Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

LUẬN VĂN: Nhận thức đầy đủ về công nghiệp hoá, hiện đại hoá doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.38 KB, 22 trang )










LUẬN VĂN:

Nhận thức đầy đủ về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá









a. Phần mở đầu




Khái quát về mấy đại hội gần đây của Đảng ta có thể nói rằng : Nếu như đại hội
của Đảng là cột mốc quan trọng đánh dấu sự mở đầu quá trình đổi mới mọi mặt đời
sống đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đại hội VII tiếp tục đưa công cuộc
đổi mới đi vào chiều sâu nhằm từng bước đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh


tế xã hội tạo ra thế và lực mới cho sự phát triển đất nước thì đại hội VIII là đại hội
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng văn minh vững vàng đi lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, đại hội
VII một lần nữa xác định : Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Và trên thực tế chúng ta nhận thấy rằng không phải đến bây giờ mà ngay từ đại
hội III tháng 9 năm 1960, Đảng ta đề ra đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá và coi
đó là nhiệm vụ xuyên suốt thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điểm mới lần
này là chúng ta không chỉ đề cập đến công nghiệp hoá như đại hội III mà gắn liền với
hiện đại hoá. Không chỉ nói đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
như hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng khoá VII mà đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ coi là nhiệm vụ lâu dài, xuyên suốt mà còn khẳng
định đây là nhiệm vụ cần kíp, cấp bách và hơn bao giờ hết, vấn đề nhận thức đầy đủ về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì càng cần phải thực hiện cấp thiết hơn.














b. Phần nội dung


I. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
1. Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước hết xuất phát từ mục tiêu
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã lựa chọn. Việc thiết kế thi công và
thực hiện thành công mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt nam là một quá trình phấn đấu
lâu dài, gian khổ nhưng nhất định phải làm. Nó đòi hỏi toàn Đảng toàn dân ta đồng
tâm hiệp lực, có đường đi nước bước rõ ràng có ý chí và bản lĩnh vững vàng để sẵn
sàng tạo lập nắm bắt và tận dụng thời cơ, khắc phục nguy cơ tụt hậu, vượt qua thử
thách đưa đất nước vượt lên sánh vai với các cường quốc năm châu như Bác Hồ đã nói
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là mong ước ngàn đời của cha ông ta, là sự
giao phó của lịch sử Việt nam hàng nghìn năm văn hiến và hiển hách chiến công cho
thế hệ hôm nay tiếp nối và thực hiện bằng được. Đây cũng là khát vọng của nhân dân
ta hiện nay, mong muốn đất nước ta có một tiềm lực to lớn đủ khả năng xây dựng cuộc
sống ấm no - tự do - hạnh phúc cho toàn dân, xã hội công bằng văn minh, bảo vệ vững
chắc nền độc lập của tổ quốc, hội nhập với cộng đồng quốc tế.
Thực tế lịch sử đã chỉ ra rằng : Phát triển kinh tế xã hội là quy luật khách quan
của tồn tại phát triển xã hội loài người và của bất cứ nước nào không loại trừ cả những
nước giàu mạnh đã đạt đến trình độ phát triển cao. Vấn đề khác nhau giữa các nước
chỉ là mục tiêu, nội dung và cách thức phát triển hay như Mác đã nói : Những thời đại
kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất
bằng cách nào và những tư liệu lao động nào. Và như vậy mỗi một phương thức sản
xuất nhất định đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất của một xã hội
nhất định thường là vật chất của lực lượng sản xuất cùng với kết cấu xã hội đã đạt
được một trình độ phát triển tương úng. Quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ đòi hỏi
một cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng mà theo Lênin "Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội là một nền đại công nghiệp cơ khí"
Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của các phương thức trước công nghiệp tư bản
là kỹ thuật thủ công lạc hậu. Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại
chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại và cân đối dựa trên trình độ khoa học và công



nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất kỹ thuật như vậy, các nước đang phát triển
cần phải tiến hành công nghiệp hoá. Việt nam thuộc nhóm nước đang phát triển, là
một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, nông nghiệp lạc hậu chưa vượt khỏi xã
hội truyền thống sang xã hội văn minh công nghiệp. Do vậy, điều kiện khách quan đòi
hỏi phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là nội dung, phương thức và là
con đường phát triển nhanh, có hiệu quả.
Như vậy qua trên ta thấy : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu
khách quan của cách mạng nước ta. Nó làm cho xã hội chuyển biến từ xã hội truyền
thống sang xã hội hiện đại, làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trong mọi lĩnh vực
kinh tế, văn hoá, chính trị
2. Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đúng đắn có những tác dụng to lớn về
nhiều mặt tạo điều kiện để biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động,
tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển
kinh tế, do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần quyết
định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội - Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng
cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ tăng công ăn việc làm,
nhờ đó làm tăng sự phát triển tự do và toàn diện cho mọi hoạt đọng kinh tế của con
người - nhân tố trung tâm của nền sản xuất xã hội, tạo điều kiện vật chất cho việc tăng
cường, củng cố an ninh và quốc phòng, tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền
kinh tế dân tộc độc lập tự chủ đủ sức phân công và hợp tác quốc tế.
3. Định nghĩa công nghiệp hoá, hiện đại hoá
a. Định nghĩa công nghiệp hoá
Công nghiệp hoá được định nghĩa và có nhiều quan niệm khác nhau song nó
thường được hiểu là một quá trình gắn liền với việc xác định một cơ cấu kinh tế hợp
lý, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế nhằm thủ tiêu tình trạng
lạc hậu về kinh tế xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, đảm bảo nhịp độ
tăng trưởng nhanh và ổn định.
Tuy nhiên trong thực tế đến nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm về phạm trù

