Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

LUẬN VĂN: Mở rộng cho vay sản xuất kinh doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.04 KB, 55 trang )











LUẬN VĂN:

Mở rộng cho vay sản xuất kinh
doanh tại chi nhánh
NHNo&PTNT Láng Hạ








Lời nói đầu


Trong công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Đất nước, nhu cầu về vốn
để đầu tư, phát triển nền kinh tế đang là một vấn đề bức xúc, mọi nguồn vốn trong
và ngoài nước đang được chú ý khai thác để đáp ứng nhu cầu bức thiết đó. Trong đó
nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại đóng một vai trò rất quan trọng, góp phần
mở rộng sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế.


Khách hàng của các Ngân hàng Thương mại ngày nay không chỉ là các Doanh
nghiệp Nhà nước mà còn bao gồm các thành phần kinh tế khác nhau như: các tổ
chức kinh tế ngoài quốc doanh, các cá nhân Việc Ngân hàng mở rộng cho vay đối
với các đơn vị ngoài quốc doanh không chỉ đem lại cho Ngân hàng lợi nhuận mà
còn giúp cho các thành phần kinh tế này phát triển sản xuất - kinh doanh góp phần
vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam nói chung và chi nhánh Láng Hạ nói
riêng đã đạt được sự tăng trưởng đáng tự hào, góp phần quan trọng trong sự phát
triển kinh tế. Trong giai đoạn hiện nay, chi nhánh đang vấp phải sự cạnh tranh quyết
liệt từ phía các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, đòi hỏi chi nhánh phải
không ngừng đổi mới, mở rộng thị trường và đảm bảo nâng cao chất lượng dịch vụ
để có thể tồn tại và phát triển. Xuất phát từ tình hình đó, em đã chọn đề tài: “Mở
rộng cho vay sản xuất kinh doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ” làm
chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề gồm 3
chương:
Chương I: Cho vay sản xuất kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Chương II. Thực trạng cho vay sản xuất, kinh doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT
Láng Hạ
Chương III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay sản xuất kinh
doanh tại chi nhánh Láng Hạ



Chương I
Cho vay kinh doanh của Ngân hàng thương mại
I.Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã có quá trình hình thành và phát triển rất lâu đời,
từ các ngân hàng thợ vàng, các ngân hàng của những kẻ cho vay nặng lãi cho đến

những ngân hàng hiện đại ngày nay. Hiểu theo cách chung nhất, ngân hàng là các tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt
là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam được thông qua ngày
12/12/1997 thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất
và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại,
ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và
các loại hình ngân hàng khác”.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm ngân hàng thương mại, chúng ta hãy tìm hiểu
những đặc điểm của nó. Trước hết, ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp
kinh doanh, vì vậy hoạt động của nó cũng nhằm mục tiêu là thu được lợi nhuận.
Song hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại là một loại kinh doanh đặc
thù với đối tượng kinh doanh chủ yếu là quyền sử dụng khoản tiền tệ của ngân hàng
thương mại có đặc tính phi vật chất, hay nói cách khác ngân hàng thương mại là
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ và hoạt động của nó gắn liền với quá trình vận
động và lưu thông tiền tệ. Trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng tìm cách
huy động, tập trung những nguuồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế bằng cách đưa ra
những lợi ích và những tiện ích cho người có tiền nhàn rỗi và từ nguồn vốn đó, ngân
hàng tìm cách đầu tư có lợi nhất để bù đắp các khoản chi phí và thu được lợi nhận.
Cũng xuất phát từ hoạt động đó, ngân hàng thương mại quản lý một khối lượng lớn
nguồn vốn của xã hôị và chịu nhiều rủi ro, đồng thời mang tính xã hội sâu sắc.
Ngoài đặc điểm là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương
mại còn mang đặc điểm của một trung gian tài chính điển hình. Vai trò trung gian

tài chính của ngân hàng thương mại được thể hiện rõ trên hai phương diện: ngân
hàng thương mại là trung gian giữa người có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi với
người cần vốn, đồng thời còn là trung gian giữa Ngân hàng Trung ương vói công
chúng và nền kinh tế.

Ngân hàng thương mại là trung gian giữa người có nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi với người cần vốn tạo điều kiện cho cung và cầu về nguồn vốn gặp nhau.
Trong nền kinh tế luôn tồn tại những người có những khoản tiền tạm thợi nhàn rỗi
chưa dùng đến hay để dành cho những nhu câu chi tiêu sau này, đồng thời cũng có
những người có những cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay tiêu dùng
hiện tại. Tuy nhiên cung và cầu về nguồn vốn này không phải bao giờ cũng dễ dàng
gặp được nhau trực tiếp và phù hợp với nhau do khác nhau không những về không
gian mà còn về khối lượng, thời hạn của những nguồn vốn đó. Người có tiền nhàn
rỗi muốn cho mựơn quyền sử dụng nguồn vốn đố để thu được khoản tiền sinh lợi
nhưng chỉ trong số tiền họ có và trong khoảng thời gian tạm thời nhàn rỗi. Trong
khi đố người cần vốn lại cần khoản vốn với thời hạn phù hợp với mục đích sử dụng
của họ thường có số lượng và thời hạn khác. Hoạt động của ngân hàng thương mại
giải quyết được mâu thuẫn này thông qua hoạt động tập trung huy động vốn tạm
thời nhàn rỗi đem đầu tư cho vay. Thông qua cầu nối ngân hàng thương mại đã
chuyển những nguồn vốn có thời hạn, số lượng khác nhau thành nhũng nguồn vốn
phù hợp với nhu cầu của ngưòi cần vốn mặc dù người có tiền nhàn rỗi và người có
nhu cầu về vốn không cần trực tiếp gặp nhau. Vì vậy ngân hàng thương mại đóng
vai trò trung gian giữa người có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi và người có nhu cầu
về vốn.
Ngân hàng thương mại không chỉ là trung gian giữa người có nguồn vốn tạm
thời nhà rỗi với người cần vốn mà còn là trung gian giưã ngân hàng Trung ương với
công chúng và nền kinh tế. Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng,
là cơ quan tổ chức điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, bằng các công cụ của mình
như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất, cửa sổ chiết khấu đã tác động đến hoạt dộng của
ngân hàng thương mại và ngân hàng thương mại đã chuyển tiếp tác động của chính
sách tiền tệ đến nền kinh tế . Ngược lại, hoạt dộng của các ngân hàng thương mại
cũng phản hồi lại Ngân hàng Trung ương những thông tin của nền kinh tế để làm

