Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.61 KB, 61 trang )













LUẬN VĂN:

Giải pháp phát triển nền KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam









Lời mở đầu
Sau một thời gian dài duy trì kinh tế kế hoạch hoá tập trung với mô hình kinh
tế này sau khi làm xong nhiệm vụ lịch sử của nó: tập trung sức mạnh của cả nước vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Khi hoàn thành vai trò lịch sử của
mình, việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung khi lực lượng sản
xuất còn chưa phát triển đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế, triệt tiêu nguồn lực phát


triển kinh tế. Trước tình hình đó Đảng và Nhà nước ta sớm nhận ra sai lầm của mình
đưa nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quá trình đổi mới này được tiến hành
dần dần từng bước. Đến nay sau 15 năm thực hiện đổi mới chúng ta thu được những
thành tựu hết sức quan trọng. Đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định
và tăng trưởng: Từ chỗ phải nhập khẩu lương thực chúng ta đã tiến tới đảm bảo đủ
lương thực và các vật chất sinh hoạt cho đời sống và cả tích lũy cho ngân sách nhà
nước. Bộ mặt đất nước có rất nhiều thay đổi. Những nhân tố thị trường dần được
hình thành đồng bộ và hoạt động có hiệu quả. Sự đổi mới của Đảng và Nhà nước về
phương thức lãnh đạo và điều hành tạo thành một cơ chế điều tiết nền kinh tế thị
trường (KTTT) một cách có hiệu quả, phát huy nội lực kết hợp ngoại lực đưa đất
nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá(CNH- HĐH).
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được nền KTTT định hướng
XHCN của ta còn nhiều hạn chế cần phải nghiên cứu tìm cách giải quyết. Nhằm mục
tiêu xây dựng nền KTTT định hướng XHCN tạo động lực sức mạnh cho sự nghiệp
CNH- HĐH đất nước, đưa nước ta thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những mặt hạn chế của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay
đó là:
Nền kinh tế còn đan xen những yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu
tố thị trường văn minh còn ít hơn là những yếu tố thị trường sơ khai. Mặt khác, trong
xã hội cũng xuất hiện một số nhân tố đi quá xa vượt quá giới hạn của nền KTTTđịnh



hướng XHCN ví dụ như: Những nhân tố của nền kinh tế…, tình trạng thương mại
hóa giáo dục, nhân phẩm.
Trình độ thấp kém chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của KTTT ở nước ta hiện
nay biểu hiện ở chỗ: Giá cả hàng hoá và dich vụ còn bị bóp méo, độc quyền còn qúa
lớn, tỷ giá chưa phải do thị trường quy định; tiền lương chưa có tính thị trường…

Quyền kinh doanh trên thị trường còn hạn chế nên mất khả năng cạnh tranh.
Các loại thị trường còn thiếu và chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao
động, thị trường tiền tệ theo đúng nghĩa của nó.
Các thể chế cho thị trường còn qúa thiếu; không ít những thể chế chưa phù
hợp, thậm chí trái với yêu cầu của KTTT.
Sau sự can thiệp của nhà nước vào thị trường còn chưa thật phù hợp, thậm chí
trái với yêu cầu của thị trường, có tình trạng liên kết với các bộ phận thoái hóa trong
bộ máy nhà nước với những yếu tố tiêu cực của thị trường gây ra như tham nhũng,
nợ nần chồng chất.
Trước những hạn chế và tồn tại nói trên để giải quyết được đòi hỏi chúng ta
cần phải nắm rõ bản chất, những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN
ở nước ta trong điều kiện hiện nay. Căn cứ vào tình hình thực tế để có những giải
pháp đồng bộ thiết thực hiệu quả khắc phục tình trạng trên.
Đề án này xin khẳng định lại tính thiết yếu của việc chuyển sang KTTT định
hướng XHCN ở nước ta, khẳng định con đường phát triển kinh tế của Đảng và Nhà
nước ta đã lựa chọn là đúng đắn. Đồng thời xin nêu ra một số
những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay trên
cơ sở đó đánh giá những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần phải giải quyết
và cũng xin đề xuất một số giải pháp để khắc phục những hạn chế đó. Nhằm đạt
được mục tiêu CNH- HĐH đất nước, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tuy nhiên trong phạm vi đề tài này xin được đề cập tới những vấn đề cơ bản
nhất về nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.



Nội dung
I) Sự cần thiết phải chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước khi chuyển sang nền KTTT định
hướng XHCN phản ánh hậu quả của việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch
hoá tập trung khi đã làm xong vai trò lịch sử của nó là tập trung sức mạnh của dân

tộc trong điều kiện khớ khăn, thiếu thốn đánh thắng kẻ thù xâm lược. Đồng thời cũng
phản ánh những sai lầm của Đảng và Nhà nước ta trong việc cải tạo nền kinh tế ngay
khi đất nước thống nhất.
Trước tình hình nền kinh tế Việt Nam khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng
vào đầu những năm 80, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi mới nền kinh tế, chuyển
dần nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền KTTT định
hướng XHCN.
1) Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước khi chuyển sang nền KTTT
định hướng XHCN.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, chúng ta bước ra khỏi chiến tranh với tư thế của
người chiến thắng. Cả nước bắt tay vào xây dựng XHCN, Đảng và Nhà nước ta vẫn
duy trì mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung trong giai đoạn mới: kiến thiết đất
nước trong hoà bình đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu với
cơ chế quản lý thống nhất, tập trung theo kế hoạch trên cơ sở công hữu về tư liệu sản
xuất.
Trước đổi mới kinh tế (1986) tình hình nền kinh tế nước ta vẫn trong tình
trạng yếu kém.
Cở sở vật chất kỹ thuật vốn dĩ đã lạc hậu lại càng lạc hậu thêm do nhiều năm
không được đổi mới. Kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất nghèo nàn lạc hậu.
Bức tranh nền kinh tế Việt Nam 10 năm (1976-1985) trước đổi mới là: mức
tăng trưởng thấp (3. 7%/ năm), làm không đủ ăn và nhờ vào viện trợ nước ngoài



