Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ .doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.21 KB, 74 trang )

ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 10/1/ 2007, trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương
mại Thế giới – WTO cùng với những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới
đã tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế Việt Nam phát triển. Nền kinh tế càng
phát triển thì nhu cầu vốn càng lớn.
Bên cạnh những thuận lợi do hội nhập kinh tế đem lại thì nền kinh tế
Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn, đặc biệt đối với các doanh
nghiệp nhỏ và vừa - chiếm bộ phận lớn trong tổng số doanh nghiệp ở Việt
Nam, nhưng đang trong tình trạng có vốn đầu tư nhỏ và kĩ thuật lạc hậu. Sự
xâm nhập của các công ty đa quốc gia có vốn đầu tư lớn, có kĩ thuật công
nghệ hiện đại làm cho các doanh nghiệp đã khó khăn lại càng khó khăn hơn,
cạnh tranh trở lên khốc liệt hơn. Điều tất yếu là: muốn tồn tại được trong điều


kiện đó thì buộc các DNN&V phải nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ thuật
công nghệ, mở rộng sản xuất. Để thực hiện được ngoài nguồn vốn tự có
(thường là rất nhỏ) các DNN&Vphải phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn đi
vay từ các TCTD.
Đối với các NHTM, sự ra đời của hàng loạt các TCTD với những hình
thức khác nhau và sự xâm nhập của hàng loạt các ngân hàng nước ngoài –
quy mô vốn lớn, khả năng cho vay đối với các doanh nghiệp cao trong thời
gian qua khiến cho sự canh tranh trở lên trở lên gay gắt hơn. Đồng thời các
Ngân hàng Cổ phần với chính sách cho vay hấp dẫn hấp dẫn đã tạo áp lực lớn
cho hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng quốc doanh. Trong điều kiện đó
đòi hỏi Ngân hàng quốc doanh phải có những biện pháp tìm kiếm khách hàng
mới phù hợp với khả năng của mình, DNN&V là một trong những đối tượng

khách hàng rất phù hợp.
Vì thế, đề tài : “ Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay
trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ ”
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
1
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
được chọn nhằm góp phần tổng kết lý luận và thực tiễn thông qua việc phân
tích tình hình cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh
NHNo&PTNT Láng Hạ, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt
động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT
Láng Hạ phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế.
Chuyên đề gồm 3 chương:

Chương 1 : Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM đối với
DNN&V.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với
DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Chương 3 : Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối
với các DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy
giáo TS. Đặng Ngọc Đức đã giúp dỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các cô chú, anh chị cán bộ Chi nhánh
NHNo&PTNT Láng Hạ đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ em
trong thời gian thực tập vừa qua.
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC

2
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA
NHTM ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. Các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.1.1 Khái niệm về DNN&V
Có nhiều căn cứ để phân loại doanh nghiệp, khi nói đến DNN&V là nói
đến cách phân lọai doanh nghiệp dựa vào quy mô của doanh nghiệp. Mỗi
quốc gia trên thế giới có đặc điểm riêng về nền kinh tế, trình độ phát triển nên
những quy định chung về DNN&V cũng khác nhau. Tuy nhiên, có thể đưa ra
một khái niệm chung nhất về DNN&V như sau: “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa

là những cơ sở sản xuất – kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì
mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định
tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được
trong từng thời kì theo quy định của từng quốc gia”.
Như vậy có thể nói, tiêu thức phân loại doanh nghiệp được sử dụng phổ
biến trên thế giới là:
+ Vốn sản xuất
+ Số lao động thường xuyên
+ Doanh thu
+ Lợi nhuận
+ Giá trị gia tăng
Trong số các tiêu thức trên thì quy mô vốn và số lượng lao động là

những tiêu thức được sử dụng phổ biến nhất. Ở mỗi nước, sự phân chia
DNN&V cững không giống nhau và còn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh,
ví dụ như: ở Nhật Bản các DNN&V thuộc khu vực sản xuất phải có số vốn
dưới 1 triệu USD và số lao động không quá 300 người, còn khu vực thương
mại dịch vụ thì có vốn dưới 300.000USD và lao động không quá 100 người.
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
3
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
Tại Đài Loan, các doanh nghiệp trong ngành xây dựng có số vốn dưới 1,4
triệu USD, lao động dưới 300 người; trong khu vực công nghiệp khai khoáng
có số vốn dưới 1,4 triệu USD và không quá 500 lao động là DNN&V.
Tại Việt Nam, Nghị định số 90/2001/NĐ – CP ra ngày 23/11/2001 quy

định rõ: “DNN&V là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn dăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc có
số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người ”.
Theo quy định này, DNN&V ở nước ta gồm các loại hình cơ sở sản xuất
kinh doanh tồn tại trong tất cả các thành phần kinh tế, và thuộc các hình thức
sở hữu sau:
+ Doanh nghiệp Nhà nước
+ Công ty Cổ phần, hợp danh
+Công ty trách nhiệm hữu hạn
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
+ Doanh nghiệp tư nhân
+ Hợp tác xã

+ Hộ kinh doanh các thể
1.1.2 Đặc điểm cơ bản của DNN&V
Trong thời gian qua, các DNN&V đã và đang chiếm một vị trí quan
trọng đối với nền kinh tế của bất kì một quốc gia nào. Trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế và tự do thương mại như hiện nay DNN&V càng phát huy
được lợi thế, bao gồm:
1.1.2.1 Những ưu thế:
- DNN&V rất năng động, linh hoạt, có khả năng thích ứng cao trước sự
thay đổi của thị trường. DNN&V có thể chuyển đổi hàng hóa mà mình cung
cấp, chuyển hướng kinh doanh theo nguyên tắc kết hợp chuyên môn hóa với đa
dạng hóa trên cơ sở đổi mới công nghệ, tăng cường liên doanh liên kết. Đồng
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC

4
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
thời với cơ sở vật chất kĩ thuật không lớn, DNN&V dễ dàng chuyển đổi hướng
sản xuất hoặc thu hẹp quy mô mà không sợ gây ra những hậu quả nặng nề.
- Với tính chất nhỏ gọn, DNN&V chỉ cần đầu tư ít vốn vẫn có khả năng
trang bị những máy móc với công nghệ cao và tương đối hiện đại. Tổ chức
gọn nhẹ góp phần tiết kiệm chi phí quản lí, nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp.
- DNN&V cần ít diện tích đất sản xuất tập trung, có khả năng sản xuất
nhỏ lẻ, do đó có thể tận dụng được các nguồn lực phân tán, phát huy được
tiềm lực tại các địa phương trong cả nước như: khai thác tài nguyên tại chỗ,
thu hút lao động có sẵn tại địa phương.