cơ sở cho Ngân hàng Trung ương đề ra và chỉ đạo chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và kiểm soát lạm phát phục vụ cho việc thực hiện

các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước trong những thời kỳ nhất định.
2.Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
2.1.Huy động vốn
Nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại rất đa dạng và phong
phú có thể kể ra một số nguồn chủ yếu sau:
Nguồn tiền gửi: Bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi
tiết kiệm lại được chia thành tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn. Đây là nguồn vốn
chủ yếu của một ngân hàng thương mại theo đúng nghĩa của nó. Trong các loại tiền
gửi thì tiền gửi thanh toán là nguồn vốn có chi phí thấp hơn cả. Tiền gửi tiết kiệm
có kỳ hạn càng dài thì chi phí càng cao, tuy nhiên đây là nguồn vốn ổn định cần
thiết để ngân hàng có thể mở rộng cho vay trung gian và dài hạn.
Nguồn vốn đi vay: Ngân hàng chỉ đi vay khi có những tình huống phát sinh
đặc biệt như để đảm bảo khả năng thanh khoản, để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc
theo quy định, để đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng. Tuy nhiên, không thể phủ
nhận đây là nguồn vốn rất quan trọng của ngân hàng. Tuỳ vào từng trường hợp cụ
thể mà ngân hàng thương mại có thể vay của Ngân hàng Trung ương, vay của các tổ
chức tín dụng trong và ngoài nước hay vay của dân cư, của các tổ chức kinh tế
thông qua việc phát hành kỳ phiếu , trái phiếu.
Ngoài ra các ngân hàng thương mại còn có thể tận dụng các nguồn vốn khác
như nguồn vốn uỷ thác của các tổ chức tín dụng lớn , các tổ chức tín dụng nước
ngoài; nguồn vốn phát sinh trong quá trình thanh toán giữa các ngân hàng. Tuy
nhiên các nguồn vốn này thường không ổn định và không phải ngân hàng nào cũng
có điều kiện sử dụng.
Ngoài nguồn vốn huy động các ngân hàng thương mại còn sử dụng nguồn
vốn tự có của ngân hàng khi cần thiết.
2.2.Sử dụng vốn
Trên cơ sở nguồn vốn của mình, các ngân hàng sẽ tiến hành các hoạt động sử
dụng vốn để tìm kiếm lợi nhuận. Các hoạt động sử dụng vốn bao gồm hoạt động

ngân quỹ, hoạt động cho vay, hoạt động đầu tư, hoạt động mua sắm tài sản cố định

và công cụ lao động
Các ngân hàng phải luôn giữ một tỷ lệ tài sản có tính lỏng cao như tiền mặt
tại quỹ, các giấy tờ có giá, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, tiền gửi tại Ngân hàng Trung
Ương để đảm bảo khả năng thanh toán khi khách hàng yêu cầu. Đây là loại tài sản
có tỷ lệ sinh lời thấp nhất vì thế các ngân hàng chỉ nắm giữ ở mức tối thiểu đảm bảo
đủ đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Quản lý tài sản này ra sao, tỷ lệ nào là hợp lý
nhằm vừa đáp ứng nhu cầu của khách hàng vừa đạt nhiều lợi nhuận nhất là mục tiêu
của mọi ngân hàng.
Nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng thương mại là từ hoạt động cho vay.
Đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng và được coi là nguyên nhân ra đời của
ngân hàng thương maị :đi vay để cho vay. Đây cũng là hoạt động thường xuyên
nhất, rủi ro nhất, đem lại thu nhập nhiều nhất do đó chịu sự quản lý chặt chẽ nhất
của ngân hàng.
Hoạt động đầu tư của ngân hàng được hiểu là các hoạt động đầu tư vào giấy
tờ có giá và các tài sản khác nhằm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, phân tán
rủi ro và nhằm đem lại thu nhập ổn định cho ngân hàng.
2.3.Hoạt động trung gian
Các hoạt động trụng gian của ngân hàng bao gồm hoạt động thanh toán, hoạt
động quản lý tài sản cho khách hàng, hoạt động phát hành chứng khoán, hoạt động
mua bán và bảo quản chứng khoán, hoạt động cung cấp thông tin, tư vấn kinh doanh
và quản trị doanh nghiệp…Các hoạt động trung gian này thường đem lại thu nhập
từ 20%-30% thu nhập cho ngân hàng, sự đa dạng của các dịch vụ là thước đo sự
phát triển của ngân hàng hiện đại, việc phát triển các hoạt động trung gian có ý
nghĩa quan trọng trong việc nâng cao thu nhập, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng,
đây cũng là hoạt động cơ bản phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức tài
chính tín dụng khác. Xu hướng chung hiện nay là các ngân hàng ngày càng coi
trọng hoạt động trung gian vì nó đem lại thu nhập ổn định hơn cho ngân hàng so
với các hoạt động sử dụng vốn đầy rủi ro.
Trên đây là ba nhóm hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại, mỗi hoạt động có
những đặc điểm khác nhau song có quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ và bổ sung


cho nhau. Vì vậy đối với các nhà quản trị ngân hàng, không được coi nhẹ hoạt động
nào mà phải luôn đặt mối quan hệ giữa chúng trong khi đề ra chiến lược cũng như
lập kế hoạch kinh doanh để đạt được hiệu quả trong hoạt động.
II. Cho vay sản xuất kinh doanh của Ngân hàng thương mại
1.Khái niệm
Theo quyết định số 28/2001/QĐ- NHNN1 ngày 15/8/2001 của Thống đốc
NHNN định nghĩa cho vay như sau: Cho vay là một hình thức của cấp tín dụng,
theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng
vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc lẫn lãi.
- Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa
bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân,
doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh
toán.
Tín dụng tồn tại song song và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hoá. Các
chủ thể tham gia vào tín dụng ngân hàng rất phong phú và đa dạng với một bên là
ngân hàng, một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, hợp tác xã, các quan hệ tín dụng
giữa các chủ thể tín dụng được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và có lợi
cho hai bên, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Từ khái niệm trên bản chất của cho vay là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
hoàn trả và có các đặc trưng:
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài
sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đầy đủ và
đúng hạn.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay người đi
vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
Trong quan hệ cho vay, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô

điều kiện.

