
Ngành
dệt
may đang dần
khẳng
định
vai
trò
quan
trọng
cứa
mình
trong
nền
kinh tế
và bước đầu đang
hội
nhập
vào nền
kinh tế thế
giới.
Để có
được
nhũng
thành công ấy ngành

dệt
may
Việt
Nam đã
phải
trải
qua
những
bước
thăng
trầm
to
lớn trong lịch
sử phát
triển
cứa mình. Mỗi
giai
đoạn
phát
triển
cùa
ngành
dệt
may đều gắn
liền
với
những
sự
kiện lịch
sử

quan
trọng
cứa
đất
nước
ta.
Lịch
sử ngành
dệt
may
Việt
Nam có
thể chia
làm 3
giai
đoạn
với
đặc thù riêng cứa
từng
giai
đoạn
như
sau:
Sinh
viên thực hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
Trường
Đại học
Ngoại
Thương

Luận vãn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001 -
2005
Ì-
Giai
đoạn
trước năm 1986
(giai
đoạn
hình thành của ngành
dệt
may
Việt
Nam)
Năm 1954, sau khi hòa bình lập lại,
miền
Bắc hoàn toàn
giải
phóng và có
điểu
kiện
phát
triển
kinh
tế,
chi viện
cho
miền

Nam đấu
tranh
chống
đế
quốc,
thống
nhất
nước nhà. Tuy
thời
kỳ này ngành
dệt
may
Việt
Nam chưa có
nhiều
bước
tiến
nhảy
vọt,
song
nhờ sự
quan
tâm của
Đảng
và Nhà
nước,
ngành
dệt
may của
ta

đã
bước
đầu được đầu tư
trang
thiết
bẩ
hiện đại
phục
vụ cho sản
xuất,
từng
bước nâng
cao chất
lượng sản phẩm,
tạo
công ăn
việc
làm cho xã
hội
Một
loạt
các nhà máy
với
công
suất lớn
đã được thành
lập
và bước đẩu
hoạt
động có

hiệu
quả như: Nhà
máy Dệt
8-3,
nhà máy Dệt Vĩnh Phúc
Năm 1975 nước
ta
hoàn toàn
giải
phóng, nhân dân ba
miền
thống
nhất,
cả
nước
cùng
nhau
xây
dựng
và phát
triển
kinh tế
nước nhà. Để
thực
hiện
thành công
công
cuộc
xây
dựng

và phát
triển
kinh tế đất
nước
Đảng
và Chính Phủ đã đề ra
chương trình
kinh tế tập trung với
3 vấn đề
lớn:
Lương
thực
-
Thực
phẩm - Hàng
tiêu dùng. Chương trình đã đề ra mục tiêu phát
triển
kinh tế
chú
trọng
vào 3 mặt
hàng
thiết
yếu của
đời
sống
là lương
thực,
thực
phẩm và hàng tiêu dùng. Hàng

loạt
nhà máy mới được đầu tư xây
dựng
để
phục
vụ cho mục tiêu phát
triển
kinh tế
như:
Nhà máy
sợi
Vinh,
nhà máy
sợi Huế,
công
ty
may
Việt Tiến,
công
ty
may Nhà Bè
Sau khi
cả nước
bắt tay
vào công
cuộc
xây
dựng
và phát
triển

kinh tế sau chiến tranh,
Đảng
và Nhà Nước
ta
đã
nhận
thấy vai
trò
to lớn
của ngành
dệt
may
trong
nền
kinh
tế.
Tuy nhiên
những
dấu
hiệu hổi sinh
đáng
mừng
của ngành
dệt
may
trong
nước đã
làm nảy
sinh
nhu cầu về một

tổ
chức
quản

chung
cho toàn bộ ngành
dệt
may nước
ta
nói
chung.
Trước tình hình đó Chính Phủ đã
ra
quyết
đẩnh thành
lập
Liên
Hiệp
các xí
nghiệp
dệt
và Liên
hiệp
các xí
nghiệp
may. Trước đây ngành
dệt
may của
ta
trực

tiếp
chẩu
sự giám sát của Bộ Công
Nghiệp
nhẹ thì đến nay toàn ngành đều
chẩu
Sinh
viên thực hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
2
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận vãn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001 -
2005
Sự
điều
hành,
giám sát của cả
hai

quan
là Bộ Công
Nghiệp
Nhẹ và Liên

hiệp
các

nghiệp dệt
và Liên
hiệp
các xí
nghiệp
may.
Năm 1990 Bộ Công
Nghiệp
Nhẹ sát
nhập
lại
với
Liên
hiệp
các xí
nghiệp
dệt
và Liên
hiệp
các xí
nghiệp
may
lấy
tên là Liên
Hiệp
sản
xuất


xuất
nhập khẩu dệt
may. Các
doanh
nghiệp
sản
xuất theo
chỉ tiêu kế
hoạch từ
trên
giao
xuống.
Cũng
chính nhờ vào chương trình kế
hoạch
hóa
tập
trung
này cho nên chúng
ta
không bị
mất
cân
đối giẫa
ngành may và ngành
dệt
Bên
cạnh nhẫng
thành

tựu đạt được,
ngành
dệt
may vẫn còn gặp
phải
một số
vấn
đề
như:
dưới

chế
kế
hoạch
hóa
tập
trung
các
doanh
nghiệp
vẫn còn
hoạt
động
trì
trệ,
sản
xuất theo
chỉ
tiêu kế
hoạch

được
giao,
chưa
linh
động sáng
tạo
trong
sản
xuất,
chưa chú
trọng
cải
tiến
mẫu mã sản phẩm, nâng cao
chất
lượng,
sản phẩm, và
điều quan
trọng
hơn là các
doanh
nghiệp dệt
may
Việt
Nam
trong
giai
đoạn
này còn
chưa chú

trọng
nâng cao nâng
lực
cạnh
tranh
của hàng hóa hay nói đúng hơn là họ
còn chưa
thực
sự có một áp
lực
nào
trong
việc
sản
xuất
và tiêu
thụ
sản phẩm
khi
tiến
hành
kinh
doanh
theo
chỉ
tiêu trên
giao
xuống
như
trong

giai
đoạn
này
Nhẫng vấn
đề này đã được cơ
quan
các
cấp,
các ngành xem xét
cải
tiến
trong
giai
đoạn
phát
triển
tiếp
theo
của ngành
dệt
may
Việt
Nam.
2 -
Giai
đoạn
từ năm
1986-1997
(giai
đoạn phục

hồi của ngành dệt may
Việt
Nam)
Trước năm 1990 chúng ta chỉ
thiết
lập
quan
hệ với các nước xã hội chủ
nghĩa
(XHCN)
vì vậy
phần lớn
sản phẩm
dệt
may của chúng
ta
sản
xuất
ra
đều được tiêu
thụ
trong
nước
hoặc
xuất
khẩu sang
các nước Đông Âu. Tuy nhiên
khi
hệ
thống


