Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

phép biện chứng là gì và nó có ý nghĩa như thế nào đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.66 KB, 22 trang )

Lời nói đầu
Nhận thức, t duy con ngời có quan hệ nh thế nào với thế giới xung
quanh? Con ngời có khả năng nhận thức đợc thế giới hiện thức hay không?
Mà khi con ngời nhận thức đợc thế giới xung quanh thì việc áp dụng các hiểu
biết đó vào thực tiễn nh thế nào? Đây là một trong hai vấn đề cơ bản của triết
học.
Trong triết học Mac - Lê nin, phép biện chứng duy vật đợc coi là phơng
pháp luận chung nhất của mọi hoạt động thực tiễn, giúp con ngời nhận thức
đợc thế giới.
Vậy phép biện chứng là gì và nó có ý nghĩa nh thế nào đối với nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con ngời?
Chúng ta hãy xem xét các vấn đề này ở dới đây trong các khía cạnh, để
hiểu thêm về phơng pháp biện chứng và biện chứng duy vật.
1
A
I. Phơng pháp luận
Trớc khi tìm hiểu về các vấn đề của phép biện chứng duy vật ta sẽ xem
xét qua: Nh thế nào là phơng pháp luận? Có thể nói một cách tổng quát ph-
ơng pháp luận là lý luận về phơng pháp, là khoa học về phơng pháp, phơng
pháp giải quyết các vấn đề nh: Phơng pháp là gì? Bản chất, nội dung, hình
thức của phơng pháp nh thế nào? Phân loại phơng pháp ra sao? Vai trò của
phơng pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con ngời
nh thế nào? Do đó có thể nói cách khác cụ thể hơn, ph ơng pháp luận luận
là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo cụ thể
tổng việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý có hiệu
quả tối đa.
Mọi khoa học đều có lý luận về phơng pháp của mình, vì nghiên cứu đối
tợng, các khoa học đều phải xác định cho đợc các phơng pháp thích hợp, kiến
giải tích tất yếu của các phơng pháp đợc sử dụng và mối liên hệ giữa các ph-
ơng pháp đó.
Phơng pháp luận đợc phân thành:


- Phơng pháp luận phổ biến
- Phơng pháp luận chung và phơng pháp luận riêng.
Giữa chúng có sự liên hệ tác đông qua lại.
Đặc biệt phép biện chứng duy vật là phơng pháp luận phổ biến, có ý
nghĩa rất to lớn trong hoạt động nhận thức và thực tiễn xã hội mà chúng ta sẽ
nghiên cứu dới đây.
II. Vai trò của phơng pháp luận
1. Phơng pháp biện chứng.
Trớc hết chúng ta cần hiểu phơng pháp biện chứng là hệ thống các
nguyên tắc đợc hình thành trên cơ sở các nguyên lý, quy luật và phạm trù của
phép biện chứng duy vật. Các nguyên tắc này tuy có nội dung khác nhau
song chúng có sự liên hệ bổ sung lẫn nhau, tạo thành một công cụ có vai trò
to lớn trong nhận thức các quy luật của thế giới khách quan.
2
Ta hãy xem xét một số nguyên tắc của phép duy vật biện chứng:
- Nguyên tắc về tính khách quan của sự xem xét.
Cơ sở lý luận của nó là vai trò quyết định của vật chất trong quan hệ đối
với ý thức, còn yêu cầu đối với mọi khoa học ta khi nghiên cứu sự vật phải
xuất phát từ bản thân sự vật, để chỉ ra các quy luật khách quan chi phối sự
vận động và phát triển của sự vật ấy.
- Nguyên tắc về tính toàn diện
Là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Trong các ngành khoa học, việc
nhận thức bản chất của sự vật phải đợc xem xét trong trạng thái toàn vẹn và
phức tạp của nó. Cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả
các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó.
- Nguyên tắc xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động.
Cơ sở lý luận là nguyên lý về sự phát triển. Với yêu cầu là khi thực hiện
nguyên tắc này không chỉ dừng ở chỗ liệt kê các giai đoạn phát triển lịch sử
mà sự vật đã trải qua, mà phải vạch ra tính tất yếu, những quy luật chi phối sự
liên hệ và thay thế các trạng thái, từ trạng thái này sang trạng thái khác của