- Vốn đầu tư ban đầu của DNN&V tuy ít nhưng mang lại hiệu quả kinh
tế cao, thu hồi vốn nhanh do đó có khả năng thu hút nhiều cá nhân, tổ chức ở
mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này.
1.1.2.2 Những bất lợi:
- Khả năng cạnh tranh thấp dó tiềm lực về kinh tế yếu: DNN&V có
vốn chủ sở hữu ít, mặt khác thường thiếu tài sản thế chấp nên rất khó để
vay vốn ngân hàng, còn việc huy động vốn trên thị trướng chứng khoán
cũng rất khó khăn. Nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động được chủ yếu
là từ người thân, bạn bè. Do đó DNN&V luôn thiếu vốn làm hạn chế
cũng như bỏ lỡ mất cơ hội kinh doanh, không đáp ứng được yêu cầu mở
rộng sản xuất, dẫn đến khả năng tự tích lũy của các doanh nghiệp cũng bị
hạn chế.

- Khả năng hạn hẹp trong việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực, nghiên
cứu, cải tiến công nghệ, đổi mới sản phẩm: do hạn chế về vốn nên có những
kế hoạch và chiến lược phát triển tốt bị bỏ qua dẫn đến khả năng cạnh tranh
trên thị trường của các doanh nghiệp này thấp.
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
5
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
- DNN&V với quy mô kinh doanh không lớn, khả năng tài chính hạn
hẹp, sức cạnh tranh thấp do đó trong nhiều trường hợp thường bị động vì phụ
thuộc vào hướng phát triển của các doanh nghiệp lớn.
1.1.3 Vai trò của DNN&V
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song với những lợi thế của mình các

DNN&V ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia, kể cả nước có trình độ phát triển cao. Nhật Bản và các quốc gia
châu Á đều đánh giá cao vai trò của DNN&V trong quá trình phát triển kinh
tế của mình, trong đó Đài Loan được nhắc đến như là một điển hình tành
công, là vương quốc của DNN&V. Năm 2000, DNN&V Đài Loan chiếm
khoảng 96% tổng số doanh nghiệp, tạo ra khoảng 40% sản lượng công
nghiệp, hơn 50% giá trị xuất khẩu và tạo ra hơn 70% công ăn việc làm mới.
Đặc biệt, nhờ có DNN&V mà nền kinh tế Đài Loan đã giữ được ổn định
trong cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997. Ở Đức, khu vực
DNN&V nắm giữ một vị trí quan trọng đối với nền kinh tế, nó tạo ra 50%
GDP, chiếm hơn 1/2 doanh thu chịu thuế của các doanh nghiệp, cung cấp các
loại hàng hóa dịch vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong và

ngoài nước.
Tại Việt Nam, các DNN&V được phát triển một cách chính thức kể từ
khi có sự ra đời của Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty áp dụng vào
năm 1990 và sửa đổi thành Luật doanh nghiệp năm 1999. Từ đó, số lượng
DNN&V ở nước ta ngày càng gia tăng một cách mạnh mẽ. Hiện nay,
DNN&V ở Việt Nam chiếm khoảng 97% trong tổng số hơn 200.000 doanh
nghiệp đã thành lập trên toàn quốc. Các doanh nghiệp này đang đóng góp
khoảng 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, tạo ra hơn
49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và thu hút hơn 26% lao động
trong cả nước. Tuy nhiên đây chỉ là con số đóng góp trực tiếp, ngoài ra
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
6

ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
DNN&V còn có vai trò lớn trong mối quan hệ gắn kết với các doanh
nghiệp lớn hơn.
Như vậy ta có thể khẳng định rằng đối với bất kì nền kinh tế nào thì
DNN&V cũng đóng một vai trò quan trọng, thể hiện ở:
- Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, đóng góp đáng kể vào
sự phát triển ổn định của của mỗi quốc gia. Khi các DNN&V hoạt động tích
cực và hiệu quả thì sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự, phá vỡ một phần
thế độc quyền của một số doanh nghiệp lớn, làm cho hàng hóa dịch vụ rẻ hơn,
phục vụ tốt nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài ra các DNN&V có khả năng
thay đổi mặt hàng, công nghệ, chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền
kinh tế năng động hơn. Mặt khác, các DNN&V đóng góp vào GDP với một tỷ

trọng tương đối lớn, do đó việc phát triển DNN&V có vai trò quan trọng trong
sự phát triển của nền kinh tế.
- Thu hút lao động, tạo ra nhiều việc làm với chi phí đầu tư thấp, góp
phần giảm thất nghiệp. Nhìn chung, theo các số liệu thống kê ở một số
nước châu Á thì các DNN&V chiếm khoảng 81 – 98% số doanh nghiệp,
thu hút khoảng 30 – 60% lao động. Ở Việt Nam, số lượng DNN&V chiếm
khoảng 97% trong tổng số doanh nghiệp đã đăng kí hoạt động, đóng góp
khoảng 26% GDP của nền kinh tếvà thu hút khoảng 26% lực lượng lao
động trong cả nước.
- Tạo nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho dân cư, góp phần giảm
bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, tạo sự phát triển đồng
đều giữa các vùng trong cả nước do DNN&V có khả năng tận dụng những

tiềm năng sẵn có tại địa phương. Việc phát triển các doanh nghiệp thuộc
ngành nghề truyền thống trong nông thôn hiện nay là một trong những hướng
quan trọng và được Nhà nước hết sức hỗ trợ vì không những làm tăng thu
nhập cho người dân mà còn góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc.
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
7
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
- DNN&V hỗ trợ các doanh nghiệp lớn nâng cao hiệu quả kinh tế. Thực
tiễn cho thấy một nền kinh tế có công nghệ hiện đại sẽ không hoàn chỉnh và
không hiệu quả nếu không có những doanh nghiệp lớn và những doanh
nghiệp có quy mô nhỏ hơn. Mối liên hệ thể hiện thông qua việc doanh nghiệp
lớn cung cấp nguyên liệu sơ chế, thành phẩm, thiết bị, máy móc cho các