hội
chủ
nghĩa
trên
thế
giới
sụp
đổ,
Liên xô và Đông Âu
tan
rã,
Việt
Nam
chuyển
từ
nền
kinh
tế
kế
hoạch
hóa
tập
trung
sang
nền
kinh
tế
thị
trường định

hướng
XHCN
đã
khiến
các
doanh
nghiệp dệt
may
Việt
Nam gặp không
ít
khó
khăn.
Với
thói
quen
sản
Sinh
viên thực hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
3
Trường
Đại học
Ngoại
Thương
Luận vãn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001 -
2005

xuất
và tiêu
thụ
hàng hóa
theo chỉ
tiêu,
kế
hoạch
của nền
kinh
tế
kế
hoạch
hóa
tập
trung
quan
liêu,
bao
cấp,
nay các
doanh
nghiệp phải
tách
ra hoạt
động độc
lập
đã dẫn
đến
một số vấn đề khó khăn về quy mô sản

xuất,
vốn,
công
nghệ

nguồn
lao
động
với
tay
nghề
cao Trước sự
thay đữi
về cơ
chế,
đường
lối,
chính sách của Đảng và
Nhà
nước,
Chính phủ đã ban hành
nghị
định NĐ 338/NĐ-CP quy định các
doanh
nghiệp
sản
xuất dệt
may không
chịu
sự

quản
lý của Liên
Hiệp
sản
xuất- xuất
nhập
khẩu
dệt
may nữa mà
chuyển
cho Bộ Công
Nghiệp
quản
lý.
Trong
giai
đoạn đầu của thòi kỳ này ngành
dệt
may
Việt
Nam gặp
rất nhiều
khó khăn do có
rất nhiều
doanh
nghiệp
phá sản vì không thích ứng được
với
tình
hình

mới.
Thay
vì sản
xuất

xuất
khẩu
dựa vào chỉ tiêu như trước đây, các
doanh
nghiệp
đã
bắt
đầu
tự
hạch
toán,
kinh
doanh
độc
lập,
tách
rời.
Điều
này đã
tạo
cho
doanh
nghiệp
có tính độc
lập

trong
sản
xuất

kinh
doanh,
bước đầu thích ứng
với
nền
kinh
tế thị
trưởng,
song

cũng
là nguyên nhân làm
xuất hiện
khuynh
hướng
cục
bộ và sự tách
rời,
chia
lẻ
trong
hoạt
động của các
doanh
nghiệp.
Vấn đề

đặt ra

đây là cần có một sự
quản
lý đồng bộ cho các
nghiệp dệt
may
trong
thời
kỳ này.
Trong
nội
bộ ngành
dệt
may
Việt
Nam lúc này
xuất hiện
tình
trạng
một số
doanh
nghiệp
tiến
hành
kinh
doanh
vì mục đích cá nhân mà
bất
chấp

lợi
ích các
doanh
nghiệp
khác
cũng
như
lợi
ích toàn ngành. Trước tình hình đó nhà nước
ra quyết
định
thành
lập
Tững Công
ty
Dệt May
Việt
Nam,
gọi
tắt
là VINATEX
(Vietnam National
Textile
and
Garment
Cooporation).
Tững công
ty ra đời

hoạt

động như một pháp
nhàn độc
lập
trực
thuộc
Bộ Công
Nghiệp,
có cơ cấu
tữ
chức
hoạt
động
theo
phương
thức
tập
đoàn
kinh
tế.
Giai
đoạn từ năm 1986 đến năm 1987 đánh dấu một bước
ngoặt
trong
nền
kinh
tế
Việt
Nam nhờ sự
ra đời
của

Luật
Đầu tư nước ngoài
tại
Việt
Nam vào năm
1987. Luật
này
ra đời
đã
tạo
điều
kiện
thuận
lợi
cho cả phía nhà đầu tư nước ngoài và
cả
phía các
doanh
nghiệp
Việt
Nam. Trước
kia
chúng
ta
đóng cửa nền
kinh
tế
và chỉ

quan

hệ
với
một số nước
(XHCN)
cho nên nền
kinh
tế
của chúng
ta
chưa
thể

Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
4
Trường
Đại học
Ngoại
Thương
Luận vãn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001 -
2005
được
một Sự
khởi
sắc đáng
kể.

Dưới
chế độ cũ nền
kinh tế
nước
ta
nắm
giữ
một
nguồn
nhân
lực
kém cả về trình độ và
tay
nghề,
hệ
thống
trang
thiết
bị cũ
kầ, lạc
hậu
hàng trăm năm so
với
các
quốc
gia
khác,

nguồn
vốn cẩn

thiết
để đầu tư phát
triển
kinh tế
cũng
hoàn toàn phụ
thuộc
vào
nguồn
ngân sách ít
ỏi trong
nước
Tất cả
những
hạn
chế
này là nguyên nhân chủ yếu làm cho nền
kinh tế
nước
ta
đến nay vẫn
chưa
thể
theo
kịp được
với
các
quốc
gia
khác trên

thế
giới.
Tuy nhiên đó là
những
vấn
đề
trong
giai
đoạn
trước,
khi
mà chưa có sự
ra đời
của
Luật
đầu tư nước ngoài.
Đến
nay tình hình đã hoàn toàn
đổi
khác.
Luật
đẩu tư nước ngoài đã
tạo
điểu
kiện
thuận
lợi
hơn cho các nhà đầu tư
trong
và ngoài nước đầu tư vào các

lĩnh
vực mà
mình
quan
tâm.
Trong
số đó ngành
dệt
may là một
trong
những
ngành
nhận
được
khá
nhiều
sự đầu tư
từ
các nhà đầu tư
trong
và ngoài
nước.
Chúng
ta
đã bước đầu cử
một
số cán bộ
sang
học
tập

công
nghệ
từ
các nước tiên
tiến
phương Tây, hệ
thống
trang
thiết
bị kầ
thuật
đã được đẩu tư nâng cấp đáng kể và một điều vô cùng
quan
trọng
nữa là ngành
dệt
may nước
ta
đã tìm được
nguồn
vốn đầu tư để phát
triển
sản
xuất,
nâng cao năng
suất,
chất
lượng sản phẩm. Nhờ đường
lối,
chính sách đúng đắn

của
Đảng và Nhà Nước
ta
tính đến
thời
kỳ này, ngành
dệt
may
Việt
Nam đã có sự
thay đổi
cả về
chất
và về
lượng.
Toàn ngành đã mở
rộng
được
thị
trường
xuất
khấu,
đa
dạng
hóa,
đa phương hóa
quan
hệ
với
nhiều

quốc
gia
trên
thế
giới.
Đây là
những
dấu hiệu
đáng
mừng
đánh dấu sự thành công bước đầu của ngành
dệt
may nước
ta
trong
giai
đoạn này.