"Công nghiệp hoá ".


Tổ chức phát triển nông nghiệp của liên hiệp quốc (UNIDO) đã đưa ra định
nghĩa : "Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong quá trình này một bộ
phận ngày càng tăng các nguồn của quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh
tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là
óc một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng
tiêu dùng có khả năng bảo đảm cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt
tới sự tiến bộ về kinh tế xã hội". Quan niệm này cho thấy quá trình công nghiệp hoá
bao trùm toàn bộ quá trình phát triển kinh tế xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự phát
triển kinh tế mà còn sự tiến bộ về mặt xã hội.
Trong sách báo của Liên Xô cũ tồn tại một định nghĩa phổ biến : "Công nghiệp
hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả công
nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy". Với
định nghĩa này, công nghiệp hoá thường chủ yếu vào các ngành công nghiệp nặng và
như vậy, phải chăng định nghĩa này xuất phát từ tình hình thực hiện của Liên Xô(cũ)
trong thời kỳ quá độ.
Song dù muốn hay không trên thực tế công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay trước
mắt nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững. Song sẽ là thiếu sót nếu chúng ta không quan tâm giải quyết tốt những vấn đề xã
hội. Thực tiễn nước ta và kinh nghiệm của các nước đang phát triển cho thấy ngay từ
bước đầu tiên của việc hoạch định chiến lược và chương trình phát triển nhất thiết phải
đảm bảo tính đồng bộ giữa kinh tế và xã hội, cùng với sự phát triển kinh tế phải xây
dựng những mặt thuộc hạ tầng của đời sống xã hội, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, nâng cao đời sống nhân dân.
Qua những vấn đề phân tích trên ta có thể định nghĩa : Công nghiệp hoá là một
quá trình lịch sử tất yếu nhằm tạo nên những chuyển biến căn bản về kinh tế - xã hội
của đất nước trên cơ sở khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước, mở
rộng quan hệ kinh tế quốc tế , xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình độ khoa

học công nghệ ngày càng hiện đại.
b. Hiện đại hoá
Khoa học công nghiệp hiện đại là nhân tố then chốt của hiện đại hoá. Hiện đại
hoá có nội dung lớn và phong phú, bao gồm các mặt kinh tế, chính trị xã hội và văn
hoá. Hiện đại hoá thường được định nghĩa là một quá trình nhờ đó các nước đang phát


triển tìm cách đạt được sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến hành cải cách chính trị
và củng cố cơ cấu xã hội, nhằm tiến tới một hệ thống kinh tế xã hội và chính trị giống
hệ thống của những nước phát triển hiện đại hoá cưỡng bức, dập khuôn sẽ làm bại hoại
cho quốc gia vì nó đối nghịch với bản sắc dân tộc, thù địch với dân chủ.
c. Quan hệ giữa công nghiệp hoá và hiện đại hoá
Xét trên khía cạnh kinh tế xã hội, hiện đại hoá là cái đích cần vươn tới trong quá
trình công nghiệp hoá. Nhưng quá trình phát triển của công nghiệp lại bị ràng buộc bởi
yêu cầu đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội. Hiện đại hoá là phương tiện, điều kiện để đạt
được mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá.Giải quyết quan hệ này có liên quan trực
tiếp đến bước đi của quá trình hiện đại hoá theo những điều kiện cụ thể của đất nước.
Việc muốn đi ngay vào công nghệ hiện đại ở tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động
nhằm nhanh chóng xoá bỏ tình trạng nghèo nàn lạc hậu thì điều đó hết sức là phiêu lưu
hay nói như một học giả nào đó : Thoát li thực tế của đất nước chỉ làm trầm trọng thêm
những vấn đề kinh tế xã hội của đất nước. Trong điều kiện có nguồn nhân lực dồi dào
nhưng trình độ quản lý có hạn và sự thiếu thốn trầm trọng về vốn đầu tư thì vấn đề ưu
tiên hiện đại hoá cho các ngành các lĩnh vực đầu tầu mà sự phát triển của chúng tạo ra
những điều kiện cơ bản cho sự phát triển của các ngành khác và góp phần cải thiện vị
trí của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc tế là điều hết sức cần thiết và cấp bách.
Nắm bắt được tầm quan trọng của vấn đề sự cấp thiết của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá để giải quyết nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Đảng ta đã đề ra đường lối
công nghiệp hoá, hiện đại hoá coi đó là nhiệm vụ xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
II. Quá trình phát triển của công nghiệp hoá ở nước ta