doanh nghiệp nhỏ. Đồng thời các DNN&V tiếp nhận việc xây dựng cơ sở sản
xuất và trang thiết bị, chế tạo các bộ phận đơn giản, cung cấp các dịch vụ
công nghiệp như lắp đặt, sửa chữa bảo dưỡng, … cho các doanh nghiệp lớn.
Ngoài ra, DNN&V còn đóng vai trò làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp
lớn, giúp tiêu thụ hàng hóa, thâm nhập vào các ngõ ngách của thị trường mà
các doanh nghiệp lớn không tới được.
- Khu vực DNN&V đặc biệt là các DNN&V ở nông thôn phát triển góp
phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghịêp hóa. Các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên, phát triển nhiều ngành nghề đa
dạng, phong phú, doanh nghiệp đươc phân bố đều hơn. Các doanh nghiệp ở
nông thôn như: doanh nghiệp chế biến nông sản, phát triển các ngành nghề ở
địa phương, … không những tạo đầu ra cho nguyên liệu từ nông nghiệp, nâng

cao giá trị của nông sản mà còn thu hút lao động từ khu vực nông thôn, góp
phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Có thể nói, sự phát
triển của DNN&V ở nông thôn đã làm hài hòa các mối quan hệ giữa nông
nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, góp phần xây dựng và
phát triển nông thôn mới, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
- DNN&V nếu có điều kiện phát triển tốt thì đây chính là môi trường
hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động. Cùng với
việc phát triển các DNN&V là sự xuất hiện các nhà kinh doanh sang lập,
bắt đầu kinh doanh với quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý sẽ
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
8
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp

được thử thách, đào tạo và tích lũy kinh nghiệm trở thành những nhà
doanh nghiệp lớn.
Đối với Việt Nam, một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp hơn so
với các nước trong khu vực và trên thế giới, đang trong thời kì đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì vai trò của DNN&V lại càng quan trọng.
Do đó, Nghị quyết TW khóa X đã nhấn mạnh: “ DNN&V là lọai hình doanh
nghiệp rất phù hợp để phát huy mọi tiềm năng cho việc phát triển kinh tế và
bước đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, phải quan tâm
tới mọi thuận lợi cho DNN&V, kinh tế hộ gia đình phát triển”. Đây có thể
coi là một chủ trương đúng của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với đặc điểm
nền kinh tế hiện nay.
1.2 Hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V của NHTM

1.2.1Các vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM
1.2.1.1 Khái niệm cho vay trung, dài hạn của ngân hàng
Cho vay là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa hai chủ
thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng
trong thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản ca kết hoàn trả
theo thời gian đã thỏa thuận.
Cho vay trung, dài hạn là các khoản cho vay của ngân hàng có thời hạn từ
một năm trở lên. Việc phân chia cụ thể hoạt động cho vay trung, dài hạn tùy
thuộc vào quy định của từng quốc gia, thông thường:
Cho vay trung hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm
để tài trợ mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kĩ thuật, mở rộng công
trình có thời hạn thu hồi vốn nhanh.

Cho vay dài hạn là những khoản cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên được sử
dụng để xây dựng, cải tạo hay hoàn thiện đồng bộ dây chuyền công nghệ.
1.2.1.2 Đặc điểm của hoạt động cho vay trung, dài hạn của NHTM
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
9
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
Có nhiều căn cứ để phân loại hoạt động cho vay của NHTM, nếu căn cứ
vào thời hạn thì có thể phân thành: cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và
cho vay dài hạn. Cho vay trung và dài hạn là những khoản vay có kỳ hạn vay
từ 12 tháng trở lên, có những đặc điểm sau:
a, Về đối tượng cho vay: Những khoản cho vay trung, dài hạn chủ yếu
được tài trợ cho những hoạt động đầu tư trung và dài hạn kéo dài từ 1 năm trở

lên như mua sắm thiết bị , đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, thực hiện các dự án đầu tư.
b, Về lãi suất cho vay: Do mức độ rủi ro cao nên lãi suất cho vay trung,
dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Lãi suất cho vay trung, dài
hạn có thể là lãi suất cố định hoặc lãi suất quy định thay đổi theo mức lãi suất
thị trường. Việc quy định mức lãi suất cụ thể của từng ngân hàng có thể dựa
vào mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố hoặc mức lãi suất của một số thị
trường liên ngân hàng quan trọng.
c, Về kì hạn trả nợ: thời gian hoàn vốn của các khoản vay trung, dài hạn
là rất chậm. Nguồn hoàn trả tiền vay của các doanh nghiệp chủ yếu được lấy
từ quỹ khấu hao và một phần từ lợi nhuận chính của dự án mang lại. Để giảm
mức độ rủi ro của loại hình cho vay này, các NHTM thường thông qua việc

tạo ra một kì hạn trả nợ hợp lí. Thông thường thì nợ trung, dài hạn được hoàn
trả theo hình thức phân kì, ở mỗi kì trả nợ người vay sẽ trả một khoản nhất
định: có thể theo niên kim cố định hoặc theo niên kim không cố định. Tất cả
các yếu tố như: thời hạn cho vay , kì hạn trả nợ, số tiền trả nợ từng kì đều
đựơc xác định theo tính chất của khoản vay, khả năng chu chuyển vốn vay
phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh, nguồn vốn của khách hàng và được
ghi rõ ràng trong hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ.
Khi sử dụng vốn vay trung, dài hạn người vay phải tuân thủ theo nguyên
tắc sử dụng vốn đúng mục đích:
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
10
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp

Khi muốn vay vốn trung, dài hạn thì người vay phải soạn thảo dự án, kế
hoạch kinh doanh của mình. Đó là cơ sở để người vay phân bổ vốn hợp lý cho
các khoản mục từ đó ngân hàng có thể thẩm định khả năng trả nợ của người
vay và tiến hành cho vay. Các khoản mục sử dụng vốn vay trung và dài hạn
có thể bao gồm: Chi phí thuê mua đất làm mặt bằng sản xuất, chi phí xây
dựng nhà xưởng, chi phí hình thành tài sản cố định … và một phần đầu tư vào
tài sản lưu động ròng.
Các dự án, chương trình kinh doanh xin vay vốn phải nằm trong chương
trình phát triển kinh tế chung của địa phương, của vùng, của Nhà nước và các
dự án đó phải được các cơ quan có thẩm quyền thẩm định và cho phép thực
hiện. Biết trước được mục đích sử dụng vốn của người vay giúp ngân hàng có
thể lượng hoá được mức độ rủi ro và có các biện pháp xử lý kịp thời. Bên

cạnh đó, ngân hàng cũng cần kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của khách
hàng để đảm bảo nó được thực hiên đúng như những thoả thuận ghi trong hợp
đồng tín dụng và không trái với các quy định pháp luật hiện hành.
d, Dự án vay vốn vay trung, dài hạn có hiệu quả kinh tế - xã hội cao:
Một dự án , kế hoạch kinh doanh muốn được vay vốn để thực hiện thì nó
phải có hiệu quả kinh tế - xã hội cao, những dự án có hiệu quả thấp không
được phép vay vốn vì nó sẽ dẫn đến sự hoàn trả vốn khó khăn và gây ra hậu
quả xấu cho nền kinh tế và có thể không được phép thực hiện.
Hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án là một tiêu chí quan trọng để thẩm
định dự án vay vốn, nó cho phép dự báo nguồn trả nợ trong tương lai do dự án
đem lại và những đóng góp củaviệc thực hiện dự án vào sự phát triển kinh tế
và giải quyết những vấn đề xã hội như: tạo việc làm và tăng thu nhập cho

người lao động …
e, Việc sử dụng vốn vay trung, dài hạn phải tuân theo kì hạn đã thỏa
thuận:
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
11
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
Theo quy định hiện hành, nguồn vốn vay trung, dài hạn là nguồn vốn vay
có kì hạn từ 12 tháng trở lên. Kì hạn cụ thể của từng khoản vay sẽ do khách
hàng và ngân hàng thoả thuận và được ghi trong hợp đồng tín dụng. Sở dĩ
phải có kì hạn cụ thể cho từng khoản vay là do nguồn huy động của ngân
hàng là có kì hạn, khi đến hạn ngân hàng phải hoàn trả cho người gửi thậm
chí phải trả ở bất kì thời điểm nào nếu người gửi yêu cầu. Mặt khác, xác định

rõ kì hạn cho vay trung, dài hạn nhằm giảm thiểu rủi ro mất vốn, rủi ro nợ xấu
cho các ngân hàng.
1.2.1.3 Các điều kiện vay vốn trung và dài hạn
NHTM cho vay trung, dài hạn đối với các doanh nghiệp chủ yếu là để tài
trợ cho đầu tư đổi mới, hiện đại hoá máy móc, trang thiết bị, thực hiện sản
xuất kinh doanh mới …
Do đặc điểm cho vay trung, dài hạn là vốn vay lớn, thời gian vay kéo
dài vì vậy mức độ rủi ro cao nên các NHTM hết sức thận trọng khi cho
vay. Một số yếu tố chủ yếu mà các NHTM thường xem xét khi cho vay
trung, dài hạn là:
a. Năng lực tài chính của khách hàng, hiệu quả của dự án đầu tư:
Năng lực tài chính hiện tại của khách hàng là một trong những yếu tố sẽ

quyết định tới khả năng trả nợ của khách hàng, vì vậy ngân hàng thường yên
tâm hơn khi cho các khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh vay vốn. Năng
lực tài chính của một khách hàng, cụ thể là một doanh nghiệp được thể hiện
qua bốn chỉ tiêu chủ yếu: khả năng thanh toán, quy mô và cơ cấu vốn, khả
năng hoạt động, khả năng sinh lời, … Thông qua việc phân tích các yếu tố
này, ngân hàng sẽ có cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính của doanh
nghiệp từ đó làm cơ sở quan trọng cho việc ra phán quyết cho vay.
Yếu tố quan trọng nhất khi cho vay theo dự án đó là hiệu quả về mặt tài
chính của dự án hay khả năng sinh lời của dự án vì nguồn trả nợ khi cho vay
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
12
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp

theo dự án bao gồm trích khấu hao và lợi nhuận hàng năm của dự án. Căn cứ
vào việc phân tích khả năng tiêu thụ của sản phẩm trên thị trường, công suất
thiết kế của tài sản cố định, thời gian thực hiện dự án, … nhà đầu tư sẽ tính toán
dòng tiền vào, ra thu nhập ròng của dự án làm cơ sở để tính toán hiệu quả về
mặt tài chính của dự án. Hiệu quả tài chính của dự án là một chỉ tiêu rất khó dự
đoán chính xác mà phải đến khi hoàn thành dự án mới đánh giá chính xác
được. Tuy nhiên, hiệu quả của dự án đựơc đánh giá mang tính dự báo thông qua
hệ thống các chỉ tiêu: Giá trị hiện tại ròng (NPV), tỉ suất hoàn vốn nội bộ (IRR),
thởi gian hoàn vốn đầu tư (PP) … Trong các chỉ tiêu trên, chỉ tiêu NPV là toàn
diện và được sử dụng nhiều nhất. NPV là giá trị hiện tại ròng, là số chênh lệch
giữa giá trị hiện tại của các luồng tiền thu với giá trị hiện tại của các khoản đầu
tư. Một dự án được đánh giá là có hiệu quả nếu NPV > 0.