Cho vay có thể chia thành hai mảng lớn là cho vay sản xuất kinh doanh và
cho vay tiêu dùng. Cho vay sản xuất kinh doanh được hiểu là cho các đối tượng vay
nhằm mục đích sản xuất, kinh doanh. Trong tình hình hiện nay ở Việt Nam, các
khoản cho vay của Ngân hàng chủ yếu là cho vay sản xuất kinh doanh, có ngân
hàng cho vay lên đến 95% tổng giá trị các khoản cho vay của mình.
Trên đây là một số yếu tố rất cơ bản trong quan hệ cho vay, trong thực tế một
số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ
tín nhiệm về khách hàng mà chỉ chú trọng đến các bảo đảm khoản vay, chính vì thế
mà làm ảnh hưởng đến chất lượng của các khoản vay.
2.Vai trò của hoạt động cho vay
2.1. Vai trò của hoạt động cho vay đối với Ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu và mang lại nhiều lợi nhuận nhất
cho một Ngân hàng Thương mại, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của một
Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Ngân hàng Thương mại đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế
thị trường, là trung gian chuyển vốn từ người có vốn tạm thời nhàn rỗi sang người
thiếu vốn để đầu tư. Ngay từ buổi ban đầu hoạt động của Ngân hàng Thương mại đã
tập trung chủ yếu vào nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay để đáp ứng nhu cầu thiếu
hụt về vốn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong quá trình sản xuất - kinh
doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Trong quá trình phát triển mặc dù môi
trường kinh doanh có nhiều thay đổi, nhiều phương pháp, nhiều công cụ kinh doanh
mới xuất hiện nhưng hoạt động cho vay vẫn là hoạt động cơ bản, chiếm tỉ trọng lớn
trong toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Bởi hoạt động cho vay
chiếm tỉ trọng chủ yếu trong tổng tài sản có của các Ngân hàng Thương mại, lãi thu
được từ hoạt động cho vay thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu nhập Ngân
hàng Thương mại, ở nước ta trong giai đoạn hiện nay chiếm khoảng 80% tổng thu
nhập. Điều này thể hiện rõ hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của
các Ngân hàng Thương mại.

Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, hoạt động cho vay ngày càng được
phát triển một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế, theo đó quan
hệ tín dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho hoạt động cho

vay ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Để Ngân hàng Thương mại có thể đứng
vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt và phục vụ nền kinh tế ngày
càng tốt hơn, đòi hỏi các Ngân hàng Thương mại phải luôn làm tốt các chức năng
nhiệm vụ của mình.
2.2. Vai trò của hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp
a. Hoạt động cho vay là đòn bẩy kinh tế hỗ trợ sự ra đời và phát triển của
các doanh nghiệp
Với tư cách là trung gian tài chính ngân hàng huy động vốn tạm thời nhàn rỗi
trong toàn bộ nền kinh tế để tài trợ cho các thành phần kinh tế nói chung và các
doanh nghiệp nói riêng. Để đảm bảo cho các doanh nghiệp duy trì sản xuất, tái sản
xuất mở rộng, ngân hàng tài trợ tín dụng cho các doanh nghiệp cả ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn. Các ngân hàng là nguồn tài trợ chính cho các hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp như: mua sắm nguyên vật liệu sản xuất, thiết bị
máy móc nhà xưởng mà việc sử dụng vốn tự có làm hạn chế khả năng sản xuất
nên các doanh nghiệp phải đi vay.
b. Hoạt động cho vay giúp các doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh có
hiệu quả
Các doanh nghiệp sau khi nhận tài trợ từ ngân hàng thì phải hoàn trả cả gốc
và lãi theo hợp đồng tín dụng đã kí với ngân hàng trong một thời gian nhất định. Vì
vậy các doanh nghiệp nghiên cứu sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả nhất,
vòng quay nhanh, tỷ suất lợi nhuận cao.
Doanh nghiệp muốn vay vốn ngân hàng thì phải có một phương án sản xuất
kinh doanh có hiệu quả, sử dụng vốn đúng mục đích, làm ăn có lãi và hoàn trả vốn
vay đúng hạn nên buộc các doanh nghiệp phải sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tiết
kiệm được đồng vốn.
Trong quá trình cho vay ngân hàng luôn kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn

của các doanh nghiệp có đúng mục đích đã cam kết và có hiệu quả hay không. Nếu
vi phạm các hợp đồng tín dụng đã kí thì doanh nghiệp không được tiếp tục vay vốn
ngân hàng nữa.
Ngân hàng còn làm dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
hiệu quả nhất.

2.3. Vai trò của hoạt động cho vay đối với nền kinh tế
a. Hoạt động cho vay đáp ứng nhu cầu về cung - cầu vốn để duy trì và phát
triển quá trình sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .
Do quá trình sản xuất kinh doanh trong xã hội là thường xuyên liên tục, do
vậy nhu cầu về vốn để đáp ứng cho sản xuất kinh doanh cũng nảy sinh thường
xuyên với mức độ cao. Đây là một vấn đề tồn tại song song, một mâu thuẫn cần giải
quyết sao cho cả hai bên cùng có lợi, tức là : bên cần vốn để sản xuất kinh doanh thì
được thỏa mãn nhu cầu về vốn với chi phí thấp nhất và bên có vốn nhàn rỗi thì phải
thu được lợi ích từ nguồn vốn đó. Tín dụng Ngân hàng mà hoạt động chủ yếu là cho
vay đã ra đời làm trung gian để tạo điều kiện cho hai bên gặp nhau và cùng thỏa
mãn được nhu cầu của mình.
Thông qua hoạt động của ngân hàng, các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
các tầng lớp dân cư trong xã hội được tập trung lại và nguồn vốn đó sẽ được đầu tư
trở lại vào quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này làm cho việc đầu tư vào nền
kinh tế được mở rộng, góp phần nâng cao sản lượng trong sản xuất kinh doanh, cải
thiện đời sống người lao động, kích thích phát triển tăng trưởng kinh tế. Có vốn thì
các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế mới có thể đầu tư cho việc thay đổi công nghệ
mới từ đó tăng năng suất lao động và cải thiện cuộc sống của người lao động. Sự
cạnh tranh sẽ đem lại cho nền kinh tế nhiều sản phẩm mới với chất lượng tốt hơn,
phong phú hơn về chủng loại để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
Qua hoạt động cho vay các Ngân hàng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn
của các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế tư nhân và các cá thể, để họ có thể tăng
cường cơ sở vật chất - kỹ thuật làm quá trình sản xuất kinh doanh được tuần hoàn,
thúc đẩy lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ trong nền kinh tế

