Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

ĐỀ TÀI: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.45 KB, 23 trang )

TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ĐỀ TÀI: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM HIỆN NAY
DANH SÁCH NHÓM
1. Hồ Thị Trà My 4. Lê Thị Oanh
2. Phạm Thị Thùy Linh 5. Ngô Thị Hằng
3. Vũ Khánh Hoài 6. Trần Khánh Chi
NỘI DUNG CHÍNH
1.TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Khái niệm
1.2.Vai trò của ngân hàng thương mại
1.3.Phân loại NHTM
1.4.Các hoạt động cơ bản của NHTM
2.HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những mốc sự kiện quan trọng
2.2.Quy mô
1
2.3.Trần lãi suất
2.4.Tăng trưởng tín dụng
2.5.Nợ xấu
3.GIẢI PHÁP
2
1.TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
• Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát
triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) đã có tác động
rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng
hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày
càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
1.1. Khái niệm:
• Ở Việt Nam: Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền


tệ,tín dụng mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán
Từ đó có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa
dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch
vụ thanh toán hay nói cách khác Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức,
hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ
khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
1.2.1.Trung gian tín dụng
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa
người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng
vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh
lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham
gia: người gửi tiền và người đi vay.
1.2.2.Trung gian thanh toán
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh
toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền
hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các
khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh
toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy
theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các
chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh
3
toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản
thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo
thanh toán an toàn.
Chức năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán,
tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.

1.2.3.Tạo tiền
Tạo tiền là một vai trò quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân NHTM. Với mục tiêu là
tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM
với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo
tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM
là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân
hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng
để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách
hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh
toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền
phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với nhtm. Do vậy
ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.
1.2.4.Cung cấp dịch vụ tài chính
• Tư vấn tài chính
• Môi giới tài chính
• Lưu kí chứng khoán
• Mở tài khoản ký quỹ kinh doanh chứng khoán
• Ngân quỹ và chuyển tiền thanh toán
• Uỷ thác, bảo quản, chi hộ, mua bán hộ
• Dịch vụ ngân hàng điện tử
1.3. Phân loại NHTM:
1.3.1.Dựa vào hình thức sở hữu:
• NHTM quốc doanh (NHTM nhà nước): NHTM được thành lập bằng 100% vốn NSNN
Là NHTM do nhà nước thành lập, toàn bộ vốn hoạt động đều do nhà nước đầu tư nhằm góp phần
thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước.
4
• NHTM cổ phần: NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần, vốn hoạt động do các
cổ đông góp. Trong đó có các doanh nghiệp nhà nước, các thành phần kinh tế,các tổ chức tín
dụng và các cá nhân cùng góp vốn theo quy định của pháp luật nước CHXHCN Việt Nam. Riêng

các tập đoàn tài chính và ngân hàng của nước ngoài chỉ được phép góp vốn tối đa 30% cổ phần
tại các NHTM Việt Nam. Loại hình ngân hàng này hiện tại nhỏ hơn NHTM nhà nước về quy mô
nhưng về số lượng thì nhiều hơn và ngày càng tỏ ra năng động và đổi mới công nghệ nhằm mục
tiêu hội nhập.
• NHTM liên doanh: NHTM thành lập bằng vốn liên doanh giữa một bên NHVN và một NH nước
ngoài có trụ sở tại VN. Ngân hàng liên doanh là một pháp nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại
VN, hoạt động theo giấy phép thành lập và theo các quy định liên quan của pháp luật
• NHTM 100% vốn nước ngoài: NHTM được thành lập bằng 100% vốn của nước ngoài và hoạt
động theo luật pháp VN. Dạng ngân hàng này có tư cách pháp nhân, có quyền lập hội sở, mở
rộng chi nhánh và có đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ như các NHTM trong nước theo luật pháp
VN.
• Chi nhánh NHTM nước ngoài: NHTM được lập theo luật nước ngoài, được phép mở chi nhánh
tại VN,hoạt động theo pháp luật VN. Các chi nhánh này được ngân hàng mẹ tại nước ngoài đầu
tư vốn và bảo đảm chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ mà luật pháp VN quy định.
1.4. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.4.1.Hoạt động huy động vốn:
Huy động nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng như
đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, NHTM được phép sử dụng những công cụ và biện pháp cần
thiết mà luật pháp cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn tín
dụng để cho vay đối với nền kinh tế.
Vốn huy động là vốn của các chủ sở hữu khá nhau trong xã hội được NHTM huy động với
trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo đúng thỏa thuận. Nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng vốn kinh doanh.
1.4.2.Hoạt động cho vay:
Là tín dụng nghiệp vụ của NHTM. Trong đó NHTM sẽ cho người đi vay, vay một số vốn để
sản suất kinh doanh, đầu tư hoặc tiêu dùng. Khi đến hạn người đi vay phải hoàn trả vốn và tiền
lãi. Ngân hàng kiểm soát được người đi vay, kiểm soát được quá trình sử dụng vốn. Người đi
vay có ý thức trả nợ cho nên bắt buộc họ phải quan tâm đến việc sử dụng làm sao có hiệu quả để
hoàn trả nợ vay. Trong cho vay thì mức độ rủi ro rất lớn, không thu hồi được vốn vay hoặc trả
không hết hoặc không đúng hạn…do chủ quan hoặc khách quan. Do đó khi cho vay các ngân

hàng cần sử dụng các biện pháp bảo đảm vốn vay: thế chấp, cầm cố…
1.4.3.Hoạt động kinh doanh tiền tệ:
Là một trong những nghiệp vụ kinh doanh đem lại cho NH nhiều lợi nhuận. Mục đích của
hoạt động mua bán ngoại tệ là để đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của khách hàng một cách nhanh
chóng và thuận lợi nhất, nâng cao chất lượng trong việc cung cấp dịch vụ đối với khách hàng,
thu lợi nhuận từ chênh lệch tỷ giá mua bán.
1.4.4.Hoạt động thanh toán:
5
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân
hàng,NHTM được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước. Để thực hiện thanh toán
giữa các Ngân hàng với nhau thông qua NHNN, NHTM phải mở tài khoản tại NHNN nơi
NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra,
chi nhánh của NHTM được mở tài khoản tiền gửi tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành
phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán của NHTM bao gồm các hoạt
động sau:
• Cung cấp các phương tiện thanh toán.
• Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
• Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ
• Thực hiện các dịch vụ thanh tóan khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước.
• Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng nhà nước cho phép
• Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng
• Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên Ngân hàng trong nước
• Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng nhà nước cho phép.
1.4.5.Hoạt động đầu tư tài chính:
• Cho thuê tài chính:
Là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó các công ty cho thuê tài chính dùng vốn của
mình hay vốn do phát hành trái phiếu để mua tài sản, thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và
tiến hành cho thuê trong một thời gian nhất định. Người đi thuê phải trả tiền thuê cho công ty
cho thuê tài chính theo định kỳ. Khi kết thúc hợp đồng thuê người đi thuê được quyền mua hoặc
kéo dài thêm thời hạn thuê hoặc trả lại thiết bị cho bên cho thuê