Chỉ tiêu tỉ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) cũng là một chỉ tiêu thường được
dùng khi thẩm định dự án. IRR cho biết tỷ lệ sinh lời hàng năm trên một đồng
vốn bỏ đầu tư bỏ ra có được từ việc đầu tư vào dự án hay nói cách khác IRR
cho biết lợi nhuận tương đối của dự án, IRR là mức lãi suất mà tại đó giá trị
hiện tại ròng NPV=0. Một dự án được lựa chọn để đầu tư khi có tỉ suất hoàn
vốn nội bộ lớn hơn lãi suất chiết khấu.
Bên cạnh việc sử dụng chỉ tiêu NPV và IRR, khi đánh giá hiệu quả của
một dự án người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như: thời gian hoàn vốn,
chỉ số doanh lợi và phân tích điểm hoà vốn, … Hiện nay, một trong những
phương pháp được sử dụng phổ biến khi đánh giá hiệu quả của dự án đó là
phương pháp phân tích độ nhạy trên cơ sở lượng hoá mức độ rủi ro của dự án,
từ đó lượng hoá được sự thay đổi của các dòng tiền thu trong tương lai và

lượng hoá được sự thay đổi của các chỉ tiêu NPV, IRR. Có nhiều yếu tố ảnh
hưởng tới dòng tiền của dự án. Theo phương pháp phân tích độ nhạy, các yếu
tố này được thiết lập trên cơ sở phân bố xác suất và tính kì vọng chứ không
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
13
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
thể biết chắc chắn được. Ví dụ, khi một biến quan trọng như: lượng hàng bán
ra thay đổi sẽ dẫn tới dòng tiền thu thay đổi và NPV, IRR cũng thay đổi theo.
Thực hiện phương pháp phân tích độ nhạy là chỉ ra chính xác các chỉ tiêu tài
chính thay đổi như thế nào khi các biến đầu vào như nguyên liệu và biến đầu
ra như lượng hàng tiêu thụ thay đổi. Khi áp dụng phương pháp này và phân
tích yếu tố nào là nhạy cảm với sự thay đổi của dòng tiền nhất, và dự kiến

mức xấu nhất, trung bình và tốt nhất có thể xảy ra để đánh giá hiệu quả của
dự án trong các trường hợp đó.
b. Về tài sản đảm bảo
Cho vay trung, dài hạn có mức độ rủi ro rất cao nên để đảm bảo có
nguồn thu nợ thứ hai khi mà nguồn thu nợ thứ nhất là nguồn thu nợ từ thu
nhập của dự án không đạt được thì các NHTM thường yêu cầu bên vay phải
có tài sản đảm bảo. Giá trị của tài sản đảm bảo phải được tính sát với giá thị
trường. Tài sản đảm bảo phải là những tài sản có giá trị không bị hao hụt theo
thời gian và không gian, giá trị của tài sản đảm bảo phải lớn hơn giá trị khoản
vay. Theo quy định thì các NHTM được phép cho vay tối đa bằng 75% giá trị
của tài sản đảm bảo.
c. Khả năng của bộ máy quản lí doanh nghiệp

Cho vay trung, dài hạn có mức độ rủi ro cao nên khi ngân hàng quyết
định cho doanh nghiệp vay tức là ngân hàng đã quyết định gắn bó hoạt động
của mình với doanh nghiệp. Vì vậy, bất cứ sự biến động nào của doanh
nghiệp đều có khả năng ảnh hưởng tới ngân hàng, cụ thể là khả năng trả nợ
cho ngân hàng. Một bộ máy quản lý điều hành công việc tốt, khả năng xoay
trở linh hoạt trước mọi tình huống sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả hơn và từ đó khả năng trả nợ cho ngân hàng cũng được đảm bảo.
Một điều quan trọng khác cần phải xem xét, đó là vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường, khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác. Điều này
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
14
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp

cũng sẽ ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay
vốn, khả năng hoàn trả nợ từ thu nhập của dự án.
Bên cạnh đó cũng cần quan tâm tới các vấn đề chính trị, pháp luật, văn
hoá , xã hội liên quan đến dự án, những dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao và
nằm trong chương trình hỗ trợ của Chính phủ có thể được ưu đãi về nhiều mặt.
1.2.2 Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM đối với DNN&V
1.2.2.1 Sự cần thiết của hoạt động cho vay trung, dài hạn của NHTM đối với
DNN&V
Hoạt động cho vay được hình thành từ nhu cầu của hai phía: doanh nghiệp và
ngân hàng.
a, Xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp:
Đối với bất kì một doanh nghiệp nào, vốn là yếu tố không thể thiếu được

trong quá trình thành lập cũng như tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp cần có một số vốn nhất định để mua máy móc thiết bị, nguyên
vật liệu, thuê lao động. Khi tiến hành sản xuất, doanh nghiệp cần vốn để duy
trì hoạt động sản xuất kinh doanh một cách liên tục.
Tuy nhiên, nhu cầu vốn của doanh nghiệp thay đổi trong các thời kì khác
nhau. Những thay đổi của môi trường kinh doanh cũng như chính sách tài
chính, chu kì kinh tế, thay đổi thời vụ, … cũng ảnh hưởng đáng kể tới nhu cầu
vốn của doanh nghiệp. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế hiện nay, trước
những thách thức của thị trường, doanh nghiệp cần có những bước đi táo bạo
trong kinh doanh, dó đó nhu cầu vốn trung, dài hạn sẽ rất lớn. Trong khi đối
với DNN&V thì vốn tự có thường là rất thấp, không được hỗ trợ như các hình
thức doanh nghiệp khác nên cácDNN&V không thể chỉ trông chờ vào vốn tự

có của mình mà còn phải chú ý vào kênh huy động vốn khác để có một nguồn
tài chính ổn định và đáp ứng được nhu cầu kinh doanh .
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
15
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
Thực tế cho thấy, để huy động vốn doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều hình
thức khác nhau như: tín dụng thương mại, huy động vốn từ dân cư (qua con
đường phát hành chứng khoán) hay từ các trung gian tài chính mà điển hình là
Ngân hàng thương mại. Ngày nay, tín dụng ngân hàng là sự lựa chọn của khá
nhiều doanh nghiệp vì nó rất linh hoạt và nhiều trường hợp vay vốn tại ngân
hàng là sự lựa chọn tốt nhất của doanh nghiệp.
Trong xu thế mở rộng và phát triển kinh tế, số lượng các DNN&V không