quốc dân, góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.
b. Hoạt động cho vay là công cụ mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình tích tụ và
tập trung vốn sản xuất - kinh doanh :
Thông qua việc huy động vốn thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của
các Doanh nghiệp và dân cư, từ đó đáp ứng nhu cầu vốn cho các đối tượng cần vốn.
Từ nguồn vốn huy động đó cho vay đầu tư trở lại để phát triển kinh tế. Nguồn vốn
huy động đó được hình thành từ : nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra

khỏi quá trình sản xuất của các Doanh nghiệp (nguồn vốn khấu hao được tiến hành
dần dần, các khoản phải trả nhưng chưa trả, phải nộp nhưng chưa nộp mà đơn vị
đang nắm giữ); nguồn vốn tiết kiệm của dân cư, nguồn vốn tiền tệ của những người
kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ Ngân hàng Thông qua các hoạt động ngân hàng,
các nguồn vốn trên được tích tụ tập trung tại Ngân hàng từ đó đáp ứng nhu cầu vốn
của các đối tượng cần vốn.
Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn luôn phải
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội như : đòi hỏi các sản phẩm hàng hóa
được sản xuất ra phải có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, chủng loại phong phú, giá cả
hợp lý. Điều này đòi hỏi các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế phải ra sức kinh
doanh, hiện đại hóa máy móc thiết bị. Muốn thực hiện được vấn đề này thì Doanh
nghiệp phải có vốn và nhu cầu về vốn của các Doanh nghiệp ngày càng tăng lên. Để
giải quyết nhu cầu về vốn một cách nhanh chóng và có hiệu quả thì hoạt động cho
vay của ngân hàng là công cụ tốt nhất, quan trọng nhất. Tuy nhiên, quá trình đầu tư
tín dụng không phải đầu tư rải đều cho mọi đối tượng có nhu cầu về vốn mà việc
đầu tư phải được thực hiện có trọng điểm, đầu tư được thực hiện một cách tập trung
chủ yếu cho các Doanh nghiệp, những công ty tư nhân, các cá thể hoạt động sản
xuất kinh doanh có hiệu quả, còn đối với các đối tượng khác, chủ thể khác thì đầu
tư với một lượng vốn ít hơn và nhất định.
Việc đầu tư tập trung có trọng điểm như vậy vừa bảo đảm, vừa tránh được
rủi ro tín dụng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.
c. Hoạt động cho vay góp phần điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và

kiểm soát lạm phát
Qua quá trình cho vay khối lượng tiền trong lưu thông được tăng lên và khi
Ngân hàng thu nợ thì khối lượng tiền trong lưu thông giảm đi. Như vậy, hoạt động
cho vay Ngân hàng góp phần điều tiết khối lượng tiền của toàn bộ nền kinh tế.
Ngân hàng thường sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết quan hệ cung cầu
vốn, sự biến động của lãi suất có tác động làm thay đổi khối lượng tiền vay. Khi lãi
suất tăng thì khối lượng tiền vay sẽ giảm đi và ngược lại nếu lãi suất giảm xuống thì
sẽ làm cho nhu cầu vay vốn của các đối tượng tăng lên tức là khối lượng tiền vay sẽ
tăng lên.

Khi Ngân hàng cho vay thường tính cho vay ở một hạn mức nhất định từ đó
góp phần khống chế khối lượng tiền vay. Đây cũng là một trong những biện pháp để
điều tiết khối lượng tiền, từ đó dần tới kiểm soát được lạm phát. Bởi vì, tín dụng
Ngân hàng khi điều tiết được khối lượng tiền tức là góp phần khống chế khối lượng
tiền vừa đủ so với nhu cầu lưu thông hàng hóa nhờ đó mà kiểm soát được giá cả.
Khi giá cả tăng nhanh thì Ngân hàng tăng lãi suất để giảm khối lượng tiền vay, từ
đó giảm khối lượng tiền trong lưu thông, đồng thời kiểm soát được lạm phát.
Vậy hoạt động tín dụng Ngân hàng đã góp phần điều tiết khối lượng tiền
trong toàn bộ nền kinh tế, đồng thời thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng
kiểm soát được lạm phát.
d. Hoạt động cho vay góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế Quốc tế :
Hoạt động cho vay là một trong các giải pháp tốt để các nước tăng cường
mối quan hệ kinh tế Quốc tế. Khi quan hệ tín dụng được mở rộng sẽ kéo theo quan
hệ đầu tư trong nền kinh tế phát triển khiến cho các quan hệ Thương mại Quốc tế
khác cũng phát triển theo.
Thông qua quá trình nhận và cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của các tổ chức
tín dụng, cùng với sự tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán Quốc tế, hoạt động
cho vay đã làm tăng mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước với nhau, đồng thời thúc
đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển từ đó một lần
nữa thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế.

Như vậy, thông qua các hoạt động của mình tín dụng Ngân hàng có những
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, tín
dụng Ngân hàng còn góp phần thực hiện tốt các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà
nước đề ra, đồng thời nó cũng là một yếu tố cơ bản giúp cho toàn bộ hệ thống Ngân
hàng đứng vững và phát triển.
3.Các hình thức cho vay sản xuất kinh doanh của ngân hàng thương mại
Cho vay được phân loại theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định
như: Thời hạn cho vay, mục đích cho vay, mức độ tín nhiệm với khách hàng,
phương pháp hoàn trả, xuất xứ của tín dụng.
* Căn cứ thời hạn tín dụng

Theo qui định hiện hành của NHNN (quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN và
hướng dẫn của NHNo (quyết định 72/QĐ- HĐQT- TD)
- Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
- Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng
đến 60 tháng
- Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở
lên. Loại tín dụng này được sử dụng để thực hiện quá trình tái sản xuất theo chiều
rộng hoặc chiều sâu, kết quả là tăng mức sản xuất và của cải xã hội.
Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn,
nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh
doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho
vay trung- dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng, bởi cho vay trung dài hạn thì
lãi suất sẽ cao hơn.
*Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng có:
- Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay mà uy tín của người đi vay
được đặt lên hàng đầu, là cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hay có sự bảo
lãnh của người thứ ba, mà ngân hàng chỉ dựa vào uy tín của họ để cho vay và có
những điều kiện ràng buộc như: khách hàng phải có năng lực hành chính và không
được quyền giao dịch với các ngân hàng khác, phải trung thực trong kinh doanh.