• Đầu tư chứng khoán:
Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản mục cho vay, nó mang lại khoản
thu nhập lớn và đáng kể của ngân hàng thương mại. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng sẽ dùng
nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các hình thức như:
- Hùn vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các công ty; hùn vốn mua cổ phần chỉ được phép thực
hiện bằng vốn của ngân hàng
- Mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty…
Tất cả các hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập, mặt khác
nhờ hoạt động đầu tư mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán, mặt khác đầu tư
vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp.
1.4.6.Hoạt động khác:
• Bảo lãnh:
Nghiệp vụ này không sử dụng nhiều vốn của NH nhưng đem lại thu nhập rất lớn cho NH.
Trong loại hình nghiệp vụ này, khách hàng được ngân hàng cấp bảo lãnh cho khách hàng nhờ đó
khách hàng sẽ được vay vốn ở ngân hang khác hoặc thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký kết.NHTM
bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình
thức bảo lãnh NH khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo
lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một NHTM không được
vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của NHTM.
• Tư vấn:
6
NHTM được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn
trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng
• Ủy thác, nhận ủy thác:
NHTM nhận ủy thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc
quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác, đại
lý.
2. HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những mốc sự kiện quan trọng
Ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc

gia Việt Nam, với tổng giám đốc đầu tiên là cố phó Chủ Tịch Nguyễn Lương Bằng, chính thức
khai sinh một ngành kinh tế rất trọng yếu của Nhà nước - ngành Ngân hàng.
Tới Đại hội Đảng lần thứ 6 đã đề ra đường lối đổi mới cho đất nước, 2 pháp lệnh ngân hàng
đươc công bố ngày 24/5/1990 là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định sự thay đổi mạnh mẽ của
ngân hàng: Từ Ngân hàng một cấp thành Ngân hàng hai cấp. Hệ thống ngân hàng VN bao gồm:
Ngân hàng nhà nước Việt nam là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ tín dụng và là ngân hàng
Trung Ương, hệ thống Ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh.
• Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế (IMF, WB,
ADB)
• Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với hoạt động ngân hàng;
thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
• Năm 1997:
+ Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín
dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998.
+ Thành lập Ngân hàng phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long - MHB
• Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999).
• Năm 2000: Cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTMNN và cơ cấu lại tài chính và
hoạt động của các NHTMCP.
• Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng – Bước cuối cùng tự
do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào và đầu ra.
• Năm 2003:
+ Tái phát hành tiền kim khí( tiền xu) và lần đầu tiên phát hành tiền polime.
7
+ Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu, hoạt động phù hợp với chuẩn Quốc tế đối với các
NHTM
• Năm 2005: bùng nổ thị trường dịch vụ thẻ NH.
• Năm 2006: VN chính thức trở thành viên thứ 150 của WTO.
• Năm 2007: mở cửa theo cam kết WTO, cho phép các ngân hàng ngoại lập ngân hàng con
100% vốn.
• Năm 2009: NH ngoại chính thức mở rộng ảnh hưởng.

• Năm 2010: công bố 2 bộ luật mới: luật NH nhà nước VN(sửa đổi) và luật các tổ chức tín
dụng(sửa đổi).
• Năm 2011: hợp nhất 3 NHTMCP: Đệ Nhất (Ficombank), Việt Nam Tín Nghĩa
(TinNghiaBank) và Sài Gòn (SCB).
2.2.Quy mô
2.2.1.Ưu điểm
- Số lượng NHTM ngày càng nhiều, mở rộng mạng lưới chi nhánh:
Hiện nay, tính đến 15/6/2012, có:
• 5 NHTM NN ( NHTM Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam- Agribank,
BIDV, MHB, Vietcombank, Viettinbank)
• 35 NHTM Cổ phần ( NAMA BANK, Exim bank, ACB, HABU Bank, Sacombank,
MB, BAC A, TECHCOMBANK,VIB Bank, SHB, SCB, OCB, Viet capital, )
• 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Hà Nội, TP HCM, Quảng Nam, ( NATIXIS-
Pháp, Taipei Fubon- Taiwan, MAY BANK-Malaysia, UNITED OVERSEAS BANK-
singapore, )
• 4 NH liên doanh (VID PUBLIC BANK, INDOVINA BANK LIMITTED,VIỆT
THÁI VINASIAM BANK, VIỆT NGA )
• 5 NH 100% vốn nước ngoài(Standard Chartered, Hong Leong, Shin han Viet Nam,
ANZ, HSBC)
• Mạng lưới hoạt động của các NH đã trải rộng tới nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước.
Giữa trụ sở và các chi nhánh về cơ bản đã được kết nối trực tuyến, do đó chất lượng
quản lí trong hệ thống nội bộ từng TCTD đã có cải thiện đáng kể.
- Sản phẩm dịch vụ đa dạng, phong phú, hiện đại hơn:
Số lượng dịch vụ được cung cấp ngày càng đa dạng và số lượng các NHTM tham gia cung
cấp cũng ngày một tăng lên, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Đa dạng các loại
dịch vụ: Dịch vụ qua internet, dịch vụ thẻ ATM, Internet Banking, Mobile Banking…
Sự hợp tác trong hoạt động kinh doanh giữa các NHTM bước đầu đã hình thành với sự ra đời
của các liên minh. Sự liên minh giữa các NHTM trong kinh doanh thẻ đã cho phép thẻ của một
NHTM phát hành có thể rút tiền mặt tại các ATM của một số ngân hàng khác, hoặc thẻ của một
ngân hàng này có thể thanh toán tại các POS của một số ngân hàng khác trong cùng một liên

minh.
- Cơ sở hạ tầng, CNTT nhìn chung đã có sự phát triển vượt bậc
8
Điều này đã tạo cơ sở quan trọng cho việc cải tiến quy trình nghiệp vụ, phát triển các dịch
mới, nâng cao tính tiện ích cũng như chất lượng phục vụ khách hàng. Các NHTM ngày càng
nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng tốc độ xử lý thông tin, tăng cường tính bảo mật, đem lại nhiều
tiện ích cho khách hàng và tiết kiệm chi phí cho ngân hàng.
- Vốn điều lệ của các NHTM không ngừng tăng
Vốn điều lệ các ngân hàng nội tại Việt Nam đến 31/12/2011
Theo Thống kê của GAFIN.vn, năm 2011 đã có khoảng 25 ngân hàng tiến hành tăng vốn,
với tổng vốn tăng thêm là hơn 46.000 tỷ đồng. Vốn điều lệ tăng thêm của 4 NHTMNN (Agribank,
BIDV, Vietinbank, Vetcombank) trong năm 2011 lên tới 25.566 tỷ đồng, chiếm 55% tổng vốn điều
lệ tăng thêm trong năm. Trong đó, BIDV tăng vốn mạnh nhất với hơn 13.650 tỷ đồng.Sau khi
tăng vốn, xếp hạng về vốn điều lệ cuối năm 2011 của 4 ngân hàng này đã có sự thay đổi. BIDV
trở thành ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất, thay cho Agribank vẫn thường xuyên giữ vị trí này.
Tiếp sau đó VietinBank và Vietcombank.
Ngày 21 tháng 3 năm 2012, VietinBank đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho tăng
vốn lên VND 26,22 nghìn tỉ đồng(1,25 tỉ USD). VietinBank trở thành ngân hàng niêm yết có vốn
điều lệ lớn nhất Việt Nam.Tiếp sau là Vietcombank, vốn điều lệ 23,17 nghìn tỉ đồng(1,13 tỉ USD)
9
và chỉ đứng sau ngân hàng 100% vốn nhà nước Agribank(29,6 nghìn tỉ đồng tương đương 1,4 tỉ
USD)
- Hoạt động huy động vốn được đẩy mạnh, hiệu quả kinh doanh được nâng cao
Hệ thống NHTM VN đã có những đóng góp quan trọng cho sự ổn định và tăng trưởng kinh
tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Với nhiều hình thức huy động vốn, tương đối đa dạng, NHTM
VN đã huy động vốn hàng nghìn tỉ đồng tự các nguồn vốn trong xã hội, tăng dư nợ cho vay với
mọi thành phần kinh tế, tăng đầu tư vào những chương trình trọng điểm quốc gia, qua đó góp
phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước,
kiểm soát lạm phát, thúc đẩy kinh tể tăng trưởng…
Hiệu quả kinh doanh của NHTM nhìn chung cũng có những chuyển biến tích cực, lợi nhuận