1. Trước thời kỳ đổi mới
Nước ta bắt đầu công nghiệp hoá từ năm 1960 theo đường lối đại hội III của
Đảng đề ra, đến nay sự nghiệp đó vẫn tiếp tục. Đại hội VII của Đảng đã xác định:
"Đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ
trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới". Thế nhưng trên thực tế
nước ta tiến hành và điều kiện xuất phát điểm thấp về kinh tế xã hội, về phát triển lực
lượng sản xuất và trạng thái không còn phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất


trình độ của lực lượng sản xuất. Công nghiệp chỉ chiếm 15,2% thu nhập quốc dân, lao
động công nghiệp chiếm 7% lực lượng lao động xã hội . Quan hệ sản xuất, trước hết
quan hệ sở hữu được đẩy lên ở mức cao, năm 1960, 85,8% số hộ nông dân và hợp tác
xã, 10% tư sản công thương cải tạo, 80% thợ thủ công vào hợp tác xã. Thu nhập quốc
dân theo đầu người thấp dưới 100 USD. Hơn nữa công nghiệp hoá tiến hành trong
điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan hệ bao cấp và chỉ 4 năm sau đó tiền
chiến tranh phá hoại miền Bắc nổ ra song mặc dù vậy công nghiệp hoá vẫn được tiến
hành nhưng trong điều kiện hết sức khó khăn.
2. Sau đổi mới
Chiến tranh kết thúc đất nước độc lập, dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn bắt tay
ngay vào công cuộc xây dựng đất nước. Kế hoạch thực hiện công nghiệp hoá vẫn tiếp
tục được thực hiện. Nhưng chúng ta cũng cần thấy được rằng công nghiệp hoá trong
thời kỳ này khác với công nghiệp hoá vào những năm 60 bởi công nghiệp hoá ngày
nay còn đi đôi với hiện đại hoá và ngày nay chúng ta đẩy tới một bước công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Với đường lối đổi mới
của Đảng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang được phát triển mạnh
mẽ, đất nước có sự ổn định chính trị xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô. Tốc độ gia tăng
GDP từ 1991 đến nay, bình quân 8,2%/năm thu nhập bình quân quốc dân theo đầu
người trên 220USD/năm.
Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang tăng lên, cuộc cách mạng khoa học

công nghệ diễn ra sôi động, khu vực Châu á Thái Bình Dương đang trên đà phát triển
nhanh, quan hệ quốc tế và kinh tế đối ngoại của nước ta ngày càng mở rộng, cho phép
tranh thủ ngày càng nhiều hơn nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài
Qua phân tích trên ta thấy rằng phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong và
sau thời kỳ đổi mới có nhiều điểm khác biệt so với trươc cơ cấu kinh tế xã hội có
nhiều thay đổi nhưng điểm lớn nhất đó là việc thực hiện kinh tế nhiều thành phần,
nhiều ngành vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo và cùng với
kinh tế hợp tác dần dần thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.


III. Những thuận lợi, khó khăn khi nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
1. Những khó khăn
Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
mục tiêu con đường phát triển lớn nhất, quan trọng nhất của nước ta trong giai đoạn
tới. Trong thời kỳ đầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta còn đứng trước
nhiều điều mới mẻ, nhận thức về công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn hạn chế bởi chúng
ta vừa thoát khỏi hai cuộc chiến tranh tàn khốc, điểm xuất phát kinh tế thấp từ một cơ
cấu kinh tế mất cân đối và cơ cấu hạ tầng thấp kém. Vốn là chìa khoá là nhân tố quan
trọng để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thế nhưng khả năng huy động vốn
cho quá trình này rất bị hạn chế. Hiện nay, trong tổng số vốn dùng để đầu tư xây dựng
cơ bản của nhà nước thì vốn trong nước chỉ có 25% còn 75% là vay nợ nước ngoài.
Quản lý và sử dụng kém hiệu qủa cùng với tham nhũng sẽ dẫn đến nguy cơ gánh nặng
nợ nần lớn và khả năng trả nợ khó khăn.
Tiếp đó, bối cảnh quốc tế và khu vực vừa tạo ra thời cơ thuận lợi vừa đặt ra
những thử thách nguy cơ. Đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá
thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Nước ta lại nằm trong khu
vực Châu á Thái Bình Dương và Biển Đông, nơi đang có những diễn biến phức tạp,

nơi đang tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định.
Dấu ấn của cơ chế quản lý cũ, cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp chưa
xoá bỏ hết cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước còn đang trong quá trình hình
thành. Quản lý kinh tế xã hội còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy
hành chính cồng kềnh kém hiệu quả có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đến việc thu hút đầu tư chuyển giao công nghệ đặc biệt tệ
quan liêu tham nhũng và suy thoái về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng
viên làm cho các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch
dẫn tới chệch hướng đó cũng là mảnh đất thuận lợi cho diễn biến hoà bình.
2. Những thuận lợi


Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta có rất nhiều điều kiện
thuận lợi.
Trên thế giới cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển vào trình độ ngày
càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh
tế và đời sống xã hội . Đây là một thời cơ thuận lợi cho phép chúng ta có thể khai thác
được những yếu tố nguồn lực bên ngoài(vốn, công nghệ thị trường ) và những nguồn
lực bên trong của đất nước có hiệu quả, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút
ngắn, kết hợp với các bước đi tuần tự nhảy vọt, vừa tăng tốc vừa chạy trước đón đầu.
Nhà nước tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi sau chúng ta có lợi thế của
người đi sau. Chúng ta có thể tiến hành khắc phục được những thất bại mà những nước
đi trước gặp phải. Lợi dụng cơ hội là đi thẳng vào công nghệ tiên tiến thích hợp với
Việt nam, đạt được sự phát triển nhanh bền vững.
Đất nước sau 10 năm đổi mới đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhiều tiền
đề cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được tạo ra, chúng ta đã và đang có
những thế và lực mới, cả bên trong và bên ngoài để bước vào một thời kỳ phát triển
mới.
Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển và giao lưu kinh tế. Nằm trên
bán đảo Đông Dương gần trung tâm Đông Nam á. Việt nam là cửa ngõ đầu mối giao

thông của các tuyến đường quốc tế quan trọng nơi diễn ra các hoạt động kinh tế sôi
động và được coi là khu vực phát triển năng động nhất hiện nay. Do đó, chúng ta có
điều kiện để mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại có điều kiện thu thập và xử lý
thông tin nhanh chóng.
Sự kiện Việt nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN ngày 28/07/1995
và Mỹ bỏ lệnh cấm vận ngày 03/02/1994 mở ra một hướng phát triển mới của nền kinh
tế Việt nam. Chúng ta có thêm điều kiện thuận lợi để hội nhập kinh tế với khu vực và
thế giới.
Hệ thống pháp luật ổn định, hợp lý, đặc biệt là luật đầu tư đang từng bước được
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Điều đó tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện
các quan hệ kinh tế quốc tế, các hợp đồng với nước ngoài, làm cho họ yên tâm đầu tư
kinh doanh đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để bảo vệ lợi ích đất nước.
Bên cạnh đó tình hình kinh tế chính trị ổn định nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nguồn lực vật chất


được tăng cường mức sống nhân dân tăng nhanh rõ rệt, sản lượng lương thực thực
phẩm đã tăng lên đáng kể : Nếu như năm 1996 nước ta xuất khẩu gạo thứ 3 trên thế
giới thì đến cuối 1997 nước ta đã vượt lên đứng thứ hai trên thế giới xuất khẩu gạo sau
Mỹ, nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ trong thời gian 1991 - 1995 nhịp độ tăng hàng năm
của GNP đạt 3,2% vốn đầu tư toàn xã hội năm 1990 chiếm 18,8% GNP đến năm 1995
tăng lên 27,4% GNP. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo của đất nước có nhiều tiến bộ,
trình độ dân trí được nâng lên nhờ đó có thể tiếp thu dễ dàng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Ngoài ra nước ta còn có những thuận lợi quan trọng khác và nó được coi là
nguồn nội lực không thể thiếu được trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá : có
chế độ chính sách ưu việt phù hợp cho từng ngành nghề, nguồn nhân lực dồi dào, tài
nguyên thiên nhiên đa dạng phong phú.
Như vậy qua phân tích trên ta thấy những tiềm năng trên cộng với đường lối
chính sách đúng đắn chúng ta có thể tranh thủ được thời cơ thuận lợi vượt qua những

thử thách, thực hiện thắng lợi cùng với đường lối chính sách đúng đắn chúng ta có thể
tranh thủ được thời cơ thuận lợi, vượt qua những thử thách , thực hiện thắng lợi công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành một nước công nghiệp vào năm
2000.
IV. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đã và đang thực hiện trong những chế độ chính trị khác nhau, ở nước ta Đảng ta xác
định tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng chủ nghĩa. Để đi tới chủ
nghĩa xã hội phải trải qua nhiều bước quá độ, trung gian, mỗi bước tiến lên thì nhân tố
xã hội chủ nghĩa lại càng được tăng thêm. Để khẳng định cái đích công nghiệp hoá,
hiện đại hoá vừa lựa chọn được những trình tự, bước đi giải pháp thích hợp. Trạng thái
kinh tế xã hội của đất nước hiện nay phải có những nhân tố đảm bảo giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp
công nhân của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Giữ vững và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt nam đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chỉ