ngày càng lớn. Thu nhập quốc dân trong nước chỉ đáp ứng được 80%-90% thu nhập
quốc dân sử dụng (Năm 1976:78. 5%, năm 1985:69. 8%).
Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ các nguồn viện trợ cho vay từ bên ngoài chiếm
10. 2% thu nhập quốc dân sử dụng. Tính chung 5 năm (1981-1985) nguồn thu nước
ngoài chiếm 22. 4% thu ngân sách, 28. 9% thu trong nước và 18. 5% tổng thu ngân
sách, nợ nước ngoài 8. 5 tỷ rúp và 1. 9 tỷ USD. Điều đáng chú ý là nợ nần chồng

chất nhưng bội chi ngân sách vẫn rất lớn và tăng dần. Năm 1980 18. 1%, năm 1980
36. 6%, buộc phải bù đắp bằng phát hành tiền.
Cũng vào năm đó, những sai lầm trong việc cải cách giá cả, tiền lương đã làm
cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng siêu lạm phát ở mức 774% năm
1986 kéo theo giá leo thang và vô phương kiểm soát.
Cơ cấu kinh tế mất cân đối và kém hiệu quả.
Trước đổi mới kinh tế Việt Nam chủ yếu là nước nông nghiệp. Công nghiệp
và dịch vụ chiếm chưa đến 50% GDP.
Đầu tư vào công nghiệp nặng quá nhiều, công nghiệp nhẹ không được quan
tâm đúng mức dẫn đến hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng trở nên khan hiếm, giá cả
tăng vọt làm cho mặt trận lưu thông rối ren.
Đầu tư của Nhà nước dàn trải kém hiệu qủa. Các dự án đầu tư của Nhà nước
tập trung vào các công trình công nghiệp nặng hoặc vào những công trình xây dựng
kết cấu hạ tầng quy mô lớn vượt quá khả năng của nền kinh tế quốc dân, trình độ
khoa học còn lạc hậu dẫn đến các công trình dở dang kéo dài gây lãng phí rất lớn.
Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó.
Một thời gian dài ở nước ta đã tồn tại quan điểm cho rằng những tư liệu sản
xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là những hàng hoá đặc biệt.
Nó không được mua bán một cách tự do và sở dĩ như vậy vì vai trò



đặc biệt quan trọng của những tư liệu sản xuất. Nếu tư liệu sản xuất rơi vào tay tư
nhân thì nó trở thành phương tiện nô dịch lao động của người khác. Sức lao động,
tiền vốn cũng được quan niệm không phải là hàng hóa…Mặt khác, do quản lý theo
chiều dọc, theo chức năng kinh doanh của từng ngành (công nghiệp, nông nghiệp,
vận tải…) một cách máy móc, cho nên đã dẫn tới các hiện tượng cửa quyền, cắt đứt
mối liên hệ tự nhiên giữa các ngành dẫn tới thị trường bị chia cắt và manh mún.
Năng suất lao động thấp, thu nhập quốc dân đầu người thấp.
Do cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, cơ chế quản lý cũ làm triệt tiêu mất động

lực sản xuất. Kết cấu hạ tầng dịch vụ kém phát triển dẫn đến năng suất lao động thấp
và thu nhập bình quân đầu người của nước những năm trước rất thấp. Đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn.
Trước tình trạng lạc hậu, khủng hoảng, suy thoái của nền kinh tế Việt Nam
trên đây vào những năm (1976 – 1985) đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận lại mô hình
kinh tế kế hoạch hoá tập trung mà chúng ta đang áp dụng. Đánh giá một cách xác
đáng những tác dụng và hạn chế của nó từ đó rút ra kết luận xem nó còn phù hợp với
điều kiện nước ta nữa hay không. Và để nước ta thoát khỏi tình trạng trên thì cần
phải có những giải pháp gì?
2) Kinh tế kế hoạch hoá tập trung và những hậu quả của nó
Để đánh giá những ưu điểm và khuyết tật của mô hình kinh tế kế hoạch hoá
tập trung- mô hình kinh tế đã được áp dụng ở các nước XHCN trước đây chúng ta đi
vào tìm hiểu nó một cách tổng quát và những đặc trưng cơ bản của nó.
2. 1) Kinh tế kế hoạch hoá tập trung là gì?
Kinh tế kế hoạch hóa tập trung là kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó việc
điều tiết và vận hành nền kinh tế chủ yếu thông qua các quyết định tập trung của
Chính phủ.
2. 2) Các đặc trưng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung.



Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung – cơ chế được áp dụng trong một thời
gian dài ở nước ta trước đổi mới cũng như ở các nước XHCN trước đây mang những
đặc trưng sau:
Một là: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu
với một hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các nhiệm vụ
kinh tế được chi tiết hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu, pháp lệnh, kế hoạch thống
nhất ở các cơ quan trung ương trước khi nó được giao cho các bộ phận thực hiện.
Các bộ phận trong nền kinh tế phải được thực hiện đúng như kế hoạch được giao. Do
đó hoạt động của các doanh nghiệp phải dựa vào các chỉ tiêu pháp lệnh hoặc các quy