tăng trưởng khá cao.
2.2.2.Nhược điểm:
Tuy nhiên, NHTM Việt Nam so với khu vực và thế giới vẫn còn yếu kém và nhiều hạn chế.
- Số lượng NHTM Việt Nam tăng nhiều nhưng chất lượng chưa thực sự tăng cùng với số
lượng.
- Quy mô vốn chủ sở hưũ còn thấp. Hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lời
của hệ thống NHTM Việt Nam chưa tương xứng với mức độ gia tăng rủi ro và quy mô
hoạt động, đồng thời ở mức thấp so với các ngân hàng khác trong khu vực
- Hiệu quả tối đa mang lại cho từng ngân hàng từ việc ứng dụng công nghệ hiện đại còn
chưa cao. Vấn đề quản lý rủi ro còn nhiều bất cập. Các DVNH hiện đại được sử dụng
ngày càng nhiều là một dấu hiệu khả quan, là thành công của ngân hàng, song cũng là
thách thức không nhỏ đối với các ngân hàng khi chưa có khả năng quản lý rủi ro có hiệu
quả, chưa có đủ các biện pháp phòng chống gian lận, bảo mật, an toàn tốt thì có khả năng
rủi ro xảy ra cho ngân hàng.
- Khả năng cạnh tranh còn yếu kém.
2.3. Trần lãi suất
2.3.1.Thực trạng
- Hiện nay, trần lãi suất huy động ngắn hạn có xu hướng giảm.
Lần giảm lãi suất trong quý I/2012 diễn ra vào ngày 13/3 với mức giảm từ 14% về 13% một
năm. Quý II, lãi suất đã hạ 2 lần, từ 13% về 12% vào ngày 11/4 và từ 12% về 11% vào ngày
28/5, và hiện tại giảm xuống còn 9%/năm từ ngày 11/6/2012
10
Biểu đồ trần lãi suất huy động
Tuy nhiên, dù trần lãi suất theo quy định là 9%/năm nhưng thực tế khó tìm được NH nào
không lách trần bằng cách này hay cách khác. Với ngân hàng ABBank, chương trình khuyến mãi
hấp dẫn nhất là “Tiết kiệm VND kỳ hạn 1 ngày”. Theo đó, khách hàng gửi từ 50 triệu đồng trở
lên sẽ được hưởng lãi suất 4,5% - 4,8%/ngày. Đồng thời, lãi suất sẽ nhập vốn gốc sau 24h một
lần và được điều chỉnh theo lãi suất thị trường. Không nằm ngoài cuộc đua, “ông lớn”
Vietcombank mới đây cũng triển khai chương trình khuyến mại "Quà tặng Kim cương", từ ngày
26/3 đến 23/6/2012. Chỉ với số tiền gửi 10 triệu đồng hoặc 500 USD trở lên, khách hàng sẽ được

tham gia 3 cơ hội dự thưởng với tổng trị giá gần 7 tỷ đồng, bao gồm: Giải ngày Vàng may mắn,
Giải quay số trúng thưởng bộ trang sức Kim cương/đá quý, giải Tri ân…
Nhiều NH ưu ái cho khách hàng rút trước hạn nhưng vẫn được hưởng nguyên lãi suất hoặc
tận dụng lãi suất thả nổi kỳ hạn dài để lách.Trong khi đó, dù lãi suất dài hạn được nâng cao
nhưng lại không thu hút đc nhiều người gửi do tâm lí chung của nhiều khách hàng ko muốn gửi
tiền những kì hạn dài do ngại rủi ro lạm phát.
Nguyên nhân lách trần lãi suất huy động của các NHTM :
- Một là thanh khoản của ngân hàng vẫn rất khó khăn. Hiện tại các nguồn thu chính của
NHTM là từ tiền gửi ngắn hạn trong khi đó nguồn vốn lại đc sử dụng để cho vay trung và dài
hạn nên khi đến hạn trả lãi ngân hàng sẽ ko có đủ tiền để trả lãi cho người gửi, dẫn đến khả năng
thanh khoản kém đi.
- Hai là sức ép phải duy trì nguồn vốn cũ, đồng thời phải tăng vốn huy động lên. Vì thế,
các NHTM phải chạy đua lãi suất để giành khách hàng gửi tiền.
2.3.2.Cơ sở điều chỉnh giảm trần lãi suất:
Thứ nhất, phù hợp với xu hướng kỳ vọng lạm phát, thanh khoản của các TCTD dồi dào, thị
trường tiền tệ diễn biến theo xu hướng tích cực và ổn định.
Thứ hai, NHNN đồng thời quy định trần lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay ngắn hạn
nhưng đều có sự linh hoạt, đáp ứng yêu cầu điều hành theo chủ trương của Chính phủ
- Với trần lãi suất huy động, chỉ quy định trần lãi suất tiền gửi VND không kỳ hạn và dưới 12
tháng, còn kỳ hạn từ 12 tháng trở lên do các TCTD ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn thị trường.
11
- Việc quy định trần lãi suất cho vay chỉ áp dụng đối với 4 lĩnh vực ưu tiên gồm nông nghiệp nông
thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa là phù hợp với chủ trương của
Chính phủ.
Thứ ba, việc điều chỉnh giảm trần lãi suất huy động và cho vay ngắn hạn như trên đảm bảo
hài hòa lợi ích của người gửi tiền, người vay và các TCTD. Theo đó, người gửi tiền vẫn có lãi
suất thực dương; doanh nghiệp được tiếp cận vốn với lãi suất thấp hơn, đặc biệt là đối với 4 lĩnh
vực ưu tiên; ngân hàng đảm bảo được chi phí hoạt động, dự phòng chi trả và có lợi nhuận ở mức
hợp lý.
• Các nhận định đều cho rằng việc điều chỉnh giảm lãi suất của NHNN là phù hợp để ổn định kinh

tế vĩ mô và cũng nằm trong xu hướng chung của nhiều nước trong khu vực nhằm chặn đà suy
giảm tăng trưởng kinh tế hiện nay.
2.3.3.Tác động của việc hạ trần lãi suất
- Thứ nhất, tốc độ tăng lạm phát giảm dần, giảm chắc chắn, nhưng quan trọng nhất là
Ngân hàng Nhà nước đã neo được cái kỳ vọng lạm phát. Kỳ vọng lạm phát đã được kiểm soát tốt
với khoảng 7% - 8% trong năm nay.
- Thứ hai, thanh khoản hệ thống đã được củng cố và cải thiện rất tích cực.
Tại Đà Nẵng, sau 4 lần hạ trần lãi suất huy động VND, đa số các TCTD trên địa bàn Đà
Nẵng đều có nguồn vốn huy động VND không giảm. Đơn cử như NHTMCP Ngoại thương Việt
Nam (Vietcombank) Đà Nẵng, nếu thời điểm 31/1/2012 chi nhánh có tổng nguồn vốn huy động
là 2.960 tỷ đồng thì hiện nay tăng lên 3.200 tỷ đồng. Tương tự, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam (Agribank) Đà Nẵng tăng hơn 100 tỷ đồng; NHTMCP Đầu tư và Phát
triển (BIDV) Đà Nẵng tổng nguồn vốn huy động VND tăng gần 7% so với đầu năm 2012
- Thứ ba là tỷ giá đươc kỳ vọng được neo giữ ở mức rất ổn định. Thống đốc cho biết năm nay chỉ
biến động trong khoảng 2 - 3% nếu như không có các cú sốc từ bên ngoài. Ngân hàng Nhà nước
tin tưởng biên độ đó hoàn toàn có thể đạt được.
2.3.4.Ý kiến trái chiều về trần lãi suất hiện nay
• Hạ trần lãi suất
Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước ( Nguyễn Văn Bình) dự tính: nếu chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
năm nay giảm xuống dưới 7%, lãi suất huy động có điều kiện để tiếp tục giảm xuống dưới 8%
vào cuối năm. Theo đó, vào năm tới một số khoản cho vay ưu đãi có thể giảm xuống dưới 10%.
• Không nên tiếp tục hạ trần lãi suất
Trong khi các tổ chức tài chính nước ngoài đều cho rằng trần suất huy động sẽ được cắt
giảm thêm ít nhất 2%/năm, thì các chuyên gia kinh tế- tài chính trong nước lại cho rằng trần lãi
suất huy động không nên cắt giảm thêm nữa và nên tiếp tục duy trì ở mức 9%/năm như hiện nay.
Theo các chuyên gia, không nên đưa CPI giảm xuống quá nhanh và chỉ số giá tiêu dùng cuối
năm đạt mức tăng 8% là đẹp nhất. Còn nếu CPI được kiểm soát ở mức tăng thấp hơn 5 - 6%, sẽ
không còn dư địa để thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ. Vì thế, lãi suất ở mức 9%/năm
như hiện nay đối với kỳ hạn tiết kiệm dưới 1 năm là hợp lý vì đã đảm bảo cân bằng giữa lợi ích
của người gửi tiền cũng như người đi vay, trong bối cảnh lạm phát có xu hướng xuống thấp. Về