như vậy mới làm cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đạt được mục tiêu dân giàu nước
mạnh xã hội công bằng văn minh.
Căn cứ vào sự đổi mới thực sự toàn diện về lý luận và thực tiễn của quá trình
công nghiệp hoá ở nước ta chia làm hai giai đoạn cơ bản: Giai đoạn từ 1960 - 1986 và
giai đoạn 1986 đến nay.
a. Giai đoạn 1960 - 1986
Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là thực hiện một chiến lược nhất quán được
xác định từ đại hội Đảng lao động Việt nam lần thứ III (9/1960). Tại đại hội này Đảng
ta khẳng định : Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, mà vấn đề mấu chốt là ưu tiên công nghiệp nặng. Chủ
trương về công nghiệp hoá là : Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và

hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm nền tảng, ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ thực hiện chiến lược này, chúng ta đã tập trung một nguồn lực
trong nước và nước ngoài, tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa
đầu tư trang bị lại và xây dựng mới hàng loạt các cơ sở sản xuất và các ngành kinh tế.
Chỉ trong một thời gian ngắn chúng ta đã hình thành cơ cấu kinh tế đa ngành trong đó
các ngành quan trọng như cơ khí, luyện kim, khai thác than
Cơ cấu kinh tế đã có sự cấu trúc lại, tỷ trạng giá trị sản phẩm công nghiệp trong
tổng sản phẩm xã hội không ngừng tăng từ 31,7% (năm 1960) lên 42,7% (năm 1978).
Nông nghiệp giảm từ 31,5% xuống 29,3% khối lượng vốn đầu tư và giá trị tài sản cố
định trong các ngành tăng nhanh đặc biệt là công nghiệp nặng.
Sau 1975 tình hình trong và ngoài nước có nhiều thay đổi lớn. Đất nước thống
nhất, ta tiếp tục thực hiện công nghiệp hoá. Nhưng với những sai lầm khuyết tật vốn
tích tụ lâu ngày đã làm nảy sinh nhiều tiêu cực, nền kinh tế bị suy giảm lạm phát, cơ
cấu kinh tế ngày càng bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng. Tốc độ tăng bình quân
về sản phẩm xã hội chỉ đạt bình quân 1,4%, nội chi ngân sách 2,1 lần trong thời kỳ
1976 - 1980.
Đại hội Đảng thứ V khẳng định : Nội dung của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80 ta tập trung sức phát triển mạnh nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ra sức
đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng


quan trọng. Nhờ kết quả của sự điều chỉnh cơ cấu sản xuất , đầu tư này đã đạt được
những tiến bộ đáng kể. Tốc độ tăng bình quân tổng sản phẩm xã hội 7,6% thu nhập
quốc dân tăng 6,4%, công nghiệp 9,5%, nông nghiệp 5,1%. Song việc điều chỉnh cơ
cấu sản xuất diễn ra chậm, ứng dụng khoa học kỹ thuật và mức độ đổi mới trang bị kỹ
thuật chậm. Nền kinh tế vẫn khủng hoảng, tình hình kinh tế vẫn tiếp tục khó khăn.
b. Giai đoạn từ 1986 đến nay
Đây là thời kỳ đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ cả về quan điểm, nhận

thức cũng như tổ chức chủ đạo thực hiện công nghiệp hoá đất nước. Đại hội VI khẳng
định : "Tiếp tục xây dựng tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo" và trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986 -
1990, phải thực sự tập trung sức người sức của vào việc thực hiện cho được 3 mục tiêu
về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu sự chuyển
hướng chiến lược cùng với những thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế đã thu được
những hiệu quả đáng khích lệ. Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là chúng ta đã
bước đầu hình thành một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ đó trong thời kỳ từ 1986 - 1990 chúng ta
đã đạt được tốc độ bình quân của tổng sản phẩm xã hội là 4,5% thu nhập quốc dân
3,9% giá trị sản lượng công nghiệp 3,9%, nông nghiệp 3,8% giá trị xuất khẩu 28%,
nhập khẩu 8%. Một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản được hình thành : Dầu mỏ, than đá,
lâm hải sản, gạo. Lần đầu tiên sau hơn 30 năm chúng ta gần như lập được cân đối giữa
xuất và nhập khẩu trong tình hình nguồn viện trợ từ Liên Xô và các nước Đông âu
không còn nữa. Quá trình cấu trúc lại nền kinh tế quốc dân đang được đẩy mạnh,
nhanh theo hướng ngày càng hợp lý và có hiệu quả hơn. Tiếp đó, Đảng ta tiến hành đại
hội VII (1990) và đại hội Đảng VIII (1995) với cương lĩnh và mục tiêu tiến lên xã hội
chủ nghĩa thông qua quá trình công nghiệp hoá kết hợp với hiện đại hoá.
c. Mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Đại hội Đảng VII Đảng ta đã đề ra mục tiêu chỉ thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá như sau :
"Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu quản lý hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình đã phát


triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh."
Mục tiêu này, cũng gắn liền với mục tiêu kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta được xem xét trên các tiêu thức về lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao của mọi thành viên xã hội.

2. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm cuối của thập kỷ
90
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình được thực hiện gắn liền với những
chặng đường nhất định. Trong mỗi chặng đường đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
được tiến với những nội dung khác nhau và tất yếu được hoàn thành với tốc độ không
giống nhau.
a. Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn
- Phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông
lâm thuỷ sản và liên kết với công nghiệp ở đô thị.
- Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá và hoá học hoá.
- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao
gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công
nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình
dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
- Hoàn thành cơ bản việc giao đất giao rừng cho hộ nông dân, điều chỉnh việc
phân bổ vốnvà huy động thêm nhiều nguồn vốn cho phát triển nông lâm ngư nghiệp và
kinh tế nông thôn.
b. Phát triển công nghiệp
Ưu tiên các ngành chế biến lương thực - thực phẩm sản xuất hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin, phát triển có chọn lọc một
số cơ sở công nghiệp nặng như : Năng lượng, nhiên liệu, vật liệu xây dựng, cơ khí chế
tạo, đóng và sửa tàu thuỷ, hoá chất.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng
nhằm đáp ứng nhu cầu tối thiểu cần thiết trong từng thời kỳ.
c. Xây dựng kết cấu hạ tầng


- Khắc phục tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông hiện có bằng cách
khôi phục nâng cấp và mỏ rộng những tuyến giao thông trọng yếu. Mở thêm đường
đến các vùng sâu vùng xa cải tạo nâng cấp một số cảng sông cảng biển, sân bay, xây

dựng dần cảng biển nước sâu.
- Tiếp tục phát triển và hiện đại hoá mạng thông tin liên lạc quốc gia, mở rộng
lưới điện đáp ứng nhu cầu và cung cấp điện ổn định. Cải thiện việc cấp thoát nước ở
đô thị, thêm nguồn nước sạch cho nông thôn. Tăng đầu tư cho kết cấu hạ tầng xã hội
(giáo dục, y tế, khoa học, văn hoá, thông tin)
d. Phát triển nhanh du lịch
Các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, thương mại, vận tải và
các dịch vụ phục vụ cuộc sống nhân dân. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung
tâm du lịch, thương mại dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực.
e. Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế, tiềm
năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả các vùng đều phát triển.
- Đầu tư ở mức cần thiết cho các vùng kinh tế trọng điểm để thúc đẩy sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta cần làm giảm bớt sự chênh lệch quá lớn về
trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa các vùng, coi đây là một trọng tâm chỉ đạo của
các ngành các cấp. Hình thành mạng lưới đô thị hợp lý, tránh không tạo thành các siêu
đô thị. Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý đô thị.
g. Nội dung cuối cùng là mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
- Đó là việc đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm
của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Giảm tỷ trọng sản
phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sau và tình trạng hàng xuất khẩu.
Nâng cao phần giá trị gia tăng trong quá trị gia tăng trong quá trình hàng nhập khẩu.
Giảm dần nhập siêu, có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước .
- Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu,
xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với đối tác.
- Tính toán kỹ khả năng vay, sử dụng vốn vay có hiệu quả, trả được nợ. Cải thiện
cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ, thử nghiệm để tiến tới thực hiện việc đầu tư ra
nước ngoài.









c. Phần kết thúc

1. Khái quát nội dung đề tài
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam là quá trình nhằm mục tiêu
biến nước ta thành một nước công nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với sự phát triển sản xuất, nguồn lực con
người được phát huy, mức sống vật chất tinh thần được nâng cao, quốc phòng an ninh
ổn định vững chắc dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh.
Như vậy, đẩy mạnh công cuộc nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tất yếu khách
quan đối với nền kinh tế Việt nam, là một quá trình lâu dài để tạo một sự chuyển đổi
cơ bản toàn diện bộ mặt đất nước ta về kinh tế - chính trị, quốc phòng và an ninh.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam mới chỉ là bước đầu, mặc dù
còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng với sự cố gắng nỗ lực của Đảng và nhà nước ta nên
cũng đạt được một số thành tựu đáng khích lệ mà như Đảng ta đã kết luận trong đại
hội Đảng VIII, nước ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế do những năm trước
để lại - nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ nội bộ, tổng sản phẩm quốc nội đạt nhịp độ tăng
bình quân là 8% đời sống của đông đảo nhân dân được cải thiện sản xuất các ngành
công nghiệp dịch vụ trong các thành phần kinh tế nhìn ching đã thích nghi với cơ chế
thị trường, sản lượng công nghiệp tăng bình quân hàng năm cao hơn mức kế hoạch.
Quan hệ kinh tế với nước ngoài được mở rộng, cán cân thanh toán đựơc cải thiện,
nguồn thu ngoại tệ đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu vật tư và hàng hoá cần thiết cho
đời sống và sản xuất.
Việc Đảng và nhà nước chọn con đường tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá
( CNH-HĐH ) là rất đúng đắn. Bằng sự thông minh sáng tạo, cần cù của nhân dân ta,