thể
nói ngành
dệt
may
Việt
Nam
trong
giai
đoạn này đã phát
triển
khá
nhanh

chóng,
tuy
nhiên sự phát
triển
nhanh
chóng này không tránh
khỏi
một số hạn
chế
mà tiêu
biểu
đó là
những
khiếm
khuyết
trong việc thu
hút và sử
dụng
vốn đầu tư
nước
ngoài,
việc
áp
dụng
công
nghệ
hiện đại
vào sản
xuất, việc
mất cán

đối giữa
ngành
dệt
và ngành may đã dần
xuất
hiện trong
giai
đoạn
này
Những ưu
điểm

khuyết
điểm
manh
nha
xuất
hiện trong
giai
đoạn này đã được
thể hiện
một cách rõ
nét
trong
giai
đoạn
tiếp
theo
của
ngành

dệt
may nước
ta.
Sinh
viên thực hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
5
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận vãn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001 -
2005
3 -
Giai
đoạn từ năm 1997 đến nay
(giai
đoạn phát
triển
của ngành dệt
may
Việt
Nam)
Có thể nói đây là
giai
đoạn

tạo ra
những
bước
tiến
nhảy
vọt cho ngành dệt
may
Việt
Nam. Vào năm
1999,
hàng
dệt
may đã
trở
thành mặt hàng bán có
tốc
độ
tăng trưởng
mạnh
nhất
trong
các mặt hàng
xuất
khẩu
của
Việt
Nam. Giá
trị
xuất
khẩu

của
hàng
dệt
may so
với
các mặt hàng khác
trong
giai
đoạn
này đưc
thể
hiện
trong
bảng
sau:
Bảng
Ì- Giá
trị
xuất
khẩu hàng dệt may
Việt
Nam qua
hai
năm 2001 và
2002
Hàng hóa Đơn
vị 2001
2002
Tốc
độ tăng

trưởng(%)
Thủy
sản
Triệu
$
1778
2024
13.8
Gạo
1000
tấn
3729
3241 -13.1
Cà phê
1000
tấn
931
710
-23.7
Cao
su 1000
tấn
308 444 44.2
Hạt
tiêu
1000
tấn
57 77
35.4
Nhân

điểu
1000
tấn
41
63 54.8
Lạc
nhân
1000
tấn
78
107 36.7
Dầu
thô
1000
tấn
16732
16850
0.7
Than
đá
1000
tấn
4290
5870
36.8
Hàng
đét
mav
TrUSD
1975

2710
37.2
Giày dép các
loại
TrUSD
1559
1828
17.2
Nguồn -
Bài "
Tăng trưởng kinh
tếviệt
Nam
"-
Tạp
chí
Thời
báo
kinh
tế
Sài
Gòn
Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
6
Trường
Đại
học
Ngoại

Thương
Luận
vãn
tốt
nghiệp
-
Khóa
2001
-
2005
Qua
bảng số
liệu
trên
ta thấy
hàng
dệt
may

mặt hàng

tốc
độ
tăng trưởng
xuất
khẩu
cao
thứ hai
qua
hai

năm
2001

2002, đạt 37.2%.
Đây

một
tín
hiệu
đáng
mừng
cho ngành
dệt
may
nói riêng

toàn
bộ
nền
kinh tế
nước
ta
nói
chung.
Điều
này
chứng
tỏ
hàng
dệt

may
đang dần
khủng
định được
vai
trò
to lớn
của
mình
trong

cấu
các
mật
hàng
xuất
khẩu của cả nước.
Năm
2001,
2002
nền
kinh tế thế
giới
trì
trệ khiến
cho công
nghiệp
dệt
may
của Việt

Nam
cũng chịu
không
ít
ảnh
hưởng
song
toàn ngành vẫn
giữ vai
trò

một
ngành
mũi
nhọn
của nền
kinh tế
nước
ta.
Tỷ
lệ
đóng
góp
của của ngành
dệt
may
trong
nền
kinh tế
quốc

dân được
thể hiện trong
bảng sau:
Bảng
2-Tỷ lệ
đóng
góp của
ngành
dệt may
trong
nền
kinh
tế
quốc
dãn
Năm
GDP
(Tỷ
đồng)
Ngành
DM
(Tỷ
đổng)
Tỷ
lệ
đóng
góp vào
GDP
Tổng kim ngạch
XK

(Tỷ
đổng)
1999 399942 7700
1.9
11540
2000
444139
9120 2.1
14308
2001
447340 10260 2.1
15810
Nguồn
-
Bài
"
Ngànìi
dệt
may
trên
đà
phát
triển
"
-
Thời
báo
kinh
tế
Sài

Gòn.
Sự phát
triển
của ngành
dệt
may
trong
những
năm qua có
thể
thấy
rõ qua
những
kết
quả
rất
đáng khích
lệ
như:
- Năng
lực
sản
xuất
của
ngành
dệt
may
phát
triển
cả về

chiều
rộng

chiều
sâu.
Số
lượng
doanh
nghiệp
tăng
hơn 10
lần
so
với
trước,
cả
nước
hiện
có 1050
doanh
nghiệp,
trong
đó có 231
doanh
nghiệp
nhà
nước
(chiếm
28%),
449

doanh
nghiệp
ngoài
quốc doanh
(chiếm
38%),
354
doanh
nghiệp

vốn
đầu

nước
ngoài.
Sinh
viên thục hiện:
Mai
Thị Thanh
Hòa - Lớp Nga
K40D
-
KTNT
7
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận văn

tốt
nghiệp
- Khóa 2001
-
2005
Trình độ công
nghệ
được
cải
thiện
đáng kể so
với
trước
(Nguồn:
VITAS -
)
Trong
bốn tháng đầu năm
2004,
hàng
dệt
may
trở
thành một
trong
số 10 mặt
hàng có giá
trị
xuất
khẩu đạt

hem 100
triệu
USD.
Dưới
đây là số
liệu
cụ
thể
về 10
mặt
hàng có
tốc
độ phát
triển
cao
nhất
trong
năm
2004.
Bảng
3-10 mặt hàng có giá trị
xuất
khẩu hơn 100
triệu
USD năm
2004
Đơn vị: Triệu USD
Mạt
hàng
Giá

trị
xuất
khẩu
Dầu thô
1.586
Dệt
may
1.179
Giày dép
792
Thúy sản
563
Gạo
347
Sản
phẩm gừ
319
Điện
tử
- máy tính
243
Cà phê
221
Thù công mỹ
nghệ 135
Dày
điện-
cáp
điện
115