phía ngân hàng cũng cho rằng việc hạ lãi suất huy động thực tế xuống dưới 9%/năm là khó thực
hiện vì nếu lãi suất tiền đồng giảm thêm, sẽ khó tránh được dòng vốn dịch chuyển từ tiết kiệm
sang các kênh đầu tư khác.
• Bỏ trần lãi suất
Theo TS Nguyễn Trọng Tài, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học ngân hàng (Học
viện Ngân hàng) bỏ trần lãi suất huy động là tất yếu. Bởi vì trần lãi suất chỉ có tác dụng khi
12
các ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau, đẩy lãi suất huy động lên. Khi tình hình này đã
được kiểm soát, những cú sốc trên thị trường được dẹp yên thì buộc phải bỏ trần lãi suất, không
có cách nào khác. Việc này nên thực hiện khi lãi suất huy động giảm xuống 9-10%. Nếu tiếp tục
duy trì có thể sẽ gây ra tình trạng điều hành máy móc, bắt mọi chủ thể đi theo quỹ đạo của cơ
quan quản lí. Nhà nước chỉ dùng công cụ áp đặt khi chủ thể vận động theo hướng không mong
muốn. Lúc này cũng không thể áp dụng trần cho vay được vì một số lí do: Hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam huy động một lượng vốn vào quá lớn với lãi suất quá cao. Có ngân hàng
huy động vốn với lãi suất lên đến trên 20%. Nếu áp dụng trần lãi suất cho vay thì ngân hàng lỗ
nặng. Điều đó khiến người ta không thể áp dụng trần lãi suất cho vay được.
2.4.Tăng trưởng tín dụng
2.4.1.Khái niệm
- Tín dụng được hiểu là cho vay , là việc một bên cung cấp nguồn tài chính cho bên khác
trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và
thường kèm theo lãi suất.
- Tăng trưởng tín dụng là tỷ lệ % gia tăng lượng tiền cho cá nhân hoặc tổ chức vay, của
năm này so với năm trước đó.
2.4.2.Thực trạng
• Tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2001-2010
Giai đoạn 2001-2005, tín dụng cho nền kinh tế tăng bình quân 26,1%/năm. Giai đoạn
2006-2010, tín dụng cho nền kinh tế tăng bình quân cao hơn - 33,2%/năm.
Nguyên nhân: Các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với dòng vốn rẻ, lãi suất thấp. Nhiều
chính sách hỗ trợ cho vay ( VD: Các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng bằng
đồng VN để thực hiện đầu tư mới phát triển sản xuất - kinh doanh, kết cầu hạ tầng sẽ được Nhà

nước hỗ trợ lãi suất tiền vay 4% một năm trong khoảng thời gian tối đa 24 tháng theo Quyết định
443 do Thủ tướng ban hành và có hiệu lực ngày 4/4/2009)
• Doanh nghiệp được thành lập ồ ạt, số lượng đăng ký thành lập tăng vọt. Tổng số doanh nghiệp
đăng ký toàn nền kinh tế đến năm 2010 khoảng 539 nghìn doanh nghiệp. Bình quân mỗi năm có
66,3 nghìn doanh nghiệp được thành lập mới, tốc độ tăng bình quân đạt 18%/năm. Chính vì
dòng vốn vốn giá rẻ góp phần khiến doanh nghiệp dễ dàng đầu tư vào những dự án kinh doanh
mạo hiểm, thậm chí thiếu thực tế.
• Tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2011: Tăng trưởng tín dụng đạt 10.9%
Nguyên nhân: Năm 2011 chính phủ áp dụng tín dụng thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Tính
đến cuối năm 2011, ở Việt Nam có khoảng 622.977 doanh nghiệp đã có 79.014 công ty giải thể.
Riêng năm 2011, cả nước có 77.548 doanh nghiệp thành lập mới thì 7.611 đơn vị sớm dừng hoạt
động. Khoảng 10% lượng doanh nghiệp mới sớm phải đóng cửa
Tuy nhiên, theo như thống đốc Nguyễn Văn Bình: “Lượng vốn giảm đi mà vẫn đảm bảo tăng
trưởng kinh tế, cho thấy hiệu quả và chất lượng của lượng vốn cho nền kinh tế”. Tăng trưởng
kinh tế 2011 đạt khoảng 6%, lạm phát được kiềm chế ở mức 18%. Đặc biệt, dòng vốn ngân hàng
đã được định hướng tốt hơn để đi vào các địa chỉ cần thiết.
13
Mức tăng trưởng tín dụng từ 2006 đến năm 2011
• Tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm 2012
6 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống mới chỉ đạt 0,76% . Đến 20/9, tăng
trưởng tín dụng ước khoảng 2,35% so với cuối năm ngoái. Ban đầu mục tiêu TTTD là 15-17%
song tại Hội nghị sơ kết ngành ngân hàng 6 tháng đầu năm mục tiêu đề ra cho cả năm 2012 đã
được chỉnh sửa là 8 – 10%. Lần đầu tiên trong hơn chục năm qua, tín dụng mới có trạng thái như
vậy.
Tăng trưởng tín dụng tại một số ngân hàng 6 tháng đầu năm và kế hoạch cả năm 2012
2.4.3.Nguyên nhân TTTD thấp hiện nay:
14
- Do cầu tiêu dùng của người dân: Kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2012 còn nhiều khó khăn
khiến người dân thắt chặt chi tiêu. Cầu tiêu dùng giảm khiến doanh nghiệp tiếp tục phải thu hẹp
sản xuất hoặc hoạt động cầm chừng => Tín dụng phát sinh mới khá hạn chế.