sự vật.
- Nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và logic.
ở đây: Lịch sử là khách thể đợc nghiên cứu trong sự vận động và phát
triển. Logíc là sự tái tạo dới hình ảnh tinh thần khách quan đang vận động và
phát triển với những mối liên hệ tất yếu và xác định. Cơ sở lý luận của nó là:
Phơng pháp lịch sử và phơng pháp logíc. Yêu cầu chung là phơng pháp lịch
sử phải nắm lấy cái logíc, xoay quanh cái logíc. Phơng pháp logíc phải dựa
trên các tài liệu lịch sử để vạch ra những mối liên hệ tất yếu, những quy luật
khách quan vốn có trong quá trình lịch sử.
- Nguyên tắc thống nhất giữa phân tích và tổng hợp, giữa qui nạp và
diễn dịch.
Phân tích và tổng hợp đợc tiến hành trong quá trình nhận thức là sự lặp
lại trong ý thức quá trình phân giải và tổng hợp ở thế giới khách quan.
3
Quy nạp là thao tác mà t duy đi từ tri thức về cái riêng (sự vật hiện tợng,
quá trình riêng lẻ), đến tri thức về cái chung, từ tri thức ít chung đến tri thức
chung hơn.
Diễn dịch là thao tác nhờ đó t duy đi từ tri thức chung đến tri thức chung
hơn, đến tri thức về cái riêng.
- Nguyên tắc đi từ lý luận trừu tợng đến cụ thể.
Cơ sở lý luận là sự tổng hợp lại nhờ t duy lý luận các tài liệu do trực
quan sinh động đem lại, ở đây cái trừu tợng phản ánh những mối liên hệ phổ
biến nhất, đơn giản nhất nhng có vai trò quyết định trong cái cụ thể nghiên
cứu.
2. Phơng pháp biện chứng là đỉnh cao của t duy khoa học.
Có thể nói giá trị của phép biện chứng duy vật không phải xuất phát từ ý
muốn chủ quan của những ngời sáng tạo ra nó mà giá trị đó đợc thể hiện ở
chỗ "Giải pháp những vấn đề mà t tởng tiến tới của loài ngời đặt ra", soi sáng
các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm vụ giải phóng
con ngời khỏi mọi hình thức áp bức lóc lột, khỏi sự tha hoá. Mác khẳng định:

Các nhà triết học trơc đây chỉ tìm mọi cách giải thích thế giới bằng những
cách khác nhau, song cái chính là cải tạo thế giới. Có thể nói rằng cho đến
nay, phép biện chứng duy vật vẫn là cơ sở thế giới quan, phơng pháp luận
khoa học duy nhất đáp ứng đợc nhiệm vụ lịch sử đó mà cha có mặt học
thuyết nào có thể thắng thế đợc, không chỉ những ngời Macxít chân chính là
ngay cả một số học giả t sản cũng thừa nhận vai trò của học thuyết đó. Chỉ có
phép biện chứng duy vật mới có sự giải thích khoa học về những quá trình
vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và t duy, nắm đợc quy luật vận động
của lịch sử, đem lại một giải pháp khoa học cho những vấn đề đó một cách
khoa học. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự thừa nhận thôi cha đủ. Ngày nay,
khoa học và thực tiễn luôn vận động, biến đổi nên triết học Mac Lênin nói
chung và phép biện chứng duy vật nói riêng cũng cần đợc bổ sung và phát
triển nếu chúng ta không muốn lạc hậu so với thực tiễn. Phép biện chứng duy
4
vật vừa là yêu cầu của thực tiễn xã hội, vừa là yêu cầu của nội tại học thuyết
đó. Có phát triển đợc và thông qua phát triển, học thuyết đó mới bảo vệ mình
và mới phát huy đợc tác dụng và những giá trị của nó.
Trớc Mac - Ănghen trong cuộc đấu tranh trờng kỳ của các phái trào lu
triết học, nhân loại đã biết đến nhiều nhà duy vật và biện chứng lớn, đánh dấu
những bớc phát triển mới của t duy triết học của con ngời trên con đờng tìm
tới chân lý. Thế nhng tất cả các nhà triết học đó do sự hạn chế của các điều
kiện khách quan và chủ quan đều cha đem lại cho loài ngời một thế giới toàn
bộ triệt để, một phơng pháp luận khoa học cách mạng ở vị trí đó ta thờng bắt
gặp tính không nhất quán, duy vật khi giải thích vấn đề này, nhng lại duy tâm
khi giải thích vấn đề khác, duy vật nhng lại siêu hình, không biện chứng hoặc
biến chứng nhng lại tiến tới duy tâm. Điều quan trọng nhất là tất cả các nhà
triết học trớc Mác để đứng lại ở nhận thức lĩnh vực tự nhiên và khi chuyển
sang nhận thức vấn đề xã hội họ đều không tránh khỏi rơi vào duy tâm, sai
lầm, phản khoa học. Mác - Ănghen là những ngời đầu tiên thống nhất chủ
nghĩa duy vật biện chứng hay phép biện chứng duy vật, phép biện chứng ra

