Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Bệnh cúm ở người lớn và trẻ em pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.7 KB, 3 trang )

Bệnh cúm ở người lớn và trẻ em
I. Định nghĩa:
Cúm là một bệnh nhiễm virut ,lây truyền mạnh, có thể thành dịch, biểu hiện bởi
sốt, viêm đường hô hấp trên, các biến chứng về phế quản và phổi, nặng hay nhẹ
tùy theo từng vụ dịch và tùy theo cơ địa của mỗi bệnh nhân.
II.Nguyên nhân:
Tác nhân gây bệnh là virut Orthomyxovirus influenzae, gồm có 3 type A,B,C phân
biệt nhờ các phản ứng huyết thanh. Mỗi type thường có nhiều phân type, và những
kháng nguyên khác nhau. Các kháng nguyên nầy, nhất là của type A, thường biến
đổi. Do đó, đối với virut cúm type A, người ta thường ký hiệu theo thứ tự sau: nơi
phát hiện ra virut, năm phát hiện,chỉ số kháng nguyên H (hémagglutinine) và
kháng nguyên N (neuramidase). Virut cúm lây trực tiếp,qua những giọt nhỏ nước
bọt bắn ra khi bệnh nhân hay người lành mang trùng ho, hắt hơi, hay nói chuyện
.Cúm ở động vật (ngựa, bò, chim) không lây sang cho người, nhưng có lẽ là nguồn
gốc của các chủng mới gây bệnh ở người.
III.Dịch tễ học:
Các vụ dịch cúm thường xẩy ra có chu kỳ, và thường gây ra do các virut type A và
type B. Các virut cúm type C hiếm khi gây nên dịch thật sự,chúng chỉ gây nên
những ca nhiễm trùng tiềm ẩn hay những vụ dịch nhỏ ở trẻ em.Khảo sát huyết
thanh cho thấy, từ 15 tuổi trở lên, 100% các quần thể được nghiên cứu ở nhiều
nước đều có kháng thể chống vrut cúm C.Người ta cũng có nhận xét rằng, mặc
dầu không hòan tòan tuyệt đối, các vụ dịch cúm do virut type A thường có chu kỳ
2-3 năm, trong khi dịch do virut type B thường từ 4 đến 6 năm.Tuy nhiên cả hai
type virut A và B đều có thể xẩy ra trong cùng một mùa dịch cúm.
Tất cả các đại dịch cúm tòan cầu cho đến nay đều do virut cúm type A gây ra, do
sự thay đổi kháng nguyên.Từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay, lịch sử y học đã ghi nhận
ít nhất 3 vụ đại dịch tòan cầu.
Dịch cúm thường xẩy ra vào mùa lạnh, từ cuối thu cho đến đầu xuân.Trong một
quần thể dân cư, dịch đạt đến cao điểm trong vòng hai tuần kể từ lúc khởi đầu, và
dịch thường kéo dài chừng hơn 1 tháng.Tỷ số tấn công (attack rate) có thể lên đến
40%, với số bệnh mới (incidence) cao nhất ở độ tuổi 5-15 tuổi.Trong nhóm từ 40


tuổi trở đi, tần số mới mắc giảm dần.Từ sau đại dịch 1919 đến nay , tỷ lệ tử vong
trong những vụ dịch cúm giảm dần, chỉ dao động trong khỏang 1% và thường xẩy
ra ở trong những nhóm hoặc rất trẻ, hoặc rất già,có thai,, những người có bệnh tim
phổi mạn tính,bệnh về chuyển hóa như đái đường, suy thận mạn,…
Hình như virut cúm là lọai virut gây bệnh chỉ riêng cho lòai người, mặc dầu người
ta đã phân lập được một số chủng từ lợn và ngựa, có kháng nguyên liên hệ đến
virut cúm gây bệnh ở người.Đến nay chúng ta vẫn chưa biết virut cúm tồn tại ở
đâu trong thời gian không có dịch cúm.Ngay cả hiện tượng dịch cúm xẩy ra theo
mùa cũng chưa được giải thích tường tận.Sự xuất hiện đồng thời những vụ dịch
cúm nhỏ ở những địa phương rất xa cách nhau cũng rất khó lý giải, dù hiện nay
phương tiện giao thông rất nhanh chóng.Có thể trong các quần thể nầy, mầm virut
đã có sẵn qua những ca mắc bệnh rải rác xẩy ra hàng tuần trước khi dịch bùng nổ.
Các đại dịch thường do sự đột biến kháng nguyên của virut A gây nên, chủ yếu
với hai kháng nguyên H và N. Đến nay chúng ta đã biết các lọai virut có kháng
nguyên H1N1, H2N2,H3N2 và các biến chủng của chúng.
Ở nước ta,do không đủ phương tiện để chẩn đóan về mặt virut, nên không thể
phân biệt được một cách rõ ràng cúm với các loại virut khác gây một bệnh cảnh
tương tự. Do đó số liệu về cúm ở nước ta không có được chính xác. Tuy nhiên
chúng ta thường dựa vào tính chất lan truyền nhanh thành dịch, tình trạng suy
nhược kéo dài sau khi đã mất các triệu chứng lâm sàng, để lọai suy rằng đó là
cúm.
IV.Giải phẫu bệnh:
Ở đường hô hấp trên, có họai tử các tế bào biểu bì có tiêm mao, xuất hiện các chất
xuất tiết gồm các tế bào lympho, chất nhầy, và các mảnh vụn của các tế bào bị
bong ra do nhiễm virut.Trong những trường hợp không có biến chứng, các tế bào
biểu bì sẽ tái sinh trong vài ba ngày từ lớp tế bào nền.Trong những trường hợp có
biến chứng hay bội nhiễm, sẽ có hình ảnh viêm phế quản hay phế quản phế
viêm.các phế bào bị phù, phổi thường đen và xung huyết.


×