- Cho vay có bảo đảm: Là loại hình mà người đi vay phải có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba.
Đây là loại hình tín dụng mà khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng
nên khi vay vốn cần có sự bảo đảm.
*Căn cứ vào nguồn gốc hình thành các khoản vay
- Cho vay trực tiếp: Là hình thức cho vay mà ngân hàng trực tiếp cấp vốn
cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay cũng trực tiếp hoàn trả nợ vay cho
ngân hàng. Hình thức này chỉ có hai chủ thể tham gia đó là ngân hàng và người đi
vay
- Cho vay gián tiếp: Là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua lại các
chứng từ có giá còn trong thời hạn thanh toán. Để thực hiện theo hình thức này thì
người đi vay phải có các giấy tờ có giá và còn thời hạn thanh toán đem đến ngân

hàng. Nó gồm các loại hình như: Chiết khấu thương phiếu, mua lại các phiếu bán
hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp, nghiệp vụ bảo lãnh.
*Căn cứ vào phương thức hoàn trả
- Cho vay theo phương thức hoàn trả một lần
- Cho vay theo phương thức hoàn trả định kì
Để đáp ứng cho nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp và khả năng
kiểm tra, giám sát việc khách hàng sử dụng vốn vay của ngân hàng. NHNo cùng
doanh nghiệp lựa chọn các phương thức cho vay như sau:
Cho vay ngắn hạn
Một là: Cho vay từng lần
Phương thức cho vay từng lần áp dụng đối với DN có như cầu vay vốn từng
lần. Đây là phương thức cho vay được áp dụng phổ biến nhất. Mỗi lần vay vốn
khách hàng phải gửi đến NH các tài liệu: Phương án, dự án sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, chứng từ liên quan đến nhu cầu vay như hợp đồng mua, bán, giấy báo giá
Phương thức này thực hiện phát tiền vay từng lần. Nhiều khi cũng có trường
hợp phát tiền vay từ hai lần trở lên, trường hợp này kèm theo hợp đồng tín dụng, có
thêm giấy nhận nợ.

Đây là phương thức cho vay nhiều thủ tục rườm rà nên rất gây phiền hà cho
khách hàng.
Hai là: Cho vay theo hạn mức tín dụng
Phương thức này áp dụng với khách hàng vay ngắn hạn, có nhu cầu vay vốn
thường xuyên, kinh doanh ổn định.
Ngân hàng sau khi nhận đủ các tài liệu của doanh nghiệp tiến hành xác định
hạn mức tín dụng. Khi kí kết hạn mức tín dụng mới phải trước 10 ngày khi hạn mức
tín dụng cũ hết hiệu lực, doanh nghiệp gửi cho ngân hàng nông nghiệp nơi cho vay
phương án sản xuất, kinh doanh kỳ tiếp theo. Căn cứ vào nhu cầu vay vốn của
doanh nghiệp NHNo nơi cho vay thẩm định để xác định hạn mức tín dụng và thời
hạn cho vay mới.
Theo phương thức này thì thủ tục vay vốn đơn giản, ngân hàng cũng như
doanh nghiệp có thể chủ động hơn trong việc cân đối và sử dụng vốn
Ba là: Cho vay theo hạn mức thấu chi

Đây là phương thức áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay theo hạn
mức thấu chi, thu nhập ổn định, có tín nhiệm với tổ chức tín dụng. Với phương thức
này khách hàng phải mở tài khoản thấu chi tại NH. Số dư trên tài khoản thấu chi có
thể có dư nợ hoặc dư có, khách hàng phải có can kết chuyển thu nhập của mình vào
tài khoản thấu chi và hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và tính hợp pháp các
khoản chi của khách hàng trên tài khoản thấu chi.
Khách hàng có nhu cầu chi vượt số tiền có trên tài khoản thấu chi của mình,
gửi giấy đề nghị vay tiền, giấy đề nghị được lập lần đầu cho cả hai hạn mức thấu
chi. Mỗi lần rút vốn khách hàng chỉ gửi đến ngân hàng các chứng từ: Phiếu chuyển
khoản, giấy lĩnh tiền mặt.
Đây là một hình thức cho vay ngắn hạn mà ngay cả khi số dư tài khoản thanh
toán của khách hàng không có tiền hoặc không đủ tiền cho nhu cầu chi tiêu, họ vẫn
có thể rút séc chi.
Bốn là: Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng
NHNo nơi cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay

trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút
tiền mặt tại máy rút tiền tự động.
Năm là: Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
NHNo và khách hàng thoả thuận hợp đồng tín dụng: Hạn mức tín dụng dự
phòng, thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng; NHNo nơi cho vay cam
kết đáp ứng nguồn vốn cho khách hàng bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ; trong
thời gian hiệu lực nếu khách hàng không sử dụng hoặc sử dụng không hết hạn mức
tín dụng dự phòng, khách hàng vẫn phải trả phí cam kết tính cho hạn mức tín dụng
dự phòng đó.
Cho vay trung- dài hạn
Cho vay trung- dài hạn chủ yếu là để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng, mua sắm thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống. Chủ
yếu có các phương thức cho vay sau:
Một là: Cho vay trả góp

Khi vay vốn, NHNo nơi cho vay và khách hàng xác định, thoả thuận số lãi
tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kì hạn trong
thời hạn cho vay. Đối với các doanh nghiệp việc cho vay trả góp thường phát sinh
khi có các nhu cầu phát sinh như: Xây dựng các công trình phúc lợi phục vụ cho
cán bộ công nhân viên.
Hai là: Cho vay theo dự án đầu tư
Ngân hàng lựa chọn cho vay đối với những dự án sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ có hiệu quả kinh tế trực tiếp, có khả năng trả nợ cho ngân hàng. NHNo nơi cho
vay cùng khách hàng kí hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì
cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ.
Ba là: Cho vay hợp vốn
Đây là hình thức nhiều tổ chức tín dụng (2 tổ chức tín dụng trở lên) cùng cho
vay cho một dự án của khách hàng. NHNo cùng với các thành viên đồng tài trợ
thống nhất với nhau về phương thức thẩm định. Do nhu cầu chia sẻ rủi ro nên hình
thức này ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng,

chủ yếu với dự án đầu tư lớn.