Cũng theo thông tin từ VPCP thì từ đầu năm đến 20.7.2012, cả nước có gần 40.000 DN đăng ký
thành lập mới với tổng số vốn đăng ký trên 247.200 tỉ đồng, giảm gần 13% về số DN và giảm
11,6% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2011. Đồng thời, có trên 30.300 DN gặp khó khăn
phải giải thể, tạm ngừng hoạt động trong 7 tháng đầu năm, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2011.
- Do bản thân các ngân hàng: Tăng trưởng tín dụng thấp của Việt Nam kéo dài từ đầu năm đến
nay là phản ứng tự nhiên của nền kinh tế. Ngân hàng sau một thời gian tăng trưởng nóng, nay
buộc phải hãm đà để giải quyết nợ xấu, tái cơ cấu các khoản nợ; đồng thời tập trung đầu tư vào
các khoản tài chính an toàn hơn. Hay được cho là sức hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn rất yếu và
ngân hàng thì quá thận trọng trong việc giải ngân.
- Cầu tín dụng SX bị thu hẹp: Ông Nguyễn Đức Hưởng, Phó chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân
hàng Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) nhìn nhận: “Sau thời gian khó khăn, trơn trượt, các
bước đi tiếp sẽ cẩn thận hơn, hoạt động sản xuất kinh doanh cũng sẽ chặt chẽ hơn nên cầu vay
vốn cũng thận trọng hơn. Đó là một đặc điểm của sức cầu tín dụng hiện nay. Cho nên tăng
trưởng tín dụng cả năm nếu đạt được 10% đã là cố gắng lắm rồi, và cần có được sự phối hợp
hài hòa giữa các chính sách”
2.4.4.Tác động của TTTD thấp tới nền kinh tế?
- Tích cực:
+ Doanh nghiệp thực sự hoạt động hiệu quả hơn. Trung bình nửa đầu năm 2012, GDP tăng
khoảng 4,3%. Rõ ràng mặc dù tín dụng âm trong suốt 5 tháng qua nhưng GDP vẫn tăng trưởng
dương. Sự khó khăn từ tín dụng buộc các doanh nghiệp phải tăng trưởng theo “chiều dọc”, đầu
tư nhiều hơn vào yếu tố công nghệ, tăng hiệu quả sản xuất. TTTD thấp đang giúp nền kt thu về
những “giá trị” dài hạn
+ Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) cải thiện trong những tháng đầu năm 2012
- Tiêu cực
+ Với nền kinh tế: Trước tình hình tăng trưởng tín dụng ảm đạm, nền kinh tế tiếp tục thiếu
vốn, tốc độ phá sản doanh nghiệp gia tăng, việc làm mới ít được tạo thêm và tác động xấu đến
các mặt của đời sống xã hội.
+ Với Ngân hàng: Gây ra điểm nghẽn tín dụng.
Theo một số chuyên gia tài chính, có 2 nguyên nhân chủ yếu là:
->Khách hàng hoạt động tốt không thực sự muốn vay mặc dù lãi suất đã giảm xuống nhưng vẫn

cao, có tâm lý chờ lãi suất giảm xuống nữa mới vay.
-> Những khách hàng rủi ro không được vay do không đáp ứng được các điều kiện vay và ngân
hàng lo ngại nợ xấu gia tăng.
Trong bối cảnh tín dụng vẫn tắc đầu ra và nợ xấu còn chất cao như núi, các doanh nghiệp "khỏe"
thường có cơ cấu nợ hợp lý và quản trị dòng tiền tốt. Do đó, xu hướng thoái nợ - giảm sự phụ
thuộc vào vốn vay ngân hàng, đang được nhóm doanh nghiệp này áp dụng => Ngân hàng càng
"đói" khách hơn và càng phải tham gia cuộc đua tìm khách hàng tốt gắt gao hơn.
2.4.5.Ý kiến
Tuy nhiên có một số ý kiến cho rằng: Không cần tăng tín dụng cao thêm. Câu hỏi đặt ra là
tại sao chúng ta lại phải tăng trưởng tín dụng? Nếu tính bình quân trong mấy năm gần đây thì tốc
độ tăng tín dụng đã lên tới khoảng 30%/năm, đưa tổng tín dụng lên trên 100% GDP. Tốc độ tăng
tín dụng quá cao trong khi hiệu quả sử dụng vốn tín dụng chưa cao, cộng thêm với việc sử dụng
15
vốn đầu tư không như mong muốn, đầu tư toàn xã hội lớn mà tốc độ tăng trưởng kinh tế lại
không như mong muốn chung chính là cội nguồn dẫn đến lạm phát. Khi lạm phát đã xuống, nếu
NHNN không khéo trong việc xử lý tốc độ tăng tín dụng thì rất có thể lạm phát cao sẽ quay trở
lại ngay trong quý IV/2012, lúc đó buộc phải quay lại trạng thái thắt chặt thì hậu quả còn tồi tệ
hơn.
=> NHNN nên cân nhắc, tính toán cụ thể để làm sao tốc độ tăng tín dụng phù hợp với mục tiêu
tăng trưởng kinh tế, nhưng phải dựa trên hiệu quả, đảm bảo được các cân đối lớn của nền kinh tế
để không quay trở lại gây bất ổn kinh tế vĩ mô.
2.5.Nợ xấu
2.5.1.Khái niệm: Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn trả lãi hoặc gốc trên 90 ngày hoặc các
khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc ,tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa
thuận ; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng không có lý lo chắc chắn
để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.
2.5.2.Tác động của nợ xấu
Nếu ví hệ thống dòng vốn của nền kinh tế là hệ tuần hoàn máu thì nợ xấu ngân hàng cao là
những cục máu đông làm tắc nghẽn dòng lưu thông đó.
Nợ xấu có thể đẩy doanh nghiệp đến chỗ phá sản, ngân hàng mất tài sản và quan trọng hơn là

gây ra xáo trộn trong nền kinh tế.Giải quyết nợ xấu càng sớm càng tốt sẽ nhanh chóng khơi
thông dòng vốn và khôi phục sản xuất trong doanh nghiệp.Nợ xấu ở mức dưới 3% có thể coi là
ngưỡng khá tốt trong hoạt động ngân hàng. Tỷ lệ an toàn cho phép theo thông lệ quốc tế
2.5.3.Thực trạng
Tỷ lệ nợ xấu của NHTM từ năm 2002 đến 6 tháng đầu năm 2012
- Nguyên nhân nợ xấu của năm 2002 cao hơn các năm trước: Suốt ba năm 2002-2004, dư nợ cho
vay của một số ngân hàng tăng cao. Ngân hàng bị cuốn vào “dòng xoáy” cơ sở hạ tầng ồ ạt, làm
đường giao thông, thủy lợi, trạm y tế, trường học, điện, nước. Nhưng các công trình này lại
không được thẩm định đến nơi đến chốn, đầu tư ngoài kế hoạch, không nguồn thanh toán khiến
nợ xây dựng cơ bản của địa phương tăng nhanh.
Từ năm 2007 đến năm 2008, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu,kinh tế khó
khăn,nhà đầu tư không thu hồi được vốn dấn đến tỷ lệ nợ xấu tăng cao(từ 2% năm 2007 lên 3.5%
năm 2008). Những năm sau đó,tỷ lệ nợ xấu có giảm so với năm 2008 nhưng có chiều hướng gia
tăng(Từ 2.2% năm 2009 đến 3.3% năm 2011). Đến 6 tháng đầu năm 2012,theo số liệu của các
ngân hàng thương mại tự báo cáo tỷ lệ nợ xấu là 4,17 % nhưng theo điều tra của thanh tra ngân
hàng nhà nước thì tỷ lệ nợ xấu đã lên tới 8.6%.
2.5.4.Nguyên nhân của nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam
- Không kiểm soát chặt chẽ danh mục đầu tư của doanh nghiệp vay vốn
Việc ngân hàng thương mại thành lập DN "sân sau" để qua đó rút vốn từ ngân hàng (NH) về
nhằm thực hiện các mục đích kinh doanh riêng là hiện tượng đáng cảnh báo. Điều này cần phải
quản lý chặt để ngăn chặn rủi ro cả về tài chính và đạo đức trong các tổ chức tài chính (TCTC).
- Mất cân đối kỳ hạn và thanh khoản
Theo đánh giá chung, sự mất cân đối giữa kỳ hạn tiền gửi và cho vay đã và đang trở nên
nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng Việt nam. Cụ thể, các khoản cho vay dài hạn chiếm tỷ
trọng lớn hơn và có quy mô lớn hơn nhiều so với các khoản tiền gửi có cùng kỳ hạn. Điều này
được giải thích là do nhiều ngân hàng trong một thời gian dài đã được sử dụng như là sân sau của
16
những ông chủ ngân hàng, thực hiện việc cho vay vào những dự án đầu tư dài hạn mà trong đó
chủ yếu là bất động sản dẫn tới sự mất cân đối về kỳ hạn. Trong điều kiện chính sách tiền tệ nới
lỏng, tiền rẻ xuất hiện và các dòng tiền ngắn hạn có thể quay vòng liên tục để tài trợ gối đầu cho