định của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên.
Trong cơ chế quản lý này việc lựa chọn ba vấn đề cơ bản: sản xuất ra cái gì?
sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai?, đều do nhà nước thực hiện. Nhà nước giao
chỉ tiêu pháp lệnh cho các ngành, các địa phương và cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhà
nước kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất, để thực hiện được điều đó nhà
nước tiến hành quốc hữu hóa, tập thể hóa, xoá bỏ tư nhân, kiểm soát giá, tiền lương.
Nhà nước cấp phát vốn và vật tư cho các ngành, các địa phương và cơ sở để thực
hiện nhiệm vụ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phải giao nộp sản phẩm và tích lũy cho
Nhà nước theo các chỉ tiêu pháp lệnh. Dựa trên nguồn sản phẩm được sản xuất ra,
Nhà nước tiến hành phân phối theo các chỉ tiêu đã được quy định sẵn.
Như vậy tất cả các khâu trong nền kinh tế đều được vạch kế hoạch một cách
thống nhất và chi tiết. Các bộ phận trong nền kinh tế cứ như thế mà thực hiện.
Hai là: Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng không chịu trách nhiệm gì về mặt vật
chất đối với các quyết định của mình.
Các cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất của
các doanh nghiệp còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc vừa ỷ lại vào cấp trên. Sản
xuất kinh doanh được tiến hành như khu vực hành chính sự nghiệp hay hậu cần quân
đội. Các khâu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bộ máy tổ



chức quản lý đều lệ thuộc vào các quyết định của cơ quan hành chính kinh tế. Kết
qủa hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ra sao đều được giao cho Nhà
nước. Các cơ quan ra quyết định không phải chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với
các quyết định của mình.
Ba là: Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bỏ qua các quan hệ hàng hóa tiền
tệ và hiệu qủa kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế cơ cấp phát và
giao nộp sản phẩm, quan hệ sản phẩm là chủ yếu. Do đó hoạch toán kinh tế chỉ là
hình thức.

Chế độ bao cấp được thực hiện dưới nhiều hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp
qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân
sách Nhà nước, mà không ràng buộc đối với người được cấp phát vốn.
Như vậy.
Nhà nước thực hiện chế độ phân phối bằng hiện vật cho các cơ quan nhà
nước, cùng chế độ tem phiếu phân phối cho người tiêu dùng. Do đó, người tiêu dùng
không được quyền lựa chọn, phải tiêu dùng cái mà Nhà nước có chứ không được tiêu
dùng cái mà mình cần.
Thực hiện chế độ bao cấp về giá để tiến hành phân phối cho sản xuất và tiêu
dùng làm xuất hiện nhưngx nhu cầu giả tạo, thừa thiếu hàng hóa và dịch vụ…
Bốn là: Xuất phát từ ba đặc điểm trên dẫn đến bộ máy quản lý Nhà nước rất
cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán
bộ kém năng lực quản lý, không thạo nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách thì
quan liêu, cửa quyền.
Để đảm bảo cho việc vạch kế hoạch chi tiết cho nền kinh tế và đảm bảo cho
các chỉ tiêu kế hoạch được thực hiện một cách thống nhất cũng như để tập trung mọi
nguồn lực đầu vào, đầu ra của sản xuất trong tay Nhà nước đòi hỏi phải có một bộ
máy quản lý khổng lồ qua nhiều cấp trung gian. Mặt khác, nó lại hoạt động theo cơ
chế mệnh lệnh cứng nhắc tạo ra một sức ỳ lớn, kém năng động và linh hoạt, tạo cho



người làm việc trong bộ máy ấy một phong cách quan liêu, cửa quyền, kém năng
động.
Bên cạnh những ưu điểm như: quản lý được tập trung thống nhất toàn bộ nền
kinh tế quốc dân và giải quyết được các nhu cầu công cộng của xã hội, đảm bảo phúc
lợi xã hội, giải quyết được vấn đề an ninh và các vấn đề xã hội, tập trung các nguồn
lực để giải quyết các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân. Cơ chế này cũng góp
phần tập trung sức mạnh của toàn dân tộc tạo ra một nguồn lực vô cùng to lớn giúp
cho dân tộc ta giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại.

Mặc dầu vậy, cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung cũng để lại hậu hết sức
lớn, do các nhược điểm vốn có của nó sau khi đã làm xong vai trò lịch sử ở nước ta.
Hậu quả của nó thể hiện như sau:
Một là: Các quy luật kinh tế khách quan bị coi thường.
Do hoạt động quản lý nền kinh tế đều dựa trên hệ thống chỉ tiêu, kế hoạch đã
được vạch sẵn mà không dựa trên cơ sở các quy luật kinh tế khach quan như: quy
luật cung cầu, cạnh tranh, quy luật giá trị. Việc sản xuất kinh doanh, giá cả hàng hoá
và dịch vụ được phân phối theo quy định của Nhà nước mà không theo quy luật kinh
tế khách quan tất yếu sẽ dẫn tới khủng hoảng.
Hai là: Do quy luật kinh tế khách quan bị coi thường quan hệ hàng hoá tiền tệ
bị thay thế bằng quan hệ hiện vật, giá cả hàng hoá gần như không liên quan gì đến
giá trị cũng như tương quan cung cầu, mọi tính toán đều trở nên sai lệch cả. Do đó
mà không có tiêu chuẩn khách quan để đánh giá kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong quan hệ phân phối và phân phối lại, sự phân phối thu nhập không dựa trên các
nhân tố kích thích được xác định thông qua thị trường mà dựa trên định mức, quy
định, đánh giá sự cống hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí quyền
lực của nó trong hệ thống phân phối và phân phối lại. Do đó nó làm triệt tiêu động
lực của sự phát triển kinh tế, thậm chí còn gây ra tác động như khuyến khích sự ỷ lại,



dựa dẫm, lười biếng gây thiệt hại cho những người tích cực, tạo mội trường lãng phí
thất thoát tài sản quốc gia. Cản trở đổi mới khoa học kĩ thuật cho sản xuất, làm triệt
tiêu tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế.
Ba là: Kìm hãm sự phát triển kinh tế, đồng thời gây ra nhiều hiện tượng tiêu
cực trong xã hội.
Việc phân phối các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất thông qua mệnh lệnh, chỉ
tiêu kế hoạch mà không căn cứ vào yêu cầu của thị trường dẫn đến sử dụng lãng phí
các nguồn lực của sản xuất, kìm hãm sự phát triển kinh tế. Sự điều tiết kinh tế bằng