ngừng tăng lên ở nhiều quốc gia và thành phần kinh tế này đựoc Nhà nước
khuyến khích phát triển, tạo điều kiện kinh doanh bình đẳng với các DNNN.
Chính vì thế nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất của các DNN&V không ngừng
tăng lên, tạo điều kiện để mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng đối với
các doanh nghiệp này.
b, Xuất phát từ nhu cầu của NHTM
Mở rộng hoạt động kinh doanh là yêu cầu tất yếu của bất cứ NHTM nào để
đáp ứng nhu cầu thay đổi của môi trường kinh doanh. Môi trường cạnh tranh
ngày càng gay gắt, các ngân hà ng không ngừng mở rộng hoạt động cho vay,
trong đó các DNN&V là đối tượng khách hàng mà các ngân hàng hiện nay
chú trọng phát triển.
Hơn nữa, bản chất của NHTM là nhận tiền gửi để cho vay. Ngân hàng sau khi

huy động vốn cần thực hiện hoạt động cho vay để tạo thu nhập, bù đắp chi phí
trả lãi và chi phí khác phát sinh trong quá trình huy động vốn. Do đó, cho vay
đối với DNN&V để thực hiện mục tiêu sinh lời của ngân hàng.
Tóm lại, việc hình thành và phát triển các khoản vay trung, dài hạn của
NHTM là thỏa mãn nhu cầu từ hai phía, NHTM cần đặt ra các điều kiện nhất
định đối với các DNN&V trên nguyên tắc hia bên cùng có lợi.
1.2.2.2 Vai trò của nguồn tín dụng trung, dài hạn của NHTM đối với các
DNN&V
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
16
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
a. Nguồn tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu

quả sản xuất kinh doanh của DNN&V
Khi vay vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì hiệu quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh là vấn được cả doanh nghiệp và ngân hàng
quan tâm. Đối với doanh nghiệp thì đó là lợi nhuận và thu nhập mang lại để
trả nợ ngân hàng, còn đối với ngân hàng thì có nguồn để thu nợ doanh nghiệp,
bảo toàn vốn cho vay và thu được lãi. Một trong những nguyên tắc cho vay
của ngân hàng đối với khách hàng đó là khách hàng trả nợ (bao gồm cả gốc
và lãi) đúng hạn. Điều này đòi hỏi các DNN&V khi đã vay được vốn rồi thì
luôn phải cố gắng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thông qua các biện pháp
quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị
trường một cách tốt nhất thì mới tạo ra nguồn thu nhập cho mình và trả nợ
ngân hàng. Mặt khác, trong hoạt động cho vay của mình, ngân hàng luôn thực

hiện biện pháp quản lý trước, trong và sau khi cho vay nhằm kiểm tra tính
đúng đắn trong mục đích sử dụng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp để có biện pháp xử lý kịp thời. Chính những vấn đề này đặt
doanh nghiệp trong điều kiện phải nỗ lực hết mình, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn một cách tối ưu thông qua hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
b. Đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, tạo điều kiện mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh của DNN&V
Thông thường, quy mô vốn của các doanh nghiệp đặc biệt các
DNN&V là rất thấp do vậy DNN&V bị hạn chế nhiều trong việc mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều trường hợp doanh nghiệp có
phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả song không thể huy động đủ vốn
để thực hiện. Nhu cầu vốn của doanh nghiệp chủ yếu nhằm tài trợ cho tài

sản lưư động và tài sản cố định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các
DNN&V có thể cần vốn đầu tư vào hang dự trữ, ngân quỹ, các khoản
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
17
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
phải thu, … do vậy phát sinh nhu cầu vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp mở
rộng quy mô hoạt động. Trường hợp khác, DNN&V có thể có phương án
mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc thực hiện một dự án đầu tư phát triển
vào một lĩnh vực nhất định, lúc này phát sinh nhu cầu vốn trung, dài hạn
để đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Do vậy, nguồn vốn vay từ ngân hàng
đóng vai trò rất quan trọng đối với kết quả và quy mô hoạt động của các
DNN&V trong tương lai. Hơn thế nữa trong trường hợp đầu tư dài hạn,

nhu cầu vốn lớn, nếu tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng thì chi phí
có thể thấp hơn các nguồn khác.
Có thể thấy, nguồn vốn vay từ ngân hàng giữ vai trò rất quan trọng đối
với hoạt động của DNN&V. Không những vậy, thông qua việc hỗ trợ cho
DNN&V, qua đó cũng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
1.3 Những nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng hoạt động cho vay trung,
dài hạn đối với DNN&V
1.3.1 Những nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Nguồn vốn cho vay:
Nguồn vốn cho vay của NHTM chủ yếu là từ nguồn huy động được. Vì thế,
để có thể mở rộng hoạt động cho vay thì trước hết Ngân hàng phải tạo ra một

nguồn vốn ổn định từ các kênh như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kì hạn, …
Nếu như nguồn vốn của ngân hàng dồi dào và ổn định thì ngân hàng mới có
thể mở rộng cho vay được, còn ngược lại năng lực về vốn của ngân hàng bị
hạn chế thì chỉ có thể duy trì các khách hàng truyền thống chứ chưa thể mở
rộng đối tượng đầu tư.
1.3.1.2 Chính sách tín dụng:
Để có thể thực hiện cho vay và thu hút được đông đảo khách hàng thì việc
xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý là điều rất cần thiết đối với bất kì
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
18
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
NHTM nào. Một chính sách tín dụng hợp lý, đúng đắn, linh hoạt và phù hợp

với từng giai đoạn phát triển sẽ đáp ứng được nhu cầu của mọi đối tượng
khách hàng đồng thời hướng dẫn cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng
trong hoạt động của mình, tạo sự thống nhất chung nhằm hạn chế rủi ro, nâng
cao khả năng sinh lời.
1.3.1.3 Chất lượng thẩm định tín dụng:
Thẩm định tín dụng là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình xét duyệt một
khoản vay. Quá trình thẩm định sẽ giúp cán bộ tín dụng ra quyết định có cho
vay hay không, và nó ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ rủi ro vỡ nợ mà khách
hàng gây ra. Đối với những khoản vay trung, dài hạn thời gian cho vay là dài,
giái trị khoản vay lớn nên công tác thẩm định lại càng giữ vị trí quan trọng.
Chất lượng thẩm định có ảnh hưởng lớn tới việc mở rộng hoạt động cho vay,
đặc biệt là cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V. Nếu quá trình thẩm định