các dự án dài hạn mà không gặp phải vấn đề về thanh khoản. Nhưng khi chính sách tiền tệ thắt
chặt trở lại, vòng quay vốn ngắn hạn bị hạn chế làm cho vòng quay vốn ngắn hạn bị đứt đoạn,
dẫn tới rủi ro thanh khoản lớn buộc các ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, phải huy động
bằng mọi giá, đưa mặt bằng lãi suất lên cao.
Trong đồ thị dưới đây, vấn đề thanh khoản được nhìn khá rõ thông qua biến số lãi suất khi
chúng ta so sánh lãi suất kỳ hạn ngắn với lãi suất kỳ hạn dài. Trong suốt thời kỳ từ năm 2008
đến cuối năm 2011 lãi suất kỳ hạn ngắn đều cao hơn so với lãi suất kỳ hạn dài.Vào tháng 10 năm
2011 còn có những thời điểm lãi suất liên ngân hàng qua đêm lên đến trên 20% .Điều đó cho
thấy sự mất cân đối trong kỳ hạn và thanh khoản.Nhưng sang quý I và quý II năm 2012 nhất là
vào tháng 6 năm 2012,sau khi NHNN áp trần lãi suất 9% cho kỳ hạn dưới 12 tháng nhiều ngân
hàng đã vào cuộc đua tăng lãi suất kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. Trong đó mức huy động lãi suất kỳ
hạn dài cao nhất đến thời điểm này là Western Bank với lãi suất lên đến 14% cho kỳ hạn 13
tháng.Nhờ và làn sóng tăng lãi suất huy động này mà tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng
đã có phần tiến triển.

Biểu đồ: Đường cong lãi suất huy động tại Việt Nam
Nguồn: StoxPlus.
- Quản trị kém và rủi ro mất vốn
Việc quản trị kém được nhìn nhận ở hai giác độ quan trọng là thiết chế quản trị (corporate
governance) và quản trị hoạt động.
Ở giác độ thứ nhất, nhóm đánh giá rằng hệ thống quản trị chưa thực sự rõ ràng và minh
bạch. Nhiều ý kiến cho rằng thực sự không thể biết chính xác thực trạng hoạt động của các
ngân hàng Việt nam bởi họ thực sự có thể dễ dàng giấu những khoản nợ xấu thông qua hệ thống
các công ty con, cháu một cách dễ dàng và đơn giản. Quan trọng hơn, xuất phát từ mâu thuẫn
17
lợi ích cốt lõi giữa vấn đề chủ sở hữu và người thực hiện, tại một số ngân hàng có cổ phần chi
phối của nhà nước, những quyết định quản trị được đưa ra không thực sự phù hợp với thông lệ
phục vụ lợi ích của cổ đông. Nói một cách ngắn gọn, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt nam đã
có một bước chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình cổ phần hóa hơn 10 năm qua, nhưng gần
như cơ chế quản trị không có sự thay đổi đáng kể nào.

Ở giác độ thứ hai, việc quản trị hoạt động kém đã dẫn tới mức độ rủi ro nợ xấu cao. Theo
báo cáo của Ngân hàng nhà nước, nợ xấu và nợ dưới chuẩn (Non Performing Loan “NPL”) của
các ngân hàng Việt Nam ở mức 3.1% tổng dư nợ tại ngày 30/6/2011, tương đương gần 4 tỷ USD.
Tuy nhiên, những thông tin về các vụ vỡ nợ tín dụng tại nhiều địa phương diễn ra sau đó có thể
sẽ là một lý do để tín rằng nợ xấu của hệ thống ngân hàng có thể sẽ cao hơn thế. Đồng thời, hệ
thống ngân hàng có khoảng 12% dư nợ tương đương 12 tỷ đô la trong lĩnh vực bất động sản và
chứng khoán. Với thực tế ảm đạm của cả hai thị trường này và sự sụt giảm giá, có thể tin rằng
một tỷ lệ lớn trong số dư nợ này đã rơi vào tình trạng nợ xấu và nợ dưới chuẩn. Nhóm cũng đánh
giá rằng nếu cân nhắc thêm về khoản nợ của của Vinashin thì con số nợ xấu thực tế của hệ thống
ngân hàng chắc chắn sẽ còn tồi hơn rất nhiều.
Hệ quả tất yếu của vấn đề nợ xấu là khả năng mất vốn trong hệ thống ngân hàng. Mặc dù nhiều
ngân hàng của Việt Nam đã đạt mức tỷ lệ đảm bảo vốn tự có tối thiểu (Capital Adequacy Ratio
“CAR”) trên 8% nhưng tỷ lệ này sẽ bị sụt giảm rất nhanh nếu như hạch toán đúng dự phòng cho
các khoản nợ NPL. Lý do là chất lượng tài sản suy giảm làm cho chi phí dự phòng gia tăng, làm
ăn mòn lợi nhuận lũy kế và từ đó giảm vốn tự có. Theo số liệu của StoxPlus, vốn chủ sở hữu của
43 ngân hành thương mại (không tính ngân hàng phát triển và 5 ngân hàng 100% vốn nước
ngoài) là 276 ngàn tỷ đồng (khoảng 14 tỷ USD) vào thời điểm 30/12/2010. Giả sử nếu như NPL
của hệ thống tăng thêm 10% (từ mức 3.1% theo số liệu của NHNN tại 30/6/2011 lên 13.1%) và
giả sử phải lập dự phòng đầy đủ (100% cho tất cả nợ nhóm 2 đến nhóm 5) thì mức chi phí sẽ
tăng thêm khoảng 10 tỷ USD. Khi đó, vốn chủ sở hữu của hệ thống ngân hàng Việt nam sẽ chỉ
còn 4 tỷ USD và khi đó tỷ lệ CAR sẽ thấp hơn nhiếu so với con sô 8% yêu cầu hiện tại.
Như vậy, có thể thấy rằng các số liệu báo cáo có thể làm hài lòng một số người về mặt giấy tờ,
còn con số khả năng thực tế sẽ làm chúng ta giật mình về thực trạng. Những nguyên nhân dẫn tới
hệ quả này bao gồm (i) thiết chế quản trị kém dẫn tới những khoản cho vay vào những doanh
nghiệp (sân sau) không được định giá một cách đầy đủ; (ii) có quá nhiều ngân hàng, đặc biệt là
các ngân hàng nhỏ trong một nền kinh tế khiêm tốn khoảng 100 tỷ đô la Mỹ. Với trên dưới 100
ngân hàng và các tổ chức tín dụng và hơn 100 công ty chứng khoán có những hoạt động tương
đồng thì sức ép cạnh tranh tất yếu dẫn tới rủi ro và không hiệu quả; (iii) đội ngũ tín dụng không
được đưa ra quyết định độc lập; và (iv) các ngân hàng có mối quan hệ chằng chịt nhưng không
chính thức với hệ thống tín dụng đen.