mệnh lệch được thực hiện bởi bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém hiệu quả, làm cho
nền kinh tế rơi vào khủng hoảng mất tính linh hoạt.
Trước hậu quả của cơ chế kế hoạch, tập trung đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải
nhanh chóng tiến hành đổi mới kinh tế đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng.
Từ những phân tích trên, cho thấy việc chuyển nền kinh tế ra khỏi mô hình kinh tế kế
hoạch hoá tập trung là tất yếu khách quan.
Mục tiêu của dân tộc ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Để xây dựng được chủ nghĩa xã
hội chúng ta phải xây dựng được cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Quá trình này
là một quá trình lâu dài rất khó khăn và phức tạp.
Đặc biệt, trong điều kiện đất nước ta phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chủ nghĩa tư bản. Mục tiêu của thời kì quá độ là xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước thoát
khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Để thực hiện mục tiêu này, trước đây do sai lầm,
chủ quan, nóng vội, chậm đổi mới, chúng ta chủ trương phát triển kinh tế theo mô
hình kế hoạch tập trung, xoá bỏ hết mọi quan hệ sản xuất phi XHCN khi chúng vẫn
còn vai trò lịch sử là thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất trong một quốc gia
còn lạc hậu như nước ta. Chính những sai lầm đó đã kìm hãm sự phát triển của kinh
tế đất nước.



Vấn đề đặt ra là phải xem xét đánh giá lại quá trình quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ
TBCN. Tìm ra mô hình kinh tế thích hợp để đạt được những mục tiêu của thời kì quá
độ.
Chúng ta đã nhìn thấy KTTT với những tính năng ưu việt và những khuyết tật
vốn có của nó có thể giúp chúng ta phát triển lực lượng sản xuất như nó đã làm với
các nước TBCN. Nhưng mục tiêu của chúng ta lại là CNXH. Do đó chúng ta cần
phải có sự nhận thức đúng đắn về nó để vận dụng nó một cách hợp lý sao cho vẫn
đạt được mục tiêu phảt triển kinh tế đồng thời cũng giữ vững được định hướng

XHCN.

3) Lý luận chung về KTTT.
3. 1) Khái niệm về KTTT.
KTTT là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó 3 vấn đề kinh tế cơ bản
là sản xuất cái gì ? như thế nào ? và cho ai ? do thị trường quyết định. Trong nền
kinh tế hàng hoá (KTHH) có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó hoạt
động như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh… và lợi nhuận là động lực
chủ yếu của sự vận động của nó. Các quy luật đó đều biểu hiện tác động của mình
thông qua thị trường, thông qua sự vận động của giá cả thị trường. Nhờ sự vận động
của giá cả thị trường dẫn đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu nhu cầu
của xã hội.
3. 2) Các đặc trưng của KTTT.
Một là:Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao.
Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm với kết
quả sản xuất kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên
doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan
trọng của KTTT. Đặc trưng này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc



tồn tại kinh tế hàng hoá. Đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của nền
kinh tế hàng hoá. KTHH không bao dung hành vi bao cấp.
Các vấn đề có liên quan đến việc phân bố sử dụng các nguồn tài nguyên sản
xuất khan hiếm như lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên về cơ bản được quyết định
một cách khách quan thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy
luật cung cầu.
Hai là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là
sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu tác động của quan hệ cạnh
tranh và quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ. Giá cả là sự thỏa thuận giữa người

mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hang hoá.
Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá, người bán luôn muốn bán với giá cao,
người mua lại luôn muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải bù đắp
được chi phí và có doanh lợi. Chi phí sản xuất là dưới hạn dưới, là phần cứng của giá
cả, còn doanh lợi thì càng nhiều càng tốt. Đối với người mua, giá cả phải phù hợp
với ích lợi giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà được ích lợi của cả người mua
lẫn người bán.
Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, đặc biệt là sự linh hoạt của hệ
thống giả cả, nền KTTT luôn duy trì được sự cân bằng giữa sức cung và sức
cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, ít khi gây ra sự thiếu thốn và khan
hiếm hàng hoá.
Ba là: Thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua bán hàng hoá.
Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của
KTTT so với kinh tế tự nhiên. Sự đa dạng và phong phú về chủng loại những hàng
hoá trên thị trường, một mặt phản ánh trình độ cao của năng suất lao động xã hội,
mặt khác cũng nói lên tốc độ phát triển của quan hệ trao đổi, trình độ phân công lao
động xã hội và sự phát triển của thị trường. Những ưu thế của KTTT phản ánh sự
phát triển của khoa học- kĩ thuật và công nghệ, tựu trung lại phản ánh trình độ cao
của lực lượng sản xuất xã hội.



Bốn là: Cạnh tranh là một yếu tố tất yếu của KTTT.
Cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà sản xuất kinh doanh trên thị
trường cạnh tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách
hàng về phía mình.
Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập khác nhau về lợi
ích kinh tế. Theo yêu cầu của quy luật giá trị, tất cả các đơn vị sản xuất và kinh
doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong điều kiện muốn có nhiều
lợi nhuận, các đơn vị phải đua nhau cải tiến kĩ thuật, áp dụng nhiều kĩ thuật mới vào