tốt, kết quả thẩm định đáng tin cậy thì sẽ tạo thuận lợi cho ngân hàng khi ra
quyết định cho vay và có thể mạnh dạn cho vay đối với các khách hàng mới.
Còn nếu như kết quả thẩm định vẫn chưa hoàn toàn đáng tin cậy thì việc tiếp
cận với những khách hàng mới sẽ mang lại nhiều rủi ro cho ngân hàng.
1.3.1.4 Công nghệ trang thiết bị và chiến lược Marketing:
Công nghệ trang thiết bị hiện đại là điều kiện để đơn giản hóa các thủ tục, rút
ngắn thời gian giao dịch, đem lại sư tiện lợi tối đa cho cả khách hàng và ngân
hàng. Đó là tiền đề để thu hút thêm khách hàng, mở rộng hoạt động cho vay.
Một ngân hàng với cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại sẽ tạo được niềm tin đối
với khách hàng đồng thời là vũ khí cạnh tranh hiệu quả. Bên cạnh đó, chiến
lược Marketing sẽ cung cấp những thông tin cần thiết đến với khách hàng, tạo
điều kiện thuận lợi cho khách hiều biết về ngân hàng từ đó tìm kiếm thêm

khách hàng mới.
1.3.2 Nhân tố khách quan
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
19
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
1.3.2.1 Về phía doanh nghiệp:
a, Nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp:
Các loại hình doanh nghiệp đều có nhu cầu đầu tư phát triển mở rộng sản xuất
kinh doanh. Điều quan trọng là ngân hàng phải tiếp cận, tìm hiểu và gợi mở
những nhu cầu đó đồng thời tạo điều kiện đáp ứng đựoc nhu cầu của doanh
nghiệp. Mở rộng cho vay đối với các DNN&V đòi hỏi các ngân hàng phải
quan tâm đến những dự án đầu tư và xem xét khả năng đầu tư của các

DNN&V từ đó có thể xác định được khách hàng tiềm năng của mình.
b, Năng lực của các DNN&V:
Ngân hàng chỉ có thể cho doanh nghiệp vay vốn khi doanh nghiệp đáp ứng
được các điều kiện vay vốn. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có
phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả đồng thời phải có tài sản đảm bảo
cho khoản vay. Ngoài ra, năng lực quản lý và khả năng tài chính của doanh
nghiệp cũng ảnh hưởng rất lớn tới việc mở rộng hoạt động cho vay trung, dài
hạn đối với DNN&V của các ngân hàng. Nếu doanh nghiệp có khả năng tài
chính mạnh, đội ngũ cán bộ quản lý có kinh nghiệm và hiều biết sâu rộng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM mở rộng hoạt động cho vay trung, dài
hạn.
1.3.2.2 Nhân tố khác:

Một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng mở rộng hoạt
động cho vay trung, dài hạn của các NHTM là môi trường kinh tế. Sự phát
triển của nền kinh tế có tác động có tác động rất lớn đến nhu càu vốn vay của
các doanh nghiệp nói chung và các DNN&V nói riêng.Một nền kinh tế đang
trên đà phát triển ổn định, nhịp độ tăng trưởng cao, môi trường kinh doanh
thuận lợi sẽ túc đẩy các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, dẫn đến nhu
cầu vốn cao sẽ là điều kiện thuận lợi để NHTM mở rộng hoạt động cho vay.
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
20
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài ra, các nhân tố thuộc môi trường pháp lý trong nền kinh tế thị trường
có ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và

hoạt động của các ngân hàng. Nó tác động trực tiếp đến chiến lược sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng hoạt động cho vay của
NHTM đối với các doanh nghiệp này. Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn
chỉnh và thiếu đồng bộ, nó không những kìm hãm sự phát triển cảu các doanh
nghiệp, ảnh hưởng tới nhu cầu vốn của các doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng
tới hoạt động của ngân hang thông qua các quy định, quy chế cho vay, …
Điều đó sẽ tác động tới việc cho vay của các NHTM đối với các doanh nghiệp
nói chung và DNN&V nói riêng.
1.4 Kinh ngiệm trong việc mở rộng hoạt động cho vay trung, dài hạn đối
với DNN&V ở một số nước.
Việc mở rộng hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V phụ thuộc
vào nhiều yếu tố: trình độ phát triển của hệ thống tài chính - ngân hàng và

chính sách kinh tế, … Mỗi nước có những biện pháp hỗ trợ khác nhau để tăng
cường khả năng tiếp cận nguồn vốn vay NHTM của các DNN&V. Trong thời
gian qua, nhiều nước ttrên thế giới luôn đánh giá cao vai trò của DNN&V
trong quá trình phát triển kinh tế đất nước:
1.4.1Tại Đức
Khu vực DNN&Vgóp một phần quan trọng trong việc tạo ra thu nhập cho nền
kinh tế, đóng góp 50% vào GDP, chiếm hơn hẳn thu nhập chịu thuế của
doanh nghiệp, cung cấp các loại hàng hóa dịch vụ đpá ứng nhu cầu đa dạng
của người tiêu dung. Để có được những kết quả như vậy, Chính Phủ đã áp
dụng nhiều chính sách, chương trình khuyến khích và thúc đẩy DNN&V phát
triển.
Vì các doanh nghiệp này không đủ điều kiện thế chấp tài sản để có thể nhận

được các khoản tín dụng lớn bên cạnh những khoản tín dụng ưu đãi nên ở
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
21
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
nước này còn phát triển các tổ chức bảo lãnh tín dụng. Những tổ chức này ra
đời và hoạt động dưới sự kết hợp chặt chẽ của phòng Thương mại, Hiệp hội
doanh nghiệp - ngân hàng và chính quyền liên bang. Nguyên tắc hoạt động cơ
bản là vì khách hàng và DNN&V sẽ nhận được sự bảo lãnh của một tổ chức
bảo lãnh để nhận được khoản vay. Với sự giúp đỡ này, Đức đã khắc phục
được rất nhiều khó khăn trong việc đi vay của các DNN&V cũng như trong
việc cho vay của các ngân hàng.
1.4.2 Tại Nhật Bản