đời đánh dấu bớc phát triển mới về chất trong lĩnh vực triết học, đó là học
thuyết triết học hoàn bị, triệt để thống nhất đợc xây dựng trên lập trờng thế
giới mới. Nó bao hàm cả lĩnh vực tự nhiên xã hội và t duy con ngời. Phép
biện chứng duy vật không phải là tổng số những nguyên lý, quy luật, phạm
trù mà các nhà kinh điển của chúng ta tạo ra là sự liên hệ hữu cơ có nguyên
tắc của các tri thức đã đợc xác lập trong hệ thống ấy. Giá trị thời đại của học
thuyết ấy là ở chỗ nó là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phơng pháp,
giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính khoa học và cách mạng.
Phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, năng động, nó dành cả
một phơng hớng rộng lớn cho sự chứng minh của khoa học, cho sự bù đắp
của tri thức nhân loại, là sự hớng dẫn và là động lực cho con ngời trong việc
cải tạo tự nhiên xã hội và t duy. Phép biện chứng ra đời từ sự sáng tạo và
đồng thời cũng đặt ra yêu cầu sáng tạo trong việc vận dụng nó trong nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn. Nếu nh trớc đây phép biện chứng đôi khi
5
do các nhà duy tâm nghiên cứu và các nhà duy vật dù là phản đối phép siêu
hình thì bây giờ phép biện chứng đó đã tìm thấy ngời bạn đồng hành tin cậy
duy nhất của mình là chủ nghĩa duy vật. Nếu nh trớc đây lý luận và phơng
pháp đôi khi tách rời nhau, thì bây giờ chúng đã trở thành sự thống nhất gắn
bó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong phép biện chứng duy vật đã trở
thành phơng pháp luận chung nhất của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Lê
nin khẳng định phép biện chứng duy vật là "học thuyết về sự phát triển, dới
hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện".
Phép biện chứng duy vật không giống bất cứ một học thuyết triết học
nào khác, bởi vì nó không phải là sản phẩm của phơng pháp t duy mà nó là sự
phản ánh khách quan thế giới vật chất, là sự kích thích những giá trị t tởng,
văn hoá nhân loại, nó kế thừa tiếp thu có phân hoá những hạn ché của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử, đồng khái quát những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên. Học thuyết đó luôn lấy thực tiễn làm cơ
sở, điểm xuất phát của mình. Thực tiễn vừa là cơ sở, vừa là mục đích, động