sản xuât để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm chi phí lao động cá biệt, nhằm
thu lợi nhuận siêu ngạch.
Trong nền KTTT cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong lĩnh vực sản
xuất, trong lĩnh vực lưu thông. Hình thức và các biện pháp của cạnh tranh có thể rất
phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng của cạnh tranh chính là lợi nhuận.
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của cơ chế thị trường. Nó có vai
trò rất quan trọng trong nền KTTT. Ngày nay hầu như tất cả các nước trên thế giới
đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh không những là động lực của sự phát
triển mà còn là yếu tố quan trọng trong việc làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Năm là: KTTT là một hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng và phức tạp,được
điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước.
Trong nền KTTT,việc mở rộng thị trường,mở rộng phạm vi cạnh tranh, mở
rộng mạng lưới phân công lao động quốc tế và tăng cường sự hợp tác,cạnh tranh và
phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, tuỳ
thuộc vào đặc điểm kinh tế- chính trị- xã hội ở mỗi quốc gia, mô hình KTTT mà
quốc gia lựa chọn mà KTTT được điều tiết ở mỗi mức độ và cách thức khác nhau
thông qua hệ thống luật pháp và hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Từ việc phân tích những đặc trưng tên của KTTT ta thấy KTTT có rất nhiều
ưa điểm,là mô hình tốt nhất để phát triển kinh tế hiện nay. Tuy nhiên KTTT không



phải là chìa khoá vạn năng của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó vẫn chứa
đựng trong đó những khuyết tật nhất định.
3. 3) Ưu điểm và khuyết tật của KTTT.
3. 3. 1) KTTT có những ưu điểm sau đây.
Trước hết,kích thích hoạt động sản xuất của các chủ thể kinh tế và tạo điều
kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng
động,huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế một cách hiệu
quả nhất.

Hai là: Cơ chế thị trường kích thích đổi mới,đẩy mạnh sự phát triển của khoa
học kỹ thuật,công nghệ,nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nâng
cao trình độ xã hội hoá sản xuất.
KTTT lấy lợi nhuận siêu nghạch làm động lực hoạt động . Động lực này đòi
hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt xuống thấp
hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao
động trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa học- công nghệ mới nhất. Do đó cơ
chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất,tăng trưởng kinh tế cả chiều
rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyên môn hoá sản xuất.
Ba là: Cơ chế thị trường phân phối các nguồn lực một cách tối ưu.
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bảncủa KTTT. Cơ chế thị trường chỉ thể
hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền KTTT được kiểm
soát bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới sự phân bố và sử dụng hiệu qủa nhất các yếu
tố đầu vào của sản xuất và đầu ra.
Bốn là:KTTT tạo điều kiện để thoả mãn nhu cầu ngày càng phong phú đa
dạng của xã hội một cách tốt nhất.
Trong nền KTTT, các nhà sản xuất kinh doanh căn cứ vào nhu cầu của người tiêu
dùng trên thị trường để xác định mặt hàng mà mình cần sản xuất. Sự tác động của cơ



chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất
với khối lượng và cơ cấu của nhu cầu xã hội. Nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng của cá nhân và của sản xuất về hành ngàn,hàng vạn sản phẩm khác nhau.
Năm là: Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo tạo khả năng thích nghi
cao cho nền kinh tế. Sở dĩ như vậy là,trong nền KTTT tồn taị một nguyên tắc ai đưa
ra thị trường một hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được nhiều lợi nhuận nhất.
Điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thường xuyên và đổi mới thường xuyên.
Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nướcvà có khả năng thích nghi cao hơn
khi có những điều kiện kinh tế thay đổi.

Bên cạnh những mặt tích cực trên KTTT chứa đựng rất nhiều hạn chế những
mặt tiêu cực.
3. 3. 2)KTTTcó những khuyết tật như:
Một nền kinh tế do thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm,
khủng hoảng kinh tế có tính chu kì.
Khủng hoảng sản xuất thừa là ‘ căn bệnh cố hữu của các nền KTTT phát triển.
ở đây do mức cung hàng hoá vượt quá mức cầu có khả năng thanh toán, cho nên dẫn
tới tình trạng dư thừa hàng hoá’.
Trong nền KTTT mục đích hoạt động của các chủ thể kinh tế là tối đa hoá lợi
nhuận và chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả
xấu: môi trường bị ô nhiễm, lạm dụng tài nguyên, tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh, phá sản thất nghiệp, phân hoá xã hội cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn
đề công bằng xã hội không được đảm bảo, tệ nạn xã hội gia tăng, thậm chí có người
làm ăn bất hợp pháp, trốn thuế, làm hàng giả. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các nhà
sản xuất kinh doanh không chịu làm những ngành nghề ít lợi nhuận, số vốn đầu tư
lơn, thu hồi vốn chậm nhưng lại rất cần thiết cho sự phát triển của kinh tế -xã hội.



KTTT làm cho con người trở nên năng động, sáng tạo nhưng cũng ra cho con
người tâm lý sùng bái đồng tiền, chạy theo lợi nhuận và quên đi những giá trị đạo
đức, tình cảm tốt đẹp.
Qua sự phân tích trên ta thấy nền KTTT có khả năng tập hợp tự động hành
động, trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và hướng đến lợi ích chung của xã
hội: đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả sản
xuất.
Phát triển KTTT có vai trò quan trọng đối với nước ta muốn chuyển từ nền
kinh tế còn kém phát triển lên sản xuất lớn XHCN thì không còn con đường nào khác
là phải phát triển KTTT. Phát triển KTTT được coi là chiếc đòn xeo để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, là phương tiện khách quan để xã hội hoá XHCN nền sản xuất.