III.Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay sản xuất kinh doanh của ngân hàng thương
mại
1. Nhân tố khách quan
*Hoàn cảnh kinh tế xã hội
Quy luật phát triển kinh tế có tính chu kỳ, khi đang ở thời kỳ hưng thịnh, các
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và nhiều doanh nghiệp được thành lập mới khiến
nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh sẽ tăng cao; ngược lại vào thời kỳ suy thoái,
khi các doanh nghiệp gặp khó khăn, nhiều doanh nghiệp phải chịu phá sản, nhu cầu
vay vốn sẽ giảm sút. Điều quan trọng đối với các ngân hàng thương mại là phải
phân tích và dự đoán được nhu cầu thị trường để đề ra chính sách thích hợp cho
từng thời kỳ.
*Môi trường pháp lý, chính sách
Hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự ổn định và phát
triển của nền kinh tế do đó chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước thông qua các
quan hệ pháp lý và đường lối chính sách. Một hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện,
đầy đủ và hợp lý sẽ khiến môi trường kinh doanh trở nên không lành mạnh làm cho
hoạt động ngân hàng trở nên khó khăn và độ rủi ro cao. Hai là hệ thống chính sách
của nhà nước thay đổi theo từng chu kỳ phát triển cũng ảnh hưởng quan trọng đến
hoạt động của các ngân hàng; khi thấy cần mở rộng cung tiền, kích cầu tiêu dùng,
đầu tư, ngân hàng nhà nước sẽ nới lỏng tiền tệ dẫn đến hoạt động cho vay tăng
mạnh; khi nguy cơ lạm phát cao, ngân hàng nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp thắt
chặt tiền tệ dẫn đến hạn chế hoạt động cho vay. Điều quan trọng là ngân hàng phải
nắm vững pháp luật, chính sách để hoạt động có hiệu quả theo các quy định của
pháp luật và ngăn ngừa các hành vi trục lợi, lừa đảo từ phía khách hàng.
*Khách hàng
Đây cũng có thể coi là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động
cho vay của ngân hàng. Để tiếp cận được các khoản vay, khách hàng phải có đủ
năng lực tài chính, có phương án sử dụng hiệu quả vốn vay, có ý chí trả đầy đủ nợ

và lãi Tuỳ vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, khách hàng có thể quyết
định vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc thu hẹp quy mô hoạt động lại. Nếu

khách hàng mở rộng sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn sẽ tăng cao và ngân hàng sẽ
có cơ hội tăng doanh số cho vay; ngược lại khi khách hàng thu hẹp quy mô hoạt
động, nhu cầu vốn sẽ giảm, hoạt động cho vay sẽ bị hạn chế. Do đó việc mở rộng
cho vay của ngân hàng có thể nói là phụ thuộc nhiều vào hiệu quả hoạt động của
khách hàng.

2. Nhân tố chủ quan
*Chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng
Con người là nhân tố trung tâm, liên kết tất cả các nhân tố khác với nhau, ở
đây không phải là con người nói chung mà chính là các nhân viên ngân hàng, đặc
biệt là những nhân viên có nhiệm vụ trực tiếp xem xét, hướng dẫn, kiểm soát các
hợp đồng tín dụng. Bởi chính họ sẽ là người xem xét, phân tích các yếu tố của đối
tượng vay vốn. Cho dù công nghệ ngân hàng có hiện đại bao nhiêu, tiềm lực có
mạnh đến đâu nhưng đội ngũ nhân lực lại hạn chế về chuyên môn thì thật khó có
thể mở rộng quy mô cho vay mà vẫn đảm bảo chất lượng các khoản vay.
Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là khả năng giải quyết công việc, trình
độ chuyên môn, sự hiểu biết mà quan trọng hơn còn là đạo đức nghề nghiệp của
họ. Vì vậy để có thể mở rộng quy mô mà vẫn đảm bảo chất lượng các khoản cho
vay, hay nói cách khác, muốn ngân hàng có thể tồn tại và phát triển thì đòi hỏi cấp
thiết là không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
*Quy mô, kỳ hạn của nguồn vốn
Một điều rõ ràng là, mở rộng quy mô cho vay phải dựa trên cơ sở mở rộng
quy mô nguồn vốn. Nếu quy mô nguồn vốn không được mở rộng, hoặc có thể huy
động được nhưng chi phí cao thì cũng không thể mở rộng quy mô cho vay được;
ngược lại nếu quy mô nguồn vốn được mở rộng, ngân hàng có khả năng mở rộng
quy mô cho vay cả về doanh số lẫn dư nợ. Ngoài ra sự hợp lý về kỳ hạn cũng là yếu
tố cần thiết, nếu nhu cầu vay vốn trung dài hạn đang ở mức cao mà ngân hàng chỉ

có nguồn vốn ngắn hạn thì cũng không thể mở rộng quy mô cho vay được. Vì thế
muốn mở rộng quy mô cho vay thì phải xem xét sự phù hợp với quy mô, cấu trúc
nguồn vốn.

*Tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của ngân hàng
Tiềm lực tài chính có thể tạm hiểu là khả năng sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu
vay vốn của khách hàng, nó thể hiện là ngân hàng đang hoạt động trong trạng thái
tốt. Một ngân hàng có quy mô lớn, tiềm lực tài chính mạnh thường quan tâm đến
những khách hàng lớn, quy mô cho vay lớn; ngược lại những ngân hàng quy mô
nhỏ do tiềm lực có hạn thường quan tâm đến các doanh nghiệp nhỏ và các cá nhân,
hộ gia đình với quy mô cho vay nhỏ. Như vậy một ngân hàng với tiềm lực tài chính
mạnh thì quy mô cho vay sẽ lớn và một ngân hàng với tiềm lực hạn chế thì quy mô
cho vay sẽ nhỏ.
Một yếu tố cũng khá quan trọng là cơ sở vật chất kỹ thuật của ngân hàng, nó
giúp ngân hàng nắm bắt, phân tích thông tin nhanh, chính xác và phục vụ khách
hàng tốt hơn. Với một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đầy đủ, ngân hàng có thể tận
dụng tốt mọi cơ hội kinh doanh và có cơ hội mở rộng hoạt động cho vay.
*Mô hình tổ chức và các chính sách của bản thân ngân hàng
Mô hình tổ chức là cách sắp xếp bố trí, quy định trình tự trách nhiệm quyền
hạn của các nhân viên, các bộ phận và mối quan hệ giữa các nhân viên, bộ phận ấy.
Việc tổ chức điều hành hoạt động tại mỗi ngân hàng phải đảm bảo xây dựng được
một hệ thống mạnh (chứ không phải đơn thuần là tập hợp của những cá nhân mạnh,
bộ phận mạnh):
Hệ thống đó phải tận dụng, phát huy tối đa năng lực sức sáng tạo của từng cá nhân
cũng như hạn chế được các nhược điểm của họ.
Hệ thống đó phải hoạt động một cách nhịp nhàng, nhanh chóng nhưng an
toàn.
Các chính sách của ngân hàng có thể là các quy định về quy mô, giới hạn tín
dụng và chính sách khách hàng. Ngân hàng có thể tài trợ tối đa bằng nhu cầu của
khách hàng, ngoài yêu cầu phải phù hợp với luật định thì còn dựa trên cơ sở các tính

toán của ngân hàng về rủi ro, sinh lời. Ngân hàng ít muốn tài trợ trong trường hợp
các khoản nợ lớn hơn vốn chủ và có quy định chặt chẽ về quy mô cho vay tối đa của
các giám đốc chi nhánh.