lực, tiêu chuẩn để đánh giá sức bền của nó. Chính hơi thở của thực tiễn đã
làm cho phép biện chứng duy vật luôn sống động, phát triển. Lê nin chỉ rõ:
"Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản
của lý luận về nhận thức".
Trong quá trình xây dựng hệ thống triết học của mình các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác luôn đấu tranh không khoan nhợng chống lại mọi luận điệu
xuyên tạc của kẻ thù và bảo vệ những quan điểm khoa học của mình.
6
B
Phép biện chứng duy vật
Có thể nói từ thời cổ đại ngời ta đã hiểu phép biện chứng là nghệ thuật
tranh luận để tìm ra chân lý, bằng cách vạch ra những mâu thuẫn trong lập
luận của đối phơng. Quan điểm ấy đã thể hiện những hiểu biết nhất định về
yếu tố cơ bản của phép biện chứng là mâu thuẫn.
Định nghĩa phép biện chứng cho biết, phép biện chứng nói chung chỉ
mối liên hệ, vận động, phát triển của các sự vật phát triển. Thực chất của các
mối liên hệ vận động phát triển ấy là sự thống nhất, đấu tranh của các mặt
đối lập gọi là mâu thuẫn.
Quan điểm biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tợng hay những sản
phẩm tinh thần của thế giới, tồn tại trong mối liên hệ, tác động lẫn nhau và
không ngừng vận động phát triển.
Đối lập với quan điểm biện chứng, quan điểm siêu hình cho rằng các sự
vật hiện tợng trong thế giới tồn tại cô lập, tĩnh lại không vận động, không
phát triển. Nếu có sự thừa nhận trong quan điểm này về vận động của thế giới
thì đó là sự tăng giảm đơn thuần về lợng hoặc vận động theo chu kỳ khép kín.
Những ngời theo quan điểm siêu hình nói chung phủ nhận sự phát triển,
họ tuyệt đối hoá các mặt ổn định của sự vật, hiện tợng. Họ cho rằng không có
sự ra đời của cái mới và nguồn gốc của chúng nằm ở bên ngoài sự vật, hiện t-
ợng. Nh vậy quan điểm biện chứng khác quan điểm siêu hình ở chỗ: Nó xem
xét sự phát triển nh một quá trình tiến lên, thông qua những bớc nhảy vọt, cái

cũ mất đi và cái mới ra đời. Nó vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận động
và phát triển, đó là cuộc đấu tranh giữa những mặt đối lập bên trong của sự
vật, hiện tợng.
Có hai loại phép biện chứng đó là biện chứng khách quan và biện chứng
chủ quan.
Trong lịch sử triết học có ba hình thức cơ bản của phép biện chứng phản
ánh trình độ nhận thức khác nhau của nhân loại về biện chứng khách quan
7
của thế giới, phép biện chứng ngây thơ, phép biện chứng duy tâm, phép biện
chứng duy vật.
Phép biện chứng ngây thơ tự phát cổ đại, tiêu biểu là Hêcralít. Ông cho
rằng sự vận động và phát triển của thế giới giống nh dòng chảy của một con
sông, nh vậy không ai tắm hai lần trên một dòng sông. Biện chứng ngây thơ
dựa trên quan sát có tính trực quan, chỉ có ý nghĩa vô thần, chống lại quan
niệm tôn giáo về thế giới, ít có giá trị khoa học. Biện chứng ngây thơ là hạn
chế, bị phơng pháp siêu hình xoá bỏ.
Biện chứng duy tâm, ngời tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm khách
quan là Heghen. Ông là ngời đầu tiên có công xây dựng tơng đối hoàn chỉnh
phép biện chứng duy vật với hệ thống các phạm trù, khái niệm, và các qui tắc
cơ bản. Tuy nhiên, phép biện chứng của Heghen còn thiếu triệt để và thiếu
khoa học.
Biện chứng duy vật do Mác - Ănghen sáng lập ra vào giữa thế kỷ 19.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật
và phơng pháp luận biện chứng. Nhờ đó khắc phục đợc các hạn chế trớc đây
của phép biện chứng chất phác và phép biện chứng duy tâm và thực sự trở
thành khoa học, đa con ngời tới bến bờ chân lý. Phép biện chứng duy vật bao
gồm các nguyên lý, phạm trù, qui luật.
Ta sẽ lần lợt xem xét các khía cạnh này.
I. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tợng.

Trớc hết ta cần hiểu mối liên hệ là chỉ sự phụ thuộc tác động và chuyển
hoá lẫn nhau của các sự vật, hiện tợng hoặc giữa các yếu tố, các mặt hay các
quá trình khác nhau của chúng. Các mối liên hệ không chỉ mang tính chất
phổ biến mà còn mang tính đa dạng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm liên hệ phổ biến là liên hệ giữa
các sự vật, hiện tợng của toàn bộ thế giới khách quan (gồm cả tự nhiên, xã
hội và tinh thần). Theo nó trong thế giới không có sự vật nào tồn tại độc lập,
8

×