Tuy vấn đề đặt ra là phải có sự can thiệp của Chính phủ để hạn chế những tác
động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Việc xây dựng mô hình KTTT có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước được
áp dụng ở hầu hết các nước trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên mỗi nước
xây dựng cho mình một mô hình riêng phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế – chính trị -xã
hội và mục tiêu của mỗi nước. Như nước Đức có mô hinh: KTTT hỗn hợp, ở Trung
Quốc có mô hình mang màu sắc Trung Quốc…Sự can thiệp của Nhà nước vào nền
KTTT ở mỗi mô hình đó ở những mức độ khác nhau và nhằm vào những mục tiêu
không giống nhau.
Mô hình kinh tế là trạng thái cấu trúc của nền kinh tế quốc dân. Nó thể hiện
những đặc trưng, tính chất, mối quan hệ giữa các ngành, các vùng, các hình thức
kinh tế, giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất của đất nước trong một thời kì
nhất định.
Mô hình kinh tế bị chi phối bởi các yếu tố: bản chất của chế độ xã hội, bản sắc
và truyền thống dân tộc, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, lợi thế so



sánh quốc gia, trình độ hợp tác quốc tế và xu thế phát triển kinh tế – xã hội của thời
đại.
Mục tiêu của toàn Đảng, toàn đân ta là xây dựng cnxh ở nước ta vì mục tiêu
dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chiến lược phát triển kinh
tế -xã hội của đất nứơc ta là CNH- HĐH đất nước xây dựng cơ sở vật chất của
CNXH.
Chính những nhân tố trên quy định tính tất yếu phải lựa chọn và xây dựng mô
hình KTTT định hướng XHCN ở VN.
Tong đó KTTT chỉ là con đường là phương tiện để thực các mục tiêu
củaCNXH,CNXH không chỉ phấn đấu đạt mức phát triển cao về kinh tế mà điều
quan trọng là thực hiện công bằng xã hội,hơn nữa là bình đẳng xã hội.
3. 4) Các nội dung cơ bản của KTTTđịnh hướng XHCN ở VN.

Mô hình KTTTđịnh hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng có những nội
dung chính sau:
Một là: Các hình thức và phương pháp quản lý nền KTTT được sử dụng như
là một công cụ,phương tiện để đạt tới nền kinh tế tăng trưởng cao,bền vững ổn
định,nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ
văn minh. Đồng thời với việc khai thác triệt để những mặt tích cực,những lợi thế
KTTT,chúng ta khắc phục ngăn ngừa những hạn chế,nhứng mặt tiêu cực của KTTT
mâu thuẫn với bản chất của CNXH saocho phát triển trong công bằng và bền vững.
Vận dụng các quy luật của thị trường để kiên trì thực hiện công bằng xã hội để phát
triển toàn diện con người.
Hai là: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó các thành phần
kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể làm nền tảng,làm cho kinh tế nhà
nước phát triển về chất để nắm vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
vận hành thao cơ chế thị trường định hướng XHCN ở VN. Đây là nhân tố quan trọng
đảm bảo định hướng XHCN cho nền kinh tế.



Ba là: Đối với việc phát triển lực lượng sản xuất,nền sản xuất xã hội được dựa
trên cơ sở khoa học công nghệ hiện đại,đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các
nghành,các vùng trong cả nước,có cơ cấu kinh tế hợp lý để hội nhập với nền kinh tế
thế giới và khu vực.
Bốn là: Thực hiện nhiều hình thức phân phối. Trong đó hình thức phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,đi đôi với chính sách điều tiết
thu nhập một cách hợp lý,nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo một cách hợp lý,vừa
khuyến khích lao động,vừa đảm bảo phúc lợi xã hội cơ bản.
Năm là: mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế,bình đẳng hợp tác với tất cả các
nước trên thế giới,trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,bình
đẳng,cùng có lợi .
Nền kinh tế dặt dưới sự lãnh đạo của đảng và Nhà nước theo định hướng

XHCN nhằm khắc phục tất cả những thất bại của thị trường. Nhà nước đó phải là
một Nhà nước pháp quyền thực sự của dân do dân và vì dân.
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta có những đặc điểm riêng biệt bị chi
phối bởi điều kiện kinh tế - chính trị -xã hội của nước ta.
Đi tìm hiểu những đặc trưng đó giúp chúng ta phát triển nền KTTT định
hướng XHCN một cách hợp lý phù hợp với điều kiện của đất nước. Đảm bảo thực
hiện các mục tiêu đặt ra.
II) Những đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở VN.
1)Lực lượng sản xuất đã phát triển hơn trước đây nhưng vẫn còn ở trình độ kém phát
triển.
Trước khi chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN,nền kinh tế nước ta ở
trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Quá trình chuyển đổi này đã đem lại bước
phát triển mới cho lực lượng sản xuất của nước ta. Chúng ta dần thoát ra khỏi tình
trạng nghèo nàn lạc hậu,chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn. Quy mô của nền
KTQD đã tăng lên đáng kể. Cơ cấu kinh tế đã dần hợp lý hơn, cơ sở vật chất, cơ sở



hạ tầng được nâng cao,khoa học công nghệ cũng có những bước tiến mới. Năng suất
lao động được nâng cao,người lao động cũng dần xoá bỏ được tác phong nông
nghiệp hình thành tác phong công nghiệp. Từ chỗ phải nhập khẩu gạo năm
1988,hiện nay nước ta đã vươn lên thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế
giới. Trong 10 năm qua chúng ta đã đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế trên 7%
mỗi năm. Cơ cấu kinh tế có những bước chuyển dịch đáng chú ý,tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng năm 1990 là 22,6% tăng lên 36,6% năm 2000.
Tuy vậy lực lượng sản xuất của nước ta còn đang trong tình trạng kém phát
triển, cở sở vật chất, kỹ thuật,công nghệ còn ở trình độ thấp, lạc hậu. Trừ một số cơ
sở được trang bị kỹ thuật hiện đại, trong nhiều nghành kinh tế máy móc cũ kỹ công
nghệ lạc hậu. Hiện nay theo đánh giá của nhiều nhà chuyên môn máy móc thiết bị
của VN lạc hậu so với thế giới từ 2- 3 thế hệ thậm chí từ 4-5 thế hệ, công nghệ hiện

đại chỉ chiếm khoảng 10%-15%.
Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động. Nền kinh tế
mới chỉ dừng lại ở mức độ khai thác tài nguyên và nguồn lao động dồi dào, những
nghành công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn còn nhỏ bé. Kết cấu
hạ tầng còn kém phát triển. Kết cấu hạ tầng như đường giao thông, bến cảng,
hệ thống thông tin liên lạc còn kém phát triển. Mật độ đường giao thông của chúng ta
bằng 1% mức trung bình của thế giới, tốc độ truyền thông của ta chậm gấp 30 lần so
với thế giới.
Do cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ kém phát triển nên phân công lao
động xã hội còn kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm,
nền kinh tế vẫn chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ
Công ngiệp VN đã được đầu tư khá lớn nhưng hiệu quả còn thấp, nhiều xí
nghiệp quốc doanh làm thua lỗ kéo dài nên phần đóng góp của nó trong GDP còn
thấp nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế mới chỉ
thích ứng với giai đoạn chuẩn bị đi vào công nghiệp hoá.