3.GIẢI PHÁP
- Tính dễ bị tổn thương của Hệ thống ngân hàng (rủi ro nợ xấu gia tăng, quản trị, công nghệ và
nguồn nhân lực yếu, rủi ro thanh khoản, rủi ro thể chế, rủi ro tín dụng,…).
- Hoạt động chưa thực sự hiệu quả (bản thân hệ thống ngân hàng và tác động lan tỏa tới nền kinh
tế).
- Đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế (quốc tế hóa, chuẩn mực quốc tế, tăng cường cạnh tranh,
phản ứng với các cú sốc từ bên ngoài…).
=> cần phải tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại
18
Khái niệm: Là quá trình phân bổ lại các nguồn lực: a) Tài chính; b) Hoạt động (Nhân lực, tổ
chức, bộ máy, công nghệ, quản lý…);; c) Thể chế (Khung khổ luật pháp, điều tiết, theo dõi, giám
sát và đánh giá…); d) Cấu trúc(Sở hữu, tài sản …)…nhằm đảm bảo cho Hệ thống ngân hàng
hoạt động vững mạnh, hiệu quả; Tạo được tác động lan toả tích cực đối với các ngành kinh tế
khác; Tăng khả năng tiếp cận của người dân và doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ) đối với các dịch vụ của hệ thống ngân hàng =>Là một bộ phận cấu thành của quá trình
tái cấu trúc toàn bộ hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế.
- Đáp ứng những yêu cầu đặt ra của thời kỳ phát triển mới nền kinh tế-xã hội Việt Nam (Phát triển
theo hướng chất lượng, hiệu quả và bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Qúa trình tái cơ cấu hiện nay
Quá trình tái cấu trúc NH chia làm ba giai đoạn: củng cố thanh khoản, lành mạnh tài chính
thông qua xử lý nợ xấu và tái cơ cấu hoạt động. Đến nay, khi kết thúc giai đoạn 1 thì tiến trình
bị chậm lại.
- Giai đoạn 1: củng cố thanh khoản hệ thống ngân hàng mà trọng tâm là thanh khoản một số
ngân hàng có vấn đề
Tại thời điểm hiện tại, tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam được xem là ổn
định, thể hiện qua lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng đang giảm mạnh (mức lãi suất
cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng (chiều 30-5-2012) bên cạnh số ít giao dịch
0,5%/năm thì có nhiều giao dịch phổ biến hơn ở mức 1%/năm, cũng là mức lãi suất thấp nhất
tính từ năm 2006 trở lại đây.,) một phần vì NHNN điều chỉnh linh hoạt lượng tiền ra/vào qua thị
trường mở, một phần vì các ngân hàng có nhiều vốn huy động đang trong tình trạng “ứ vốn” do

khả năng hấp thụ vốn thấp của rất nhiều doanh nghiệp. Nhiều ngân hàng thương mại quy mô vừa
trở lên đều có dự trữ vốn khả dụng tốt. Tăng trưởng huy động vốn từ dân cư khá cao, kể cả nội tệ
và ngoại tệ. Kết quả này tạo tiền đề cho việc thực hiện giai đoạn tiếp theo của chương trình.
19
Có thể nói Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời can thiệp xử lý những ngân hàng có nguy cơ sụp
đổ lớn nhất, đã thành công và đã loại bỏ được tác động xấu lan truyền của nó đến toàn hệ thống.
Một số ngân hàng khó khăn khác cũng được Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ thanh khoản, và tạo
điều kiện cho việc mua lại hoặc sáp nhập theo nguyên tắc thị trường. Bằng cách này, việc xử lý
các ngân hàng yếu đỡ tốn kém hơn, đồng thời cùng tận dụng được lực lượng thị trường để giải
quyết.
- Giai đoạn 2: lành mạnh tài chính thông qua xử lý nợ xấu
Lành mạnh hóa tài chính tập trung xử lý nợ xấu đã được khởi động bằng một loạt các quy
định của Ngân hàng Nhà nước tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tái cơ cấu lại nợ, như
giãn nợ, giảm lãi suất, đẩy mạnh thủ tục pháp lý để xử lý nợ Ngân hàng Nhà nước cũng trình
Chính phủ để Chính phủ trình Quốc hội cho phép miễn giảm một số loại thuế, phí đối với các
ngân hàng được xử lý mua, bán, sát nhập. Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước đã trình Chính phủ Đề
án thành lập công ty mua bán nợ tập trung
Giải pháp cho vấn đề nợ xấu:
- Thứ nhất, Các ngân hàng chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu, chấp
nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Việc làm này, theo VAFI, sẽ giúp ngân hàng thương mại
nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng thời, có thể giảm quỹ
lương nhưng làm tăng khả năng tài chính nội tại của ngân hàng
- Thứ 2, Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 3 phương pháp. Nếu
doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc
do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có thể chuyển một phần nợ gốc
thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát
triển.
Phương pháp thứ hai là chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các
ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc
doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Đây là cách thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ

thế giới . Đối với Việt Nam, từ trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công, không
những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn
của các ngân hàng.
Để các điều kiện cơ bản để tiến trình chứng khoán hóa được thành công, trong vai trò đồng chủ
nợ các ngân hàng cần tích cực nâng cao tính cộng đồng hơn nữa, phối hợp với doanh nghiệp để
xử lý nợ xấu. Đồng thời, các ngân hàng nên sử dụng các công ty con của mình như công ty quản
lý mua bán nợ, công ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ để tham gia chủ động vào tiến
trình chứngkhoán hóa.
- Thứ ba, Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng có tiểm lực tài chính mạnh, quản trị
doanh nghiệp tốt mua lại những nhà băng yếu kém. Những ngân hàng yếu kém, theo định nghĩa
của VAFI, là những ngân hàng có quản trị kinh doanh yếu kém, có tỷ lệ nợ xấu rất cao.
- Phá băng thị trường bất động sản. Trong giai đoạn hiện nay vẫn còn hàng triệu người chưa
có khả năng mua nhà, nếu giá nhà chỉ ở mức vài trăm triệu đồng một căn thì nhu cầu thực tế là
rất lớn. Vì thế, nhà nước cần nhanh chóng biến sáng kiến căn hộ nhỏ tối thiểu 25 m2 thành hiện
thực.

Nợ xấu theo báo cáo chính thức của Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 31/3 là 8,6%, tương đương
với 202.000 tỷ đồng. Để xử lý khoản nợ xấu này, nhà điều hành cũng gợi ý giải pháp thành lập
20
công ty mua bán nợ xấu quốc gia (AMC) với số vốn 100.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo Ngân
hàng Nhà nước, giải pháp về công ty mua bán nợ xấu vẫn dừng lại ở mức tham khảo và bàn bạc,
chứ chưa có gì chính thức, cụ thể.
Nhiều chuyên gia cho rằng, xử lý nợ xấu là việc nên quyết định và hành động nhanh để tránh
những hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước cũng hứa sẽ đưa ra những biện pháp
cụ thẻ trong năm nay để trình Chính phủ.
- Cuối cùng, giải pháp cắt những chân rết: Tại châu Âu cũng có hiện tượng ngân hàng thành
lập DN "sân sau", nhưng rất ít và bị hạn chế tối đa bởi được kiểm soát chặt từ Chính phủ. Tại
Việt Nam, hiện tượng trên phát triển là do sự giám sát của các cơ quan tài chính quá yếu. Vấn đề
chính là đã không có 1 tổ chức giám sát tài chính hợp nhất để giám sát các hoạt động tài chính
ngân hàng.