chúng ta hoàn toàn tin tưởng trong một tương lai không xa Việt nam sẽ " cất cánh " trở


thành một con rồng Châu á và chúng ta sẽ hoàn thành kế hoạch, mục tiêu CNH - HĐH
đất nước, đưa " Việt Nam sánh vai cùng với các cường quốc năm châu " như Hồ Chủ
Tịch đã dặn trước lúc đi xa.
2. Một vài ý kiến cá nhân
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá lời giải của bài toán phát triển, trực tiếp đưa đất
nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan
trọng của mười năm đổi mới qúa trình mở cửa, hội nhập với thế giới cũng đã mang lại
cho chúng ta những kết quả rất đáng tự hào. Song mặc dù vậy, chúng ta còn gặp phải
rất nhiều khó khăn. Vậy để giải quyết những vấn đề khó khăn đó làm cho quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công thì chúng ta phải làm gì để đạt được điều đó
?
a. Các giải pháp về chính sách kinh tế vĩ mô
Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc quản lý và điều tiết nền kinh tế
trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá với điều kiện kinh tế hiện nay.
Nhà nước là cơ quan cao nhất sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô, quản lý toàn bộ nền
kinh tế thông qua các bộ luật, các chính sách đòn bẩy kinh tế, hàng rào thuế quan Từ
đó điều chỉnh nền kinh tế vận hành đúng đắn và đạt được mục tiêu của mình
b. Giải pháp về công nghệ bảo vệ môi trường sinh thái .
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đồng thời là quá trình, cơ cấu kinh tế theo hướng
các ngành có hàm lượng khoa học công nghệ cao . Để đạt được mục tiêu này phải đẩy
mạnh phát triển công nghiệp đổi mới công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế, phải sử
dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học công nghệ kết hợp với việc bảo vệ môi
trường sinh thái .
c. Giải pháp nâng cao trình độ người lao động .
Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố chiến lược cơ bản cụ thể là phải không
ngừng đào tạo lại nâng cao trình độ người lao động, xây dựng một đội ngũ cán bộ

quản lý năng động, am hiểu về kinh tế thị trường, đội ngũ viên chức Nhà nước có
phẩm chất đạo đức và năng lực để điều hành nền kinh tế theo luật định.


d. Giải pháp về tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả.
Vốn là tiền đề cơ bản cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nước ta tiến hành
công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện thiếu vốn trầm trọng, vì vậy vấn đề đặt ra
ở đây là làm thế nào để huy động đủ vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Có huy động
được nguồn vốn từ bên ngoài và phát triển nhanh chóng nguồn vốn trong nước mới có
thể đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Phát triển nhanh chóng nguồn vốn trong nước. Hiện nay nguồn vốn trong dân cư
vẫn còn tồn đọng khá lớn nhưng chưa được sử dụng đúng mục đích do đó chưa phát
huy được sức mạnh của cơ cấu kinh tế, vì vậy cần có các giải pháp để triển khai và
phát huy tối đa nguồn vốn tối đa này.
Trong việc tìm kiếm các giải pháp đầu tư phát triển nền kinh tế trong thời gian
tới ta cần phải quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước.
Coi nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng. Để
phát triển nhanh chóng nguồn vốn trong nước cần tập trung giải quyết những vấn đề:
+ Giải quyết mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế cho
đầu tư phát triển sản xuất. Nâng cao tỷ lệ tích luỹ : tăng nguồn thu và giảm mức thâm
hụt ngân sách; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham ô lãng phí. Đồng thời phải tăng
năng xuất lao động; đa dạng hoá ngành nghề tạo việc làm cho người lao động.
+ Xây dựng một hệ thống ngân sách có hiệu quả cao, điều chỉnh mức lãi suất hợp
lý, đảm bảo được mức cung tiến, khống đẩy lùi được lạm phát, huy động được tất cả
các nguồn vốn nhàn rỗi tạo nền tảng phát triển cho các loại thị trường tiền tệ.
+ Đẩy nhanh sự hình thành thị trường chứng khoán. Đây là một đòi hỏi tất yếu
khách quan giúp ta trong việc mở rộng các hình thức thu hút vốn trực tiếp thông qua
phát hành chứng khoán, cho phép chúng ta có thể huy động triệt để mọi nguồn vốn
nhàn rỗi chưa được sử dụng đúng mục đích để phục vụ cho các hoạt động đầu tư .
Huy động vốn từ bên ngoài:

Ngoài việc tạo vốn trong nước, cần phải huy động vốn từ bên ngoài ta cần phải
có những chính sách hợp lý nhằm tranh thủ các nguồn viện trợ, vốn vay và đầu tư trực
tiếp của nước ngoài. Để thực hiện được điều này, cần phải có các giải pháp sau:
+ Thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hoá đa dạng hoá quan hệ quốc tế.
Đây là điều kiện tiên quyết mở đường cho mọi nguồn vốn đầu tư bên ngoải rót về để
đầu tư phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


Thông qua các mối quan hệ, hoạt động kinh tế thêm phong phú, góp phần khắc
phục những khó khăn to lớn của nền kinh tế nước ta nhằm tạo ra môi trường đầu tư
thuận lợi.
+ Cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông vận tải kho tàng, bến bãi
Nhằm tạo điều kiện vật chất thuận lợi thu hút tối đa các nhà đầu tư các tổ chức kinh tế.
Đẩy mạnh chính sách kinh tế nhiều thành phần, nâng cao trình độ chất lượng của
kinh tế quốc doanh, mở rộng kinh tề tư nhân và gia đình.
ổn định kinh tế, chính trị, có hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp với luật pháp
và thống kê quốc tế. Điều đó tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các quan hệ
kinh tế quốc tế, các hợp đòng với người nước ngoài, làm cho họ yên tâm đầu tư kinh
doanh đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để bảo vệ lợi ích đất nước. Như vậy sẽ thu hút
được nhiều vốn đầu tư hơn.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế tham gia tích cực hơn nữa vào quá trình phân công lao
động trong khu vực và trên thế giới. Thông qua nhiều hoạt động để tranh thủ sự giúp
đỡ của tất cả các chính phủ và nhân dân các nước tạo tiền đề cuốn hút các vốn đầu tư
vào hoạt động.
Bên cạnh đó chúng ta cần phải xây dựng và kiện toàn hệ thống hành chính cơ chế
quản lý các doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
Song song với việc khai thác tối đa các nguồn vốn phục vụ cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là việc sử dụng đồng vốn có hiệu quả tối ưu, chống tham
nhũng lãng phí trong việc sử dụng và coi đó là " tiền chùa "
Qua phân tích những giải pháp trên cho thấy, thông qua công nghiệp hoá, hiện

đại hoá để phát triển đất nước thì không còn cách nào khác là phải sử dụng tối đa các
nội lực sẵn có trong nước và ngoại lực. Quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường
đầy gian nan vì vậy để đạt được tới đích chúng ta phải khắc phục khó khăn, đẩy lùi
nguy cơ tụt hậu, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước sẽ giúp chúng ta có lực mới để
có thể tăng nhanh tốc độ phát triển. Không những thế, do có hiện đại hoá, chúng ta có
điều kiện để đi tắt đón đầu, tăng tốc, chạy tắt, chính là những yếu tố tổng hợp để giải
bài toán đất nước.





















Tài liệu tham khảo


1. Phấn đấu thực hiện nghị quyết đại hội VIII của Đảng - Bài : Đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước (PGS, PTS khoa học kinh tế - Vũ Hiền - NXBCTQG - Hà
Nội)
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa (PGS, PTS Chu
Văn Lập)
3. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, VI, VII, VIII.
4. Kinh tế chính trị học (Trường ĐH Kinh tế quốc dân NXBGD).
5. Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá và cách mạng công nghệ (NXBCTQG -
Hà nội).
6. Tạp chí : Kinh tế 96 - 97 Việt nam và Thế giới (Thời báo kinh tế Việt nam ).
7. Tạp chí cộng sản 7 năm 1996 và 01/01/1997.
8. Tạp chí triết học số 1 tháng 02/1996 và số 5 tháng 10/1996.






























Mục lục


A. Phần mở đầu 1

B. Phần nội dung 2

I. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
2

1. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta
2

2. Tác dụng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá 3

3. Định nghĩa công nghiệp hoá, hiện đại hoá và mối quan hệ 3


II. Quá trình phát triển của công nghiệp hoá ở nước ta
5

1. Trước thời kỳ đổi mới 5

2. Trong và sau thời kỳ đổi mới 5

III. Những thuận lợi, khó khăn khi nước ta tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
6

1. Những khó khăn 6

2. Những thuận lợi 7

IV. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá
8

1. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 8

2. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong những năm
10



của thập kỷ 90
C. Phần kết thúc 12

- Khái quát nội dung đề tài 12


- Một vài ý kiến cá nhân 12



×