Các chính sách hỗ trợ cho DNN&V ở Nhật Bản được hình thành từ những
năm 1950 nhằm giúp các doanh nghiệp này tháo gỡ những khó khăn, cản trở
việc phát vốn cũng như khả năng tiếp cận tín dụng thấp, thiếu sự đảm bảo về
vay vốn, … các biện pháp hỗ trợ này đã được thực hiện thông qua hình thức
hỗ trợ tín dụng và các tổ chức tài chính công cộng phục vụ DNN&V. Hệ
thống này giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận được với các nguồn tín dụng,
tạo điều kiện cho họ vay vốn của các tổ chức tín dụng tư nhân thông qua sự
bảo lãnh của Hiệp hội bảo lãnh tín dụng trên cơ sở đồng bảo lãnh. Ngoài ra,
còn có 3 tổ chức tín dụng công cộng khác đó là: Công ty tài chính DNN&V,
Công ty tài chính nhân dân và Ngân hàng Shokochulin do Chính phủ đầu tư
thành lập toàn bộ hay một phần nhằm nở rộng cho vay đối với DNN&V.
1.4.3 Tại Malaysia

Trong kế hoạch tổng thể lần thứ hai của Malaysia từ 1991- 2001 đã khẳng
định rõ vai trò quan trọng của các DNN&V trong công cuộc hiện đại hóa đất
nước. Do vậy, trong thời kì này Chính phủ đã thông qua chương trình hỗ trợ
DNN&V như: các chương trình về thị trường và hỗ trợ kỹ thuật, chương trình
cho vay ưu đãi, chương trình công nghệ thông tin nhằm giúp các DNN&V có
được lượng vốn cần thiết để cải tiến chất lượng và cơ sở hạ tầng, … để từ đó
thúc đẩy các DNN&V phát triển và kết quả là ngân hàng có thể mở rộng hoạt
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
22
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
động cho vay trung, dài hạn đối với các DNN&V mà không ngại về điều kiện
ban đầu. Với những kinh ngiệm trên, mặc dù Đức, Nhật Bản và Malaysia,

mỗi nước đều có sự khác biệt về khả năng phát triển kinh tế song Chính phủ
các nước đều có sự quan tâm đặc biệt trong việc mở rộng hoạt động cho vay
trung, dài hạn đối với DNN&V. Thực tế đã có sự thành công và đây cũng sẽ
là bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo để đưa ra những giải
pháp giúp DNN&V tiếp cận được với nguồn vốn trung, dài hạn của ngân
hàng.
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
23
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN
ĐỐI VỚI DNN&V TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT LÁNG HẠ
2.1 Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển Chi nhánh

NHNo&PTNT Láng Hạ
2.1.1 Bối cảnh ra đời của Chi nhánh
Năm 1996 hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã có bước phát
triển mới, góp phần không nhỏ đáp ứng yêu cầu cung cấp vốn cho các thành
phần kinh tế trên mọi miền đất nước mà đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn và nông dân.
Ngày 15/11/1996 theo quyết định số 280/QĐ-NHNN của thống đốc
Ngân hàng nhà nước Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền đổi tên
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển Nông thôn Việt Nam. Với tên gọi mới, Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển Nông thôn Việt Nam đựơc xác định thêm nhiệm vụ mới: đầu tư phát
triển đối với khu vực nông thôn qua việc mở rộng đầu tư vốn trung, dài hạn

phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Để thực hiện nhiệm vụ xây dựng ngân hàng trong giai đoạn mới nhằm
đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế đất nước sau 10 năm đổi mới, đòi hỏi các tổ
chức tín dụng phải đa năng hơn trong hoạt động kinh doanh nhằm tạo lợi thế
cạnh tranh, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình phát triển bền vững đổi mới
kinh tế dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII. Trong bối cảnh
đó Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam đã thể hiện
định hướng chiến lược có ý nghĩa quan trọng: củng cố và giữ vững thị trường
nông thôn, tiếp cận nhanh và từng bước chiếm lĩnh thị phần tại thị trường
thành thị, phát triển kinh doanh đa năng, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng,
góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước.
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC

24
ĐHKTQD Chuyên đề tốt nghiệp
Từ thực tiễn trên, cùng với việc ra đời của một số chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp tại các thành phố lớn, khu đô thị và trung tâm kinh tế trên mọi
miền đất nước trong giai đoạn 1996-1997. Ngày 1/8/1996 tại quyết định số
334/QĐ-NHNo-02 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
Nông thôn Việt Nam, Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ được thành lập và
chính thức đi vào hoạt động từ ngày 17/3/1997. Chi nhánh có trụ sở tại 44
Láng Hạ (nay là số 24 Láng Hạ - quận Đống Đa – Hà Nội)
Sự ra đời của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ là bước mở đầu cho sự
phát triển của NHNo&PTNT Việt Nam tại các địa bàn đô thị, khu công
nghiệp và trung tâm kinh tế trên mọi miền đất nước, thể hiện hướng đi đúng

trong bước phát triển tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của hệ thống
NHNo&PTNT Việt Nam. Sự ra đời của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ
trong giai đoạn này đã góp phần không nhỏ làm cho quy mô và phạm vi hoạt
động cũng như năng lực vị thế của hệ thống NHNo trên địa bàn thủ đô được
mở rộng và nâng cao thêm, đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh trong giai
đoạn mới, giai đoạn khắc phục khó khăn khách quan và chủ quan, ổn định
phát triển mạnh mẽ theo hướng Ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam,
tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên thế giới.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước và toàn hệ thống
NHNo&PTNT Việt Nam sau 15 năm đổi mới, chi nhánh Láng Hạ qua 10 năm
xây dựng và trưởng thành đã tùng bước trưởng thành, góp phần khẳng định vị
thế của hệ thống NHNo trên địa bàn Thủ đô với những thành tích đáng khích

lệ. Chi nhánh đã huy động được một lượng vốn đáng kể, không những đảm
bảo cho chi nhánh chủ động đầu tư tín dụng góp phần tăng hiệu quả đối với
các thành phần kinh tế trên địa bàn Thủ đô mà còn điều chuyển nguồn vốn về
trung tâm điều hành. Ngày đầu mới thành lập CN chỉ có 13 cán bộ viên chức
với 2 phòng chức năng là kế hoạch kinh doanh và kế toán ngân quỹ, tuy nhiên
Phạm Thu Nga – TCDN45B Khoa NH – TC
25

×