Giám sát các hoạt động ngân hàng phải thuộc về 1 cơ quan độc lập. Dịch vụ ngân hàng ngày
càng phức tạp, việc giám sát kiểm ra đòi hỏi cần các cán bộ có năng lực rất cao. Những chuyên
gia đó có giá rất đắt. Nếu cơ quan giám sát là cơ quan hành chính, được trả theo bảng lương công
chức sẽ không thu hút được người tài và kết cục là nhân viên đó dễ bị các ngân hàng "mua
chuộc".
Việt Nam cần phải xem xét lại hệ thống giám sát tiền tệ và tìm ra những lỗ hổng, bịt kín nó lại có
như vậy mới đảm bảo cho hoạt động ngân hàng lành mạnh.
- Giai đoạn 3: tái cơ cấu tổ chức, hoạt động và quản trị hệ thống ngân hàng.
Các chương trình tái cơ cấu cũng đã được Ngân hàng Nhà nước chuẩn bị, bằng việc chuẩn bị
ban hành một số quy định sửa đổi quyết định 493 về phân loại tài sản, trích lập và sử dụng dự
phòng rủi ro, các quyết định về chỉ tiêu an toàn hệ thống, về công khai minh bạch tài chính, về
chuẩn mực kế toán và báo cáo tài chính Nếu các thao tác pháp lý thuận lợi thì năm 2013 sẽ là
năm trọng tâm của chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và có thể kết thúc vào năm 2015.
Kinh nghiệm quốc tế: Một số hình thức tái cấu trúc đối với các tổ chức tài chính yếu kém
Đóng cửa Nhà nước mua Sát nhập
Indonesia
64 ngân hàng
(18%)
12 NHTM
(20%)
4 trong số 7
ngân hàng nhà
nước sáp nhập
thành 1 ngân hàng
(54%)
korea
5 NHTM, 17
ngân hàng bán
buôn (merchant
banks) và hơn 100

tổ chức tài chính
phi ngân hàng
4 NHTM
(25%)
9 ngân hàng và
2 ngân hàng bán
buôn (merchant
bank) để thành lập
4 NHTM mới
(15%)
21
(15%)
Malaysia
Không 1 NHTM, 1
ngân hàng bán
buôn (merchant
bank) và 3 công ty
tài chính đặt dưới
sự kiểm soát của
ngân hàng trung
ương (12%)
6 thương vụ
sáp nhập giữa công
ty tài chính và
NHTM (2%)
Thailand
57 công ty tài
chính
(11%), 1
NHTM (2%)

7 NHTM (13-
15%), 12
Công ty tài
chính (2.2%)
5 NHTM và 13
công ty tài chính
được sáp nhập
thành 3 ngân hàng
(20%)
Kết luận
• Phương diện vĩ mô:
- Vấn đề mục tiêu tăng trưởng kinh tế cũng cần phải được “cơ cấu lại” theo hướng mới là không
nên đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao bằng mọi giá mà thay vào đó là một mức tăng trưởng
hợp lý, bền vững. Khi đó áp lực tăng trưởng kinh tế không đè nặng lên hệ thống ngân hàng, làm
cho khu vực này dễ tổn thương và kém hiệu quả. Một số cơ cấu vĩ mô khác cũng cần được cơ
cấu lại để đảm bảo phát triển và tăng trưởng bền vững như cơ cấu xuất nhập khẩu, cơ cấu ngành
sản xuất, cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngân sách…
- Cần phải cơ cấu lại hệ thống luật pháp tài chính, ngân hàng. Hiện Luật các tổ chức tín dụng,
Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và các quy định khác đang được xem xét sửa đổi một cách
cơ bản. Việc cơ cấu lại NHNN cũng nên được đặt ra theo lộ trình sửa đổi Luật NHNN, để đảm
bảo cơ quan này hoạt động theo đúng chức năng của một ngân hàng trung ương hiện đại. Việc
sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng cần đưa vấn đề cải cách quản trị vào một cách tương ứng nhằm
cải cách, chuyển đổi mô hình quản trị tại các NHTM cổ phần theo mô hình quản trị hiên đại, phù
hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
- Cần tăng cường quản trị, quản lý đối với cả hệ thống ngân hàng trên phương diện vĩ mô và vi
mô. Đến nay, vốn tự có của các NHTM đã được cải thiện đáng kể (hầu hết các NHTM có tỷ lệ an
toàn vốn đạt và vượt 8%). Tuy nhiên vấn đề quản trị và quản lý đã và đang đặt ra yêu cầu cơ cấu
lại. Vấn đề quản trị cần được cải thiện để đảm bảo các NHTM cổ phần hoạt động theo đúng
nguyên tắc của một công ty cổ phần và công ty đại chúng: chế độ công bố thông tin, báo cáo tài
chính; quyền của các cổ đông nhỏ lẻ; vấn đề chuyển đổi NHTMNN sau cổ phần hóa sang công

ty cổ phần thực sự… Về mặt quản lý, cải thiện quản lý rủi ro thanh khoản (như hệ thống ALCO)
cần được đặt ra như một yêu cầu bắt buộc đối với các NHTM hiện nay để đảm bảo các NHTM
có thể chịu đựng được các cú sốc
• Về phương diện vi mô
- Các ngân hàng cần tiến hành cơ cấu lại thị trường, sản phẩm và cơ cấu tài sản cho phù hợp với
năng lực quản lý của mình, đảm bảo phát triển hiệu quả và bền vững. Với cơ cấu tài sản và sản
22
phẩm như hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam rất dễ bị tổn thương (như năm
2008). Đối với các NHTM Nhà nước vừa mới cổ phần hóa cần tập trung cải thiện quản trị tại
ngân hàng này theo chuẩn quốc tế vì nơi đây tập trung nguồn lực lớn của Nhà nước, coi đây là
hình mẫu về quản trị ngân hàng hiện đại ở Việt Nam.
- Về mặt nhân sự, cần nâng cao trình độ quản lý của cấp lãnh đạo; cải thiện kỹ năng nghề nghiệp
của đội ngũ cán bộ của cả hệ thống. Cần tạo ra một đội ngũ cán bộ chuyên gia, nhất là cán bộ
phân tích đánh giá rủi ro, đi đôi với việc nâng cao khả năng quản lý rủi ro ở các NHTM (nhất là
rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản…). Trước tiên, cần thành lập và đảm bảo sự hoạt
động của ủy ban (cơ quan) về vấn đề quản lý rủi ro và ủy ban về vấn đề nhân sự như quy định tại
Nghị định 59/2009/NĐ - CP ngày 16/7/2009 của Chính phủ.
Lập công ty mua bán nợ quốc gia nên hay không?
Có thể nói, sự tham gia của công ty mua bán nợ sẽ bổ sung thêm giải pháp thực hiện tái cơ cấu
hệ thống NHTM. Có thể hình dung công ty mua bán nợ sẽ giúp giải quyết các vấn đề sau:
Giúp các TCTD xử lý nhanh các tài sản xấu để thu hồi nguồn tiền. TCTD không phải dùng
nguồn lực để theo đuổi các vụ thanh lý tài sản, bán nợ… như trước đây để tập trung cho hoạt
động kinh doanh chính;
* Tách các tài sản xấu của các TCTD ra khỏi hệ thống ngân hàng và công ty mua bán nợ thực
hiện các biện pháp tái cơ cấu dễ dàng hơn, ví dụ có thể thành lập các pháp nhân mới, thành lập
các liên doanh để xử lý và khai thác tài sản. Đây là những nghiệp vụ mà TCTD không dễ dàng
thực hiện do bị hạn chế về phạm vi hoạt động, theo đó, các TCTD chỉ tập trung vào các lĩnh vực
kinh doanh ngân hàng và không tập trung vào các lĩnh vực khác ngoài một số lĩnh vực rất hạn
chế mà Luật Các TCTD chophép;
* Giữ vai trò điều tiết trong trường hợp thị trường có biến động;

* Bên cạnh NHNN là người cho vay cuối cùng, công ty mua bán nợ cũng có thể được coi là một
định chế có thể mua lại tài sản của các TCTD trong trường hợp TCTD có nhu cầu bán để giải
quyết nhu cầu thanh khoản hay thu hẹp hoạt động kinhdoanh;
* Thu hút các khoản đầu tư dài hạn của các tổ chức có nguồn vốn dài hạn, ví dụ từ các công ty
bảo hiểm do đặc thù hoạt động của công ty mua bán nợ là đầu tư vào các tài sản dài hạn.
Ví dụ: - Công ty mua bán nợ xấu KamCo của Hàn Quốc
- Công ty AMC của Trung Quốc
23

×