Việc thực hiện chính sách khách hàng, chính sách marketing đóng một vai
trò quan trọng đối với tất cả mọi ngành trong giai đoạn hiện nay trong đó không loại
trừ ngành ngân hàng. Để tạo được hình ảnh đẹp trong con mắt khách hàng thì ngân
hàng thương mại cần phải thực hiện đồng bộ nhiều yếu tố. Trong đó không chỉ chú
trọng đến các hình thức quảng cáo như: quảng cáo trên tạp chí, pano, áp phích,
internet mà còn cần phải có sự kết hợp với các chính sách như: chính sách khách
hàng, chính sách sản phẩm Với một mô hình tổ chức và hệ thống chính sách phù
hợp, ngân hàng sẽ hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ khách hàng tốt hơn và đó là
cơ sở để mở rộng hoạt động cho vay.


Chương II
Thực trạng cho vay sản xuất, kinh doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng
Hạ
I.Tổng quan về chi nhánh Láng Hạ
1.Lịch sử ra đơì, xây dựng và phát triển
Năm 1988, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ra đời theo Nghị định số
53/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính Phủ). Hệ thống Ngân
hàng nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển mới, cùng với các Ngân
hàng khác, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đã góp phần quan trọng trong sự phát
triển của đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nông
nghiệp & phát triển nông thôn Việt Nam theo quyết định số 280/QĐ-NHNN ngày
15/11/1996 và hoạt động theo mô hình tổng công ty 90.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là Ngân hàng
thương mạI lớn nhất Việt Nam và là ngân hàng duy nhất có hệ thống mạng lưới tại

tất cả các tỉnh thành, từ đô thị đến vùng nông thôn. Ngân hàng có hơn 25.000 cán
bộ công nhân viên làm việc tại hơn 1.300 sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao dịch.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Chi nhánh 24 Láng Hạ có trụ
sở tại số 24 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội được thành lập ngày 18/03/1997 theo quyết
định số 334/QĐ-HĐQT của Hội đồng quản trị Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam.
Chi nhánh 24 Láng Hạ là chi nhánh cấp I, trực thuộc trung tâm điều hành
NHNo&PTNT Việt Nam, hoạt động theo luật các Tổ chức tín dụng và điều lệ hoạt
động của NHNo&PTNT Việt Nam. Chi nhánh là một đơn vị hạch toán độc lập
nhưng tương đối phụ thuộc vào NHNo&PTNT Việt Nam, có quyền tự chủ kinh
doanh, có con dấu riêng và được mở tài khoản giao dịch tại NHNN cũng như tại các
tổ chức Tín dụng khác trong cả nước.
Với chủ trương của ban giám đốc triển khai các hình thức huy động đa dạng,
phong phú trên cơ sở kế thừa các hình thức huy động vốn truyền thống.Bằng việc
phát huy tối đa quan hệ với các đối tác, Chi nhánh đã từng bước đặt quan hệ với
cấc đơn vị có khối lượng vốn nhàn rỗi như: Tổng công ty Bảo Hiểm xã hội Việt

Nam, Bảo Hiểm Y tế Việt Nam, Quỹ hỗ trợ, Tổng cục đầu tư phát triển, Kho bạc Ba
Đình
Do xác đinh được thị trường trọng tâm đúng đắn, nên Chi nhánh Láng Hạ đã mạnh
dạn trong công tác đầu tư đối với các doanh nghiệp nằm trong những ngành mũi
nhọn, hoặc tham gia vào những công trình đầu tư trọng điểm của nhà nước.
Nhưng hoạt động của chi nhánh mới chỉ dừng lại ở một số nghiệp vụ tín
dụng truyền thống, các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại chưa triển khai được, phương
tiện làm việc, số lượng cán bộ còn thiếu. Đây thực sự là bức xúc đòi hỏi tập thể cán
bộ toàn Chi nhánh nỗ lực phấn đấu để hoàn thiện dần trong những năm tới.
Năm 1998 đã đánh dấu sự trưởng thành trong kinh doanh của Chi nhánh
Láng Hạ, mức huy động đạt 685 tỷ đồng tăng hơn ba lần so với năm 1997, bình
quân huy động đạt 18648 triệu/người tăng 11780/người so với năm 1997. về dư nợ,
đạt 81 tỷ tăng 1,5 lần, bình quân dư nợ trên cán bộ viên chức đạt 2.782 triệu/người

tăng 1721 triệu người. Công tác thanh toán quốc tế và Quỹ thu nhập tăng vượt bậc,
đặc biệt trong chính sách tín dụng đã hình thành chính sách khách hàng là phục vụ
các doanh nghiệp Nhà nước lớn (các tổng công ty mạnh), tạo tiền đề khẳng định vai
trò của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp trong nền kinh tế. Năm 1999 được coi là
bước phát triển vượt bậc của chi nhánh Láng Hạ, hoạt động kinh doanh đã có những
thuận nhất định. Dựa vào kết quả kinh doanh năm 1998 đã giúp Chi nhánh có cơ hội
đánh giá một cách chính xác hơn năng lực hoạt động của các khách hàng đang có
quan hệ tín dụng và thanh toán tại Chi nhánh. Số cán bộ của chi nhánh đã được
nâng lên 38 người. Trong năm 1999 Chi nhánh đă hoàn thiện công tác thanh toán
cho bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế Việt nam và phát triển các dịch vụ thánh toán
cho công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, vận động các đơn vị thành viên trong Tổng
công ty xăng dầu Việt nam mở tài khoản giao dịch tại các Chi nhánh của Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Ninh, Lai Châu, Sơn La, Phú Yên Chi
nhánh đã kịp thời nắm bắt những cơ hội đầu tư mới. Trong công tác thanh toán quốc
tế và kinh doanh ngoại tệ Chi nhánh đã đảm bảo được khối lượng ngoại tệ cho nhu
cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu của các doanh nghiệp nhất là với Tổng công
ty xăng dầu Việt nam với khối lượng cung cấp trong năm đạt gần 100 triệu USD.
Kết quả hoạt động kinh doanh năm 1999 đạt Quỹ thu nhập 23,1 tỷ đồng tăng 43%