Nguồn: Trangl
-
điểm
tin
kinh
tế-
số521
ngày 15/05/2004
-
Tốc độ tăng trưởng bình quân
trong
10 năm
(từ
năm
1991
đến năm
2000)

23,8%.
Năm
2003,
kim
ngạch
xuất
khẩu đạt
3,6
tỷ đô,
gấp 10
lần
so

với lo
năm
trước
đây.
Kim
ngạch
xuất
khẩu
hàng
dệt
may
trong
tháng 6 năm
2004
đạt khoảng
Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
8
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận văn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001
-
2005

444
triệu
USD tăng
23,67%
so
với
tháng
trước
và tăng
10,3%
so
với
cùng kỳ năm
2003.
- Thị
trường
xuất
khẩu
hàng
dệt
may luôn
được
mở
rộng
không
ngừng,
hàng
dệt
may
Việt

Nam
hiện
đã có mặt trên 10 vùng lãnh
thổ, trong
đó có các
thị
trường
quan
trọng
như Hoa Kỳ, EU,
Nhật
Bần Bên
cạnh
những
thị
trường
truyền
thống
như:
Nga và Đông
Âu,
hàng
dệt
may
Việt
Nam
cũng
dần
chiếm
được

vị
trí
đáng kể
tại
một
số
thị
trường
lớn
mạnh
trẽn
thế
giới.
Bầng 4-
Kết
quầ
xuất
khẩu
quý
ì
năm
2005
Mặt
hàng
Đơn
vị
Quý
ì
năm
2004

Quý
ì
năm
2005
Mặt
hàng
Đơn
vị
Số
lượng
Giá
trị
Số
lượng
Giá
trị
Tổng
giá
trị
xuất
khẩu
TrUSD
5.781
6.719
Thủy
sần
TrUSD
445
480
Gạo

1000T
1.151
253
961
260
Cà phê
1000T
300 200
278 192
Cao
su
1000T
103 115 103
116
Hạt
tiêu
1000T
23.5
31 21
29.5
Dầu
thô
1000T
5.041
1212
4557
1579
Hàng
dệt
may

TrUSD
923
950
Nguồn:
Bài
"Tình hình xuất khẩu
dệt
may
quý
Ì
năm
2005
"-
Trang
8-
Tạp
chí
Ngoại Thương
số

ỉ ngày
20
tháng
4 năm
2005.
Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
9
Trường

Đại
học
Ngoại
Thương
Luận văn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001
-
2005
Tuy
ngành
dệt
may nước
ta
trong
thời
gian
qua đã
đạt
được
những
thành
tựu
đáng kể
song
chúng
ta
vẫn còn một số
vấn

đề
tồn
đọng như: Năng
lực
sản
xuất
của
ngành
tuy
có được
cải
thiện
đáng kể so
với
trước đây nhưng khả năng sản
xuất thực
tế lại
thấp
hơn
rất
nhiều,
kim
ngạch
xuất
khỉu
hàng may mặc tăng
nhanh
nhưng
hiệu
quả

vẫn chưa cao do 70% kim
ngạch
xuất
khỉu
được
thực
hiện
theo
phương
thức gia
công,
chỉ có 30% còn
lại
được
thực
hiện
theo
phương
thức xuất
khỉu
bán thành
phỉm
.do
đó
việc
xuất
khỉu
vẫn chưa đem
lại
hiệu

quả
tối
đa
nhất.
Nhìn
chung
ngành
dệt
may
Việt
Nam đã
trải
qua
những
bước
tiến
đáng kể.
Qua các
giai
đoạn phát
triển
chúng
ta
cũng
nhận
thấy
được các bước đi thăng trăm
của
ngành công
nghiệp dệt

may nước
ta,
từ
đó
thấy
được
điểm
mạnh,
điểm
yếu
cũng
như
những
thuận
lợi,
khó khăn cho toàn
ngành.
Đó là cơ sơ để chúng
ta
rút
ra
những
bài học
kinh
nghiệm
cho ngành
dệt
may nói riêng và toàn bộ ngành
kinh
tế

của
chúng
ta
nói
chung
trong
tương
lai.
li- Thực trạng vấn đề sản xuất và xuất khỉu hàng dệt may nước ta
Ì-
Thực
trạng
vấn
đề
sản xuất
hàng
dệt
may
1.1-
Vấn đề nguyên
liệu
Trong
sản
xuất
nguyên
liệu
ta
thấy
hàng công
nghiệp

dệt may
chiếm
31%
tổng
sản lượng hàng công
nghiệp chế
tạo,
sản lượng hàng hóa
chiếm
tỷ
trọng
8,6%
giá
trị
sản lượng công
nghiệp.
Theo
thống
kê năm
2002,
hoạt
động sản
xuất
hàng
dệt
may tính
theo
6 nhóm
sản
phỉm chính:

- Xơ PES
,
công
suất thực tế là
167000
tấn
hoàn toàn phụ
thuộc
vào đầu tư nước
ngoài.
- Kéo
sợi
822000
tấn, trong
đó cả nước
chỉ
sản
xuất
được 72000 tấn
-
Vải
các
loại
800
triệu
m,
trong
đó
trong
nước

sản xuất
được 380
triệu
mét.
Dệt kim
32000
tấn, trong
nước
chỉ sản xuất
được 22000
tấn.
Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
lo
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận văn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001
-
2005
- Khăn bông
27,2
nghìn
tấn,

trong
nước
chỉ
sản
xuất
được
18,8
nghìn
tấn.
Hàng may mặc
của
ta
đạt
400
triệu
sản
phẩm,
trong
đó
VENATEX
chiếm
một
tỷ
trọng
áp
đảo,
chiếm
khoảng
30,6 % về giá
trị

sản
lượng,
28% về
xuất
khẩu,
88,2%
về
sản
phẩm
sợi,
45,4%
về
vải
lụa,
27,7%
về
sản
phẩm. Năng
lổc
sàn
xuất
toàn ngành được
thể
hiện
dưới
bảng
thống

sau:
Bảng

5- Năng
lực
sản
xuất
của ngành dệt may
Việt
Nam
STT
Tiêu chí
Máy móc
Sản
xuất
STT
Tiêu chí
Đơn
vị
Tổng
số
máy
Đơnvị Năng
lổc
1
Cọc
sợi
OE
1.500.000
15.000
Tấn
150
000

2 Cán bông
Chuyển
4
Tấn
10
000
3
Dệt
thoi
Thoi
Không
thoi
10
000
5 500
Triệu
m
500
4
Dệt kim
Máy DK tròn
Máy DK
phảng
1290
250
Tấn
70000
5
May mặc
Máy may