Do cơ sở vật chất, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp làm cho khối
lượng sản phẩm luân chuyển trên thị trường nhỏ bé, chủng loại hàng hoá nghèo nàn
lạc hậu, chất lượng thấp, giá cả cao, mức cạnh tranh còn yếu, có những mặt hàng bỏ
mặc cho hàng nước ngoài chiếm lĩnh thị trường như đồ điện gia dụng, động cơ nổ
loại nhỏ, tivi… Do năng suất lao động thấp cho nên mức tiêu dùng của xã hội chiếm
phần lớn GDP, do vậy tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp. Năm 2000 cao nhất
nước đạt 27% GDP.
Lực lượng lao động của nước ta có trình độ tay nghề còn thấp, cơ cấu ngành
nghề chưa hợp lý. Đặc biệt đội ngũ cán bộ, các nhà quản lý giỏi còn quá ít.
Trước tình trạng kém phát triển của lực lượng sản xuất trên đòi hỏi chúng ta
phải có những giải pháp thích hợp để phát triển lực lượng sản xuất. Đây là một trong
những nội dung quan trọng của việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN.

2) Nền kinh tế dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu
Nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
Trong nền KTTT ở nước ta tồn tại ba loại hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình thức sở hữu cơ bản trên
hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.
Do yêu cầu của quy luật khách quan của phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta
phải phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Tức là phải đa dạng hoá
các hình thức sở hữu.
Thực tiễn của quá trình đổi mới ở nước ta đã khẳng định tính đúng đắn của
chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN (gọi tắt là KTTT định hướng
XHCN). Các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế đều có những vai trò và ý nghĩa
nhất định đối với sự phát triển kinh tế- xã hội. Điều đó được thể hiện như sau:




2. 1. 1) Đối với sở hữu toàn dân hay sở hữu nhà nước.
Sở hữu toàn dân là hình thức sở hữu chung của toàn xã hội. Đối tượng sở hữu
là của chung của toàn xã hội và mọi người cùng chiếm hữu.
Tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: đất đai, núi rừng, sông hồ, nguồn
nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi của vùng biển, thềm lục địa, vùng trời,
phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các
ngành, lĩnh vực kinh tế - văn hoá- xã hội, khoa học- kĩ thuật, ngoại giao, quốc phòng
– an ninh. Nhà nước đại diện của chủ sở hữu, Chính phủ thống nhất quản lý và đảm
bảo sử dụng đúng mục đích và hiệu quả, tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
Sở hữu toàn dân nắm vai trò chủ đạo trong cơ cấu sở hữu ở nước ta. Nó là cơ
sở cho sự hình thành kinh tế Nhà nước.
2. 1. 2) Đối với sở hữu tập thể.

Là hình thức sở hữu của hợp tác xã do cá nhân, hộ gia đình góp vốn, góp sức
hợp tác sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện mục đích chung được quy định trong
điều lệ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, dân chủ cùng quản lý và cùng hưởng
lợi.
Sở hữu tập thể là cơ sở cho sự hình thành kinh tế hợp tác. Hợp tác xã là nhu
cầu thiết thân của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hoá. Trong điều kiện
của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản
phẩm…đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và
phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết người lao động lại với nhau và làm nảy sinh
quan hệ sở hữu tập thể.
2. 1. 3) Đối với sở hữu tư nhân.
Là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình.
Sở hữu tư nhân bao gồm:
- Sở hữu cá nhân.



- Sở hữu tiểu chủ.
- Sở hữu tư bản tư nhân.
Sở hữu tư nhân là cơ sở cho sự hình thành kinh tế tư nhân như: kinh tế cá thể
tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sở hữu tư bản tư nhân
bao gồm cả doanh nghiệp của các nhà tư sản và các đơn vị kinh tế mà phần lớn vốn
do một vài, một số tư nhân góp vốn lại, thuê lao động, sản xuất kinh doanh dưới hình
thức xí nghiệp tư doanh hoặc công ty cổ phần tư nhân.
Nó cũng bao gồm cả hình thức kinh tế tư bản tư nhân nước ngoài đầu tư 100% vốn,
hoặc nắm giữ tỷ lệ vốn khống chế.
Mặc dù còn một số ý kiến khác nhau nhưng thực tiễn cho thấy khó thay thế
sở hữu tư nhân bằng một động lực khác có hiệu quả hơn hoặc bằng nó trong phát
triển kinh tế.