so với năm 1998.
Đến 31/12/2000 Chi nhánh đã có quan hệ tín dụng với 27 đợn vị doanh
nghiệp, doanh nghiệp nhà nước 21 đơn vị, doanh gnhiệp ngoài quốc doanh 6 đơn vị.
Tổng dư nợ đạt 661 tỷ đồng so với năm 1999 tăng 140 tỷ, bình quân dư nợ trên cán
bộ viên chức 11,4 tỷ đồng. Trong năm 2000 Chi nhánh đã hoàn thành và vượt mức
các chỉ tiêu đinh hướng của Hội đồng quản trị NHNo &PTNT Việt Nam. Nợ qua
hạn ở mức thấp kể cả về số tuyệt đối cũng như số tương đối chiếm 0,24% tổng dư
nợ. Tổng dư nợ tăng 100% so với năm 1999 đạt 47,4 tỷ đồng. đây cũng là năm chi
nhánh tiếp tục được Hội đồng quản trị NHNo &PTNT Việt nam khen thưởng lá cờ
đầu xuất sắc nhất khu vực đô thị toàn hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp.
Thời kỳ 2001 – 2003 là thời kỳ Chi nhánh Láng Hạ từng bước chuyển mình

đáp ứng yêu cầu mới của nền kinh tế theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX : Thực hiện đúng nội dung và lộ trình của đề án tái cơ cấu lại
NHNo&PTNT Việt Nam 2001- 2010 đã được Chính phủ phê duyệt, tiếp tục duy trì
tốc độ tăng trưởng cao nguồn vốn và sử dụng vốn, đảm bảo an toàn vốn và khả năng
sinh lời nhằm tăng năng lực cạnh tranh đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu
sản xuất, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, tiếp tục đổi mới công
nghệ và đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với hệ thống ngân hàng và theo kịp tiến
trình hội nhập khu vực và quốc tế trong tương lai gần.
Đặc biệt trong năm 2003 Chi nhánh đã được Chủ Tịch nước CHXHXN Việt
Nam tặng thưởng huân chương Lao động hạng ba , ghi nhận những thành tích của
Chi nhánh trong hoạt động kinh doanh góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
2.Chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh Láng Hạ
* Huy động vốn
- Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi
thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài
nước bằng đồng Việt Nam và đồng ngoại tệ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng và thực hiện
các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam.

- Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, chính quyền
địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định cuả
NHNo&PTNT Việt Nam.
- Được phép vay vốn ngắn hạn, trung và dài hạn của các tổ chức Tài chính
trong nước theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam.
* Cho vay
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam và đồng ngoại
tệ với các tổ chức kinh tế.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng đồng Việt Nam đối với cá nhân
và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.

* Kinh doanh ngoại hối
Huy động vốn, cho vay, mua, bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế và các dịch vụ
khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của chính phủ, Ngân hàng nhà
nước và NHNo&PTNT Việt Nam.
* Kinh doanh dịch vụ
Thu, chi tiền mặt, mua bán vàng bạc, máy rút tiền tự động, dịch vụ thẻ Tín
dụng, két sắt, nhận cất giữ, chiết khấu các loại giấy tờ có giá, thẻ thanh toán, nhận
uỷ thác cho vay của các tổ chức Tài chính, Tín dụng, tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước, các dịch vụ Ngân hàng khác được Nhà nước, NHNo&PTNT cho phép.
* Cân đối, điều hoà vốn kinh doanh nội tệ đối với các Chi nhánh
NHNo&PTNT trực thuộc.
* Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của
NHNo&PTNT Việt Nam.
* Thực hiện đầu tư dưới các hình thức như: Hùn vốn, liên doanh, mua cổ
phần và các hình thức đầu tư khác với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác khi
được NHNo&PTNT cho phép.
* Quản lý nhà khách, nhà nghỉ trực thuộc.
* Thực hiện công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, thi đua, khen thưởng theo phân
cấp uỷ quyền của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
* Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ việc chấp hành thể lệ, chế độ nghiệp
vụ trong phạm vi địa bàn theo quy định của NHNo&PTNT.

* Tổ chức phổ biến, hướng dẫn và triển khai thực hiện các cơ chế, quy chế
nghiệp vụ và văn bản pháp luật của Nhà nước, Ngành ngân hàng và của
NHNo&PTNT liên quan đến hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT.
* Nghiên cứu, phân tích kinh tế liên quan đến hoạt động tiền tệ, Tín dụng và
đề ra kế hoạch kinh doanh phù hợp với kế hoạch kinh doanh của NHNo&PTNT và
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương.
* Chấp hành đầy đủ các báo cáo, thống kê theo chế độ quy định và theo yêu
cầu đột xuất của Tổng giám đốc NHNo&PTNT.

* Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc NHNo&PTNT giao.
3. Cơ cấu tổ chức và mối quan hệ với ngân hàng NNo&PTNT Việt Nam
3.1. Cơ cấu tổ chức
Chi nhánh có 8 phòng ban chịu sự quản lý, điều hành của ban giám đốc gồm
ba người. 8 phòng ban đó là: Phòng Tín Dụng(25 người), Phòng Kế Hoạch( 5
người), Phòng Kế Toán – Ngân Quỹ (50 người), Phòng Thanh Toán Quốc Tế ( 15
người), Phòng Kiểm Tra – Kiểm Soát Nội Bộ ( 4 người), Phòng Tổ Chức Cán Bộ
Và Đào Tạo (5 người), Phòng Hành Chính Nhân Sự ( 13 người), Phòng Thẩm Định
( 3 người ) và 5 phòng Giao Dịch là Phòng giao dịch số 02 ở 29 Ngõ Trạm – Hàng
Giang (9 người ), Phòng giao dịch số 03 ở 36 Doãn Thiện Kế (6 người ), Phòng
giao dịch số 05 ở Trung Kính ( 6 người), Phòng giao dịch số 06 ở 91 Hàng Mã ( 6
người ) và Phòng giao dịch số 07 ở Đào Tấn ( 6 người). Ngoài ra Chi nhánh có 1 chi
nhánh cấp 2 trực thuộc là Chi nhánh Bách Khoa ( 21 người) ( Chi nhánh Bách
Khoa có một phòng giao dịch trực thuộc là phòng giao dịch số 04 ở Lò Đúc ( 6 người)).
Như vậy, tổng số cán bộ công nhân viên của chi nhánh là 183 người, hầu hết
đều có trình độ đại học, cao đẳng.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ






Ban giám đ
ốc

Giám đ
ốc

P.Giám đốc

phụ trách Kinh doanh
P.Giám đốc
phụ trách Kế toán –
Ngân qu


×