2.000.000
Triệu
sp
500
Nguồn-
Bài:
"Năng
lực
sản
xuất
của
ngành
dệt
may
Việt
Nam
"-
Tạp
chí
kinh
tế

đô
thị
Hiện
nay
trung
bình mỗi năm các
doanh
nghiệp

trong
nước
phải
nhập
khoảng
700-
800
triệu
mét
vải với tổng
giá
trị
ước tính
khoảng
Ì
tỷ
USD,
trong
khi
đó năng
lổc
sản
xuất
trong
nước
chỉ
đạt
500
triệu
m/năm,

chưa
bằng
một nửa so
với
nhu cầu
của
doanh
nghiệp
(Nguồn:
VITAS -
).
Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
LI
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận văn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001
-
2005
Theo
số
liệu
thống

ké,
đến
tháng 11 năm
nay,
nhập khẩu
nguyên phụ
liệu
cho
dệt
may da tăng
mạnh.
Trong
11 tháng đầu năm
2003
nhập khẩu
nguyên phụ
liệu
cho
dệt
may da lên
tới
1,8
tỷ
USD, tăng
20,63% so
vối
cùng kỳ năm
2003.
Trong
đó

nhập khẩu từ
Đài
Loan
cao
nhất,
gần 527
triệu
USD, tăng 9,06%,
thứ hai
là Hàn
Quốc,
gần 454
triệu
USD, tăng
24,39%,
thứ
ba là Hồng Rông gần 282
triệu
USD,
tăng
24,39%, Trung
Quốc,
179,8%,
tâng
62,18%
so
với
cùng kỳ năm
2002.
(Nguồn:

Bài "Nhập
khẩu
nguyên phụ
liệu
dệt
may da
11
tháng năm
2003
tâng
mạnh
- ).
Cho đến nay tình hình
nhập khẩu
vổi
của
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam
tuy

giổm
xuống
nhưng mức
giổm
còn chưa đáng
kể.
Sáu tháng đầu năm

2004,
nhập khẩu
vổi
của
cổ nước
đạt khoổng
965
triệu
USD,
giổm
đôi chút so
với
tháng trước nhưng
tăng
38,9%
so
với
cùng kỳ năm
2003. Trong
đó
nhập khẩu
từ
Trung
Quốc
đạt
cao
nhất,
khoổng 44,3
triệu
USD,

giổm 12,15% so
với
tháng
trước

chiếm 25,59%
tổng
kim
ngạch nhập khẩu
vổi trong
tháng,
tiếp
đến là
Đài
Loan
đạt
41,7
triệu
USD
chiếm
24,09%
Nhập
khẩu
từ
các
thị
trường
truyền
thống
như:

Hàn
Quốc,
Hổng Kông và
Nhật
Bổn
tiếp
tục
tăng
mạnh
(Nguồn:
Bài "
Tinh
hình
nhập khẩu
vổi
có xu
hướng
giổm
-
).
Một bài học rút
ra
cho
các
doanh
nghiệp
dệt
may nước
ta


do chưa
chủ
động
về
nguyên phụ
liệu
cho nên toàn ngành còn phụ
thuộc
vào khách hàng cổ
về chủng
loại,
mẫu

Số
lượng
vổi
nhập
năm
2003
lên
tới
1,2
tỷ
USD.
Hiện
nay ngành
công
nghiệp
dệt trong
nước mới đáp ứng được

khoổng
8- 10% nhu cầu về
vổi
dệt
thoi,
20-
25% nhu
cầu
về
vổi dệt kim,
hơn nữa
sổn
lượng
bông
trong
nước mới chỉ
đáp ứng
khoổng
5% nhu cầu sổn
xuất.
Đó là mới
chỉ
xét về mặt số
lượng,
nhưng
ngay cổ
chất
lượng,
công
nghệ,

mẫu
mã, chủng
loại,
thậm chí là giá
cổ
.nguyên
vật
liệu
trong
nước
ta
cũng
chưa có
sức cạnh
tranh
cao
như hàng
nhập
ngoại.
Đây

một
vấn
đề mà các cơ
quan chức
năng
cần
chú
trọng
quan

tâm
đầu tư
thích
đáng để nâng
cao
hơn
nữa
hiệu
quổ cho
ngành
dệt
may
Việt
Nam
trong
tương
lai.
Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
12
Trường
Đại học
Ngoại
Thương
Luận văn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001
-

2005
Ý
thức
được tầm
quan
trọng
của
việc
sản
xuất
nguyên
liệu
cung
ứng cho
ngành
dệt
may
trong,
Đảng
và Nhà Nước đã
tạo
điều
kiện
đầu tư để sản
xuất
nguyên
liệu
cho
dệt
may

xuất
khẩu
nhưng cho đến nay mới
chỉ

khoảng
15% nguyên
liệu
trong
nước sản
xuất
đáp ứng được nhu
cầu.
Nguyên nhân chủ yếu gáy
ra
sự
yếu
kém
trong
khâu sản
xuất
nguyên phụ
liệu
cho ngành
dệt
may nước
ta
là ỏ chỗ chúng
ta
vừa

thoát
khỏi
thòi kỳ
kinh
tế
kế
hoạch
hóa
tập
trung
quan
liêu bao
cấp,
các chính
sách
thu
hút đầu tư nước ngoài và
khuyến
khích phát
triển
kinh
tế
vừa mới ban hành
cần

thời
gian
để thích
ứng.
Giai

đoạn
này trình độ công
nghệ
của nước
ta
còn vô
cùng yếu kém, chưa
thể
thích ứng
ngay
được
với
những
công
nghệ
hiện
đại
nhập
khẩu
từ
nước
ngoài.
Điểm
yếu này đã
khiến
cho chúng
ta
chưa phát huy được
tối
đa

công
suất
của máy móc
nhập
về.
Để
khắc
phục
được
điều
này chúng
ta
cần
nhanh
chóng đào
tạo
một
đội
ngũ cán bộ kỹ
thuật
chuyên sâu, học
tập

tiếp
thu
những
công
nghệ
tiên
tiến

từ nước ngoài nhằm phát huy
tối
đa công
suất
của máy móc,
trang
thiết
bị
hiện
đại, từng
bước đàm bảo
cung
cấp nguyên phụ
liệu
cho ngành
dệt
may
trong
nước và
xuất
khẩu.
Một
nguyên nhân đáng chú ý khác gây nên sự yếu kém
trong
ngành sản
xuất
nguyên phụ
liệu
cung
cấp cho

dệt
may
trong
nước là vấn để
thua lỗ
trong
ngành sản
xuất
tơ tằm
trong
thời
gian
gần đây.
Với
giá thành sản
xuất
tăng cao nên số
lỗ
của
các đơn
vị tỷ lệ thuận với
số lượng sản phẩm sàn
xuất
ra.
Sự
thua lỗ
này đã làm một
số
đơn
vị