2. 1. 4) Đối với sở hữu hỗn hợp.
Sở hữu hỗn hợp là sở hữu đối với các tài sản do các chủ sở hữu thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh và thu lợi nhuận.
Sở hữu hỗn hợp tồn tại dưới các hình thức:
- Hỗn hợp liên doanh giữa kinh tế Nhà nước với KTTB tư nhân trong và ngoài
nước.
- Các công ty cổ phần vốn Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, nhân
dân góp vào.
Trong hình thức sở hữu hỗn hợp mà nòng cốt là thành phần KTTB Nhà nước,
còn tồn tại các thành phần kinh tế tư nhân tự cấp, tự túc, kinh tế cá thể tiểu chủ trong
các khu vực kinh tế còn lạc hậu, sản xuất hàng hoá chậm phát triển. Các thành phần



kinh tế trong sở hữu hỗn hợp có mối quan hệ nội tại và tác động qua lại với nhau, nó
là kết cấu của công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế theo định hướng XHCN.
Các hình thức sở hữu này có mối quan hệ vừa cạnh tranh vừa hợp tác lẫn nhau
tạo nên cơ sở kinh tế của KTTT, trong sự vận động quá độ phát triển theo định
hướng mục tiêu “ dân giầu, nước mạnh” và “ xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” ở
nước ta.
Đa dạng hoá chế độ sở hữu là một nội dung trọng yếu của qúa trình chuyển
đổi, nó quyết định mức độ hoạt động của KTTT ở nước ta.
Trên cơ sở các hình thức sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh
tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng.
Đại hội Đảng VIII đã xác định nước ta có 5 thành phần kinh tế:Kinh tế Nhà
nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể
tiểu chủ.
Xuất phát từ tình hình thực tế những năm gần đây, Đại hội Đảng IX quyết
định bổ sung thêm một thành phần kinh tế nữa là kinh tế đầu tư nước ngoài.
Như vậy, hiện nay ở nước ta có các thành phần kinh tế như sau: Kinh tế Nhà

nước, kinh tế TBTN, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ,
kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài. Các thành phần kinh tế này có thể có các hình
thức sản xuất kinh doanh đan xen, hỗn hợp vừa hợp tác vừa cạnh tranh trong cùng
một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Tất cả các thành phần kinh tế đều là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, trong đó kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc.
Lý do bổ sung thêm thành phần kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài là vì thực
tế trong những năm gần đây bộ phận đầu tư kinh doanh của nước ngoài chiếm tỷ
trọng ngày càng tăng, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta.



Chúng ta hay xem xét từng thành phần kinh tế và vai trò của nó trong nền
KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
2. 2) Các thành phần kinh tế và vai trò của nó trong nền KTTT định hướng XHCN ở
Việt Nam.
2. 2. 1) Thành phần kinh tế nhà nước (KTNN).
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu Nhà nước về tư liệu
sản xuất việc tổ chức sản xuất kinh doanhđược tiến hành theo chế độ hoạch toán kinh
tế, thực hiện phân phối theo lao động.
Kinh tế Nhà nước bao gồm các hình thức:
- Các doanh nghiệp Nhà nước: Các doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà
nước và các doanh nghiệp cổ phần trong đó vốn Nhà nước chiếm tỷ trọng chi phối.
- Các tổ chức kinh tế của Nhà nước: Hệ thống ngân sách, ngân hàng, bảo
hiểm, lực lượng dự trữ quốc gia.
- Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân: Đất đai, tài nguyên mà Nhà nước nhận
được lợi ích kinh tế do quyền sở hữu mang lại.
Trong cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo vì:mỗi chế độ xã hội đều dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định. Nền kinh

tế nước ta phát triển theo định hướng XHCN. Vì vậy KTNN phải giữ vai trò chủ đạo
để tạo dần cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới. Bên cạnh đó KTNN đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến.
Vai trò chủ đạo của KTNN thể hiện ở những mặt sau:
Kinh tế Nhà nước nắm giữ những ngành chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh
tế quốc doanh như: Điện lực, bưu chính viễn thông, quốc phòng- anh ninh, giao
thông vận tải… KTNN đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả. Nhờ đó thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thành phần KTNN hỗ trợ các thành phần
kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Đại hội Đảng thứ VIII đã chỉ rõ: vai



trò chủ đạo của KTNN ở chỗ: “ Làm đòn bẩy tăng nhanh tăng trưởng kinh tế và giải
quyết những vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn hỗ trợ cho các thành phần kinh tế
khác cùng phát triển làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng và
nhiệm vụ điều tiết quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới…” KTNN và
kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, KTNN vẫn chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt, sự chủ đạo của nó
đối với nền kinh tế quốc dân khi tác động đến các thành phần kinh tế khác. KTNN
vừa phải phát huy tính hơn hẳn của mình trong sự định hướng, điều tiết các thành
phần kinh tế khác vừa khơi dậy tiềm năng của từng thành phần kinh tế. Hiện nay,
KTNN chưa thực sự làm đầu tầu để kéo các thành phần kinh tế khác cùng phát triển,
mặc dầu đã được xắp sếp và tổ chức lại nhưng hiệu quả kinh tế của khu vực này vẫn
chưa tương xứng với vai trò và tiềm lực hiện có của nó. Các doanh nghiệp Nhà nước
phần lớn là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu không đủ sức cạnh tranh, hiệu quả sản
xuất không tương xứng với vốn đầu tư: 85% tài sản cố định trong công nghiệp, 100%
mỏ khoáng sản, 83% cây công nghiệp dài ngày, 90% lực lượng lao động được đào
tạo, và có được những địa điểm kinh doanh thuận lợi nhất, trong khi đó mới
chỉ đóng góp vào GDP 47% (1994), vẫn còn tồn tại những DNNN phải bị lỗ do làm
ăn không có hiệu quả. Hiện tượng lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước vẫn còn

tồn tại.
Vì lẽ đó,cần phải đổi mới KTNN làm cho nó thực sự đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân nhằm bảo đảm thực hiện định hướng XHCN. Để khu vực
KTNN giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, trong hơn 10 năm đổi mới, Nhà
nước đã thực hiện việc sắp xếp lại các DNNN để tăng cường sức mạnh nội lực cho
nó. Hiện nay, DNNN vẫn tiếp tục sắp xếp lại theo định hướng khắc phục những yếu
kém của những doanh nghiệp này và khơi dậy những yếu tố tích cực, sức mạnh và
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn tốt để phát huy ảnh
hưởng của KTNN đối với nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc đổi mới các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh, việc cải tạo và đổi mới KTNN phải hết sức coi trọng
đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra bài học kinh nghiệm, bổ sung những tri

×