sản
xuất
tơ tằm
buộc
phải thực
hiện biện
pháp dãn ca để hạn
chế sản
lượng
đầu
ra,
hạn
chế
tối
đa
thua lỗ
trong
ngành,
một số đơn
vị
khác đã
phải
tạm
ngừng
sản
xuất
Một
điều
chúng
ta

cần lưu tâm là
hiện
nay giá tơ trên
thị
trường
thế
giới
đã
giảm
mạnh,
còn giá tơ tằm
trong
nước thì vẫn
giữ
ỏ mức
22.000
đ/kg do
chất
lượng
trứng
giống
tằm và
chất
lượng lá dâu chưa
cao.
Đây là nguyên nhân gây khó khăn
cho
việc
đảm bảo
chất

lượng và số lượng nguyên phụ
liệu
đầu vào cho sản
xuất
hàng
dệt
may
xuất
khẩu.
Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
13
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận
vãn
tốt
nghiệp
- Khóa
2001
-
2005
Xu
thế
toàn
cầu hóa,

hiện
đại
hóa
hiện
nay
đã,
đang và
sẽ
tạo
cho nền
kinh
tế
Việt
Nam
rất
nhiều thuận
lợi
trong việc
mở
rộng thị
trường,
đa
dạng
hóa
sản
phẩm,
phát huy được
nguồn
nhân
lực

dồi
dào cểa nước
ta Tuy
nhiên bên
cạnh những
thuận
lợi
kể trên
thì
ngành
Dệt
May
Việt
Nam
cũng
phải đối
mặt
với
một
số
thách
thức lớn
như
việc
cạnh
tranh
với
các nhà
xuất
khẩu

lớn
mạnh
như:
Trung
Quốc,
Ân
Độ, Pakixtan Một
vấn
đề vô cùng khó khăn nữa là
hiện
nay nước
ta
chưa
phải

thành viên
cểa
Tổ
chức
Thương Mại Thế
Giới
(WTO) cho nên hàng hóa
cểa
chúng
ta
khi
nhập
vào các nước thành viên
cểa
tổ

chức
này
vẫn
phải
chịu
một mức giá cao
hơn hàng hóa
cểa
các
quốc
gia
khác.
Điểu
này đã làm cho nâng
lực
cạnh
tranh
cểa
hàng
dệt
may nước
ta
trên
thị
trường
thế
giới
giảm sút
đáng
kể.

1.2- Vấn để công nghệ
Hiện nay nước ta có khoảng hơn 600 công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH),
cổ phẩn tư
nhân,
trong
đó có
khoảng
460 đơn
vị sản
xuất
may mặc và thuê đan
len,
450
tổ
hợp
dệt
và hơn 100 000
khung
dệt thể
công,
chể yếu
ra đời
từ
1988
trở
lại
đây.
Hiện
nay một
số doanh

nghiệp

trang
thiết
bị
máy móc khá
tốt,
có quy mô
sản xuất
trung
bình đang
thực
hiện
sản
xuất
hàng
xuất
khẩu sang
EU và một
số
nước
khác,
tuy
nhiên
con số
này không
nhiều
ngoài
ra
còn có

khoảng 2000
tổ hợp,
HTX,
hộ
gia
đình
tham
gia
vào
sản
xuất
hàng
dệt
may
với
hơn 700 000
lao
động.
Ngành
dệt
may hoàn
tất
với
đặc
thù công
nghệ
rất
phức
tạp,
thiết

bị
đắt
tiền,
lại
liên
quan
tới
vấn
đề
quản lý
môi
trường

hiện
nay

nước
ta

ít
doanh
nghiệp
đạt
được tiêu
chuẩn
về đảm bảo an toàn cho môi trường
sinh
thái.
Hiện
nay ở nước

ta
chỉ
có một vài
doanh
nghiệp
liên
doanh
đáp ứng để các yêu cầu nói trên tuy
nhiên
số các doanh
nghiêp như
vậy
không đáng
kể.
Năm
2001
kéo
sợi
đạt 980.000
nghìn
cọc,
trong
đó
chỉ

100.000
cọc
sợi
mới
được đầu

tư,
chiếm
khoảng 10,3%,
còn
lại
89,7%

cũ.

biệt

loại
đã sử
Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
14
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận văn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001
-
2005
dụng
hơn 30 năm.

Thiết
bị
dệt
tổng
số có
43.000
máy,
trong
đó chỉ có 1.500 máy
dệt
mới,
khổ
rộng
chiếm
khoảng
3,4% còn
lại
là các
thiết
bị
cũ,
khổ
hẹp, hoặc
đã
quá
lạc hậu,
cần
cải
tiến.
Tuy

nhiên
trong
thời
gian
qua
với
nhằng
nỗ
lực
nhằm
cải
tiến
trang
thiết
bị
máy móc cho ngành
dệt
may, chúng
ta
cũng
đầu tư khá
nhiều
tiền
của và công sức
vào
việc
đổi
mới
trang
thiết

bị công
nghệ
toàn
ngành,
cụ
thể
trong
ngành may đã
đổi
mới
hơn 90%
thiết
bị,
chủ yếu chỉ
tập
trung
ở các
doanh
nghiệp
quốc doanh
(TW).
Hiện
tại
tình hình
thiết
bị
công
nghệ
trong
ngành

dệt
vẫn còn yếu kém, cần có sự đầu

đổi
mới nâng cấp nhằm đảm bảo năng
suất

chất
lượng
đầu
ra
cho ngành dệt
trong
tương
lai.
Nhìn
chung
máy móc
thiết
bị
trong
ngành dệt may không
phải

nhằng
công
nghệ
quá
phức
tạp.

Tỷ
suất
đầu tư cho một chỗ làm chỉ cần
từ
8 đến
lo
triệu
đổng,
khấu
hao máy móc
thiết
bị vào sản
xuất
cũng
rất
nhanh,
trong
vòng một năm

thể quay
vòng vốn từ 3 đến 4
lần.
Đây là một đặc trưng về
trang
thiết
bị công
nghệ
trong
ngành
dệt

may. Mức vốn đầu tư cho công
nghệ
ban đầu tương
đối lớn
song
tốc
độ
quay
vòng vốn
trong
vòng một năm thì
lại
khá
nhanh.
Đây là một đặc
điểm
thuận
lợi
khiến
chúng
ta

thể
dựa vào ngành
dệt
may để thúc đẩy táng trưởng
và phát
triển
kinh
tế

nước nhà. Có công
nghệ
tiên
tiến,
hiện
đại
cùng
với
khả năng
ứng dụng
công
nghệ
đó
nhanh
chóng, chúng
ta

thể
từng
bước
tạo
ra
nhằng
sản
phẩm
chất
lượng
cao,
đáp ứng được nhu cầu
trong

nước và
xuất
khẩu.
Đồng
thời
chúng
ta cũng
cần nghiên
cứu,
ứng
dụng nhằng
thành
tựu khoa
học
trong việc
sản
xuất

cung
cấp nguyên phụ
liệu
đáp ứng nhu cầu cả về số
lượng

chất
lượng
cho
ngành
dệt
may

trong
tương
lai.
Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
15
Trường
Đại học
Ngoại
Thương
Luận văn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001
-
2005
1.3-
Vấn đề
lao
động
Để có thể tung ra tiêu thụ rộng rãi trên thị trường, một sản phẩm may mặc
phải
trải
qua
rất
nhiều
công
đoạn,
trong

đó có
những
công
đoạn
mang
tính
chất
thủ
công.
Trước
kia khi
chưa có sự
tham
gia
của máy móc
thiết
bị
trong
ngành may mạc
thì công
đoạn
thiết
kế hoàn toàn
phải
làm
bằng
tay,
ngày nay
tuy
nhờ có hợ

thống
thiết
bị máy móc chuyên
dụng
hỗ
trợ
nhưng
vai
trò của con
người
vẫn không hề bị
giảm
sút.
Một sản phẩm sẽ
trở
nên hoàn
thiợn
hơn nếu có sự
kết
hợp
giữa
công
nghợ
và bàn
tay
khéo léo của con
người.
Ví dụ
trong viợc
giác sơ

đồ,
nếu cho máy giác tự
động
thì
hiợu
quả
từ
70% đến
80%,
nhưng nếu có bàn
tay
con
người
sắp xếp
lại
dựa
trên
kết
quả của máy thì
hiợu
quả sẽ
đạt từ
85% đến
90%,
thường thì không
thế
đạt
đến
100% do các
chi

tiết
trên sản phẩm thường
rất
đa
dạng,
không
thế
sắp xếp kín
mặt vải
được.
Công
đoạn
cắt
và may thì đặc
biợt
cần đến sự
trợ
giúp của con
người,
nhất

trong
điều
kiợn
thiếu
máy móc,
trang
thiết
bị
hiợn

đại
như
hiợn
nay.
Hơn nữa
các sản phẩm
cắt
may
bằng
bàn
tay
con
người
thường
thế
hiợn
sự khéo
léo, tỷ
mỹ và
mang
tính
thẩm
mỹ cao
hơn,
phù hợp
với thị
hiếu
của khách hàng nước ngoài.
Hiợn
nay nước

ta

khoảng
1.600.000
lao
động làm
viợc trong
ngành dợt
may
(kể
cả
lao
động
trong
ngành
trổng
dâu nuôi
tằm).
Trong
đó có 60% đến 70% là
lao
động
nữ.
Tỷ
lợ lao
động nữ
trong
ngành này cao là do đạc thù của ngành
dợt
may

thường
cần
tới
sự khéo
léo,
cần cù và kiên
trì
của
người
phụ nữ.
Tuy
nước
ta
có một
nguồn
lao
động khá
dồi
dào
song
tình
trạng
thiếu
lao
động
hiợn
nay vẫn đang là vấn để nan
giải
của các cơ
quan

chức
năng
trong
ngành
dợt
may Thành phố Hổ Chí
Minh
và một số
tỉnh
thành khác. Chúng
ta

thể
đảm
bảo
một
nguồn
nhân
lực lao
động phổ thông cho toàn ngành
dợt
may
trong
giai
đoạn
hiợn
nay
song
chúng
ta

vẫn đang
thiếu
một lượng
lớn
cán bộ công nhân kỹ
thuật với
trình độ
tay
nghề
cao,

thể
ứng
dụng
thành công
những
công
nghợ
tiên
tiến
nhập
từ
các
quốc
gia
phát
triển,

thể
nghiên cứu kịp

thời
xu hướng
thời
trang
trên
thế
giới
Sinh
viên thục hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
16
Trường
Đại
học Ngoại Thương
Luận van
tốt
nghiệp
- Khóa 2001
-
2005
để sản
xuất
ra
những
sản phẩm phù hợp
với thị hiếu
của
người
tiêu dùng
trong

từng
giai
đoạn
khác
nhau Hiện
nay ngành
dệt
may nước
ta
đang
tạo ra
khoảng
2
triệu
việc
làm cho
người
lao
động trên cả
nước,
đặc
biệt

tại
các thành phố
lớn
như: Hà
Nội,
Thành phố Hằ Chí
Minh

và các
tỉnh
thành lân
cận.
Tuy
rằng
hiện
nay ngành
dệt
may đã
tạo ra
một
khối
lượng
việc
làm
lớn
cho
lao
động phổ thông
trong
nước nhưng
một
đặc trưng về
nguằn
nhân
lực
của ngành
dệt
may là tính

chất
không ổn định của
lực
lượng
lao
động phổ thông
trong
ngành. Nguyên nhân gây
ra
tình
trạng
này chính
là do ngành
dệt
may có một đặc trưng
nổi bật
là sản
xuất
ra
các sản phẩm
thời
trang
theo
từng
mùa cho nén
thuằng
xuyên
diễn
ra sự
chuyển

biến lao
động
trong
toàn
ngành.

những
thời
điểm
vào mùa vụ sản
xuất

những
doanh
nghiệp
dệt
may
Việt
Nam
thiếu
từ
30%
-
40% số
lao
động phổ thông. Chính sự không ổn định
trong
nguằn
nhân
lực

phổ thông này đôi
khi
là nguyên nhân gây
ra
sự chậm
trễ trong việc
thực
hiện
một số đơn hàng
với
các
đối
tác nước
ngoài,
gây
thiệt
hại
cả về uy tín và
vật
chất
cho nền
kinh tế
nước
ta.
Tinh
trạng
thiếu
nguằn
nhân
lực


nguằn
nhân
lực
không đảm bảo như
hiện
nay đang là vấn đề đau đầu của các
doanh
nghiệp
dệt
may
sản
xuất
hàng
xuất
khẩu.
Nhiều
doanh
nghiệp
đã
phải
chịu
lỗ
do không đảm bảo
tiến
độ
của
các đơn hàng
xuất
khẩu


thiếu
lao
động.
Hơn
nữa,
theo
kế
hoạch
năm 2010
đặt ra,
kim
ngạch
xuất
khẩu
dệt
may sẽ
đạt từ
8 đến 9
tỷ
USD, như vậy nhu cẩu sử
dụng
lao
động sẽ tăng lên trên 3,5
triệu
người.
Số lượng
lao
động này sẽ vãn
tập trung


hai trung
tâm
kinh tế lớn
là Hà
Nội,
thành phố Hằ Chí
Minh
và các vùng phụ cận của
hai
thành phố
này.
Với tình
trạng
thiếu
lao
động như
hiện
nay thì nhu cầu về số lượng
lao
động đáp ứng nhu cầu mở
rộng
sản
xuất
như trên là vấn đề
hết
sức khó khăn cho ngành công
nghiệp
dệt
may

nước
ta trong
thời
gian
tới.
Nhìn
chung

thể
nói nước
ta
có một
nguằn
lao
động
dổi
dào, giá nhân
công
rẻ,
người
lao
động cần
cù,
chịu
khó,
sáng
tạo tuy
nhiên
hiện
nay số

lao
động
trung
và cao cấp
trong
ngành này vẫn còn
thiếu
rất nhiều,
đặc
biệt
trong
giai
đoạn
r
ti

Sinh
viên thực hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
17
Trường
Đại
học
Ngoại
Thương
Luận vãn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001 -
2005

nền kinh tế
nước
ta
đang
hội
nhập
kinh tế thế
giới
như
hiện
nay.
Vấn đề làm sao để
sản
xuất
ra
những
sản phẩm có
chất
lượng
tốt với
giá cả
cạnh
tranh
là yếu
tố
quyết
định
đến sự phát
triển
cồa ngành

dệt
may nói riêng và toàn bộ nền
kinh tế
Việt
Nam
nói
chung.
Đây là vấn để đặc
biệt
quan
trọng

Đảng
và Nhà nước chúng
ta
cần ưu
tiên
quan
tâm
trong
chính sách phát
triển
kinh tế trong
tương
lai.
1.4- Nguồn tài chính
Sự phát
triển
một ngành
kinh

tế cồa phụ
thuộc
vào rất
nhiều
yếu tố. Ngoài các
yếu
tố
như: nhân công,
trang
thiết
bị công
nghệ
nguồn
tài chính đầu tư cho
việc
phát
triển
ngành đó
cũng
là một
yếu
tố
vô cùng
quan
trọng,
đạc
biệt

đối với
ngành

dệt
may cồa chúng
ta trong
giai
đoạn
phát
triển
hiện
nay.
Nhận
thức
được tầm
quan
trọng
cồa vấn đề vốn
trong
sản
xuất

xuất
khẩu,
Đảng
và Nhà nước
ta
đã và đang

những
chính sách thích hợp để
giải
quyết

vấn đề về vốn cho các
doanh
nghiệp
dệt
may.
Dưới
đây là cơ cấu về
tổng
vốn đẩu tư cho ngành
dệt
may
trong
vòng 5 năm
tới.
Bảng
6
-
Cơ câu
về
tổng
vón đầu tư đến 2010
Loại
hình đầu tư
Tổng
vốn đầu tư
(triệu
USD)
Đầu

chiều

sâu
756,9
Dệt
709
May
47,9
Đầu tư
mới
2516,4
Dệt
2306,4
May
210,2
Nguồn:
Quy
hoạch phát triển ngành
dệt
may
Việt
Nam
đến
năm
2010
-
Thời
báo
kinh

Việt
Nam

Sinh
viên thực hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
18
Trường
Đại
học Ngoại Thương
Luận vãn
tốt
nghiệp
- Khóa 2001 -
2005
Hiện
nay cả nước
ta

khoảng
180 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang còn
hiệu
lực với
số vốn đầu tư
đạt
gần 1,82
tỷ
USD
.
Đặc
biệt
trong
năm

2000,
đầu tư
nước
ngoài vào ngành may mặc tăng lên rõ
rệt,
gấp 2,8
lần
về số dự án và gấp 7,5
lần
về
số
vốn
đầu tư đăng ký. Theo đánh giá của các nhà
kinh
tế thì
nguồn
dầu tư nước
ngoài vào ngành
dệt
may nước
ta
trong
những
năm qua là
nguồn
đầu tư đặc
biệt
quan
trọng
góp

phần
vào
việc
cải
thiện
hệ
thống
máy móc
thiết
trang
thiết
bị,
nâng cao
tay
nghề
của
đội
ngũ
lao
động
trong
ngành
Đây là một
trong
những
yếu
tố quyết
định
đến
sự thành công của ngành

trong
tương
lai.
Năm
2001,
VINATEX
đã phê
duyệt
hơn 34 dự án
với
mờc đầu tư hơn 800 tý
đổng,
tăng
127,8%
so
với
cùng kỳ năm
2000 Trong
tổng
mờc vốn đầu tư nói trên
có 81
tỷ
đồng là vốn vay thương
mại,
175
tỷ
đổng vốn
tự
có và
khấu

hao cơ
bản,
14
tỷ
đổng vốn vay ngân sách. Năm 2003 năng
lực
sản
xuất
của các
doanh
nghiệp
đã
tăng lên 30% nhờ các dự án đầu tư nói trên.
Cho đến năm 2003 chúng ta đã có 154 dự án được phê
duyệt theo
QĐ55/2001 của Thủ Tướng Chính Phủ về chương trình đầu tư tăng
tốc
cho ngành
dệt
may
với tổng
mờc đầu tư hơn 5.873
tỷ
đổng.
Các dự án được phê
duyệt thuộc lĩnh
vực dệt,
may và nguyên
liệu.
Tuy nhiên cho đến

thời
điểm
nói trên Quỹ hỗ
trợ
mới
vay
được hơn 1.000 tỷ đổng đáp ờng được 20% số vốn của các dự
án.
Trong
tổng
mờc đẩu tư được phê
duyệt
thì có
tới
hơn 2.558 tỷ đồng đầu tư cho
lĩnh
vực dệt
nhuộm,
chiếm
43,5% so
với
toàn bộ
tổng
vốn đầu tư
(Nguồn:
Bài " Phê
duyệt
154
dự
án ngành

dệt
may -
).
Như vậy
trong
giai
đoạn này số
vốn
đầu tư vào
lĩnh
vực
dệt
và nhuộm
thấp
hơn so
với
số vốn đầu tư vào
lĩnh
vực
sợi
và may. Những dấu
hiệu
đầu tiên cho
thấy
sự mất cân
đối giữa hai
ngành
dệt
và may
đã

bắt
đẩu
xuất
hiện
ngay
từ
giai
đoạn đầu của
thời
kỳ
đổi
mới
đất
nước.
Với
mờc độ
đầu
tư như ở trên và không có sự
quan
tâm đẩu tư thích đáng của các cơ
quan
chờc
năng
trong
vấn đề này,
rất

thể
sự mất cân
đối giữa hai

ngành
dệt
và may ngày
càng sâu sắc hơn. về lâu
dài,
đây sẽ là một nhân
tố
làm ảnh hưởng không
tốt
đến
Sinh
viên thực hiện:
Mai Thị Thanh Hòa - Lớp Nga K40D - KTNT
19

×