Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Bài học thực tế và những giải pháp hạn chế Chi phí đại diện Công ty đa quốc giaBài học thực tế và những giải pháp hạn chế Chi phí đại diện Công ty đa quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.18 KB, 21 trang )

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Khoa Kinh tế - Luật
Bài thuyết trình môn
QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
Nhóm thực hiện
1. PHẠM THỊ KIM CHUYÊN K064020243
2. TRẦN THANH MAI ANH K064020233
3. TRẦN THỊ THU HÀ K064020254
4. VÕ THỊ TRÀ MY K064020291
5. NGUYỄN THỊ TRƯỜNGNGUYÊN K064020304
6. HUỲNH PHƯỚC THƯƠNG K064020249
7. TRẦN VĂNTHƠ K064020337
8. NGUYỄN NGỌC THƯỜNG K064020250
9. TRẦN VIỆT HUY K064020267
10. LÊ TOÀN THỊNH K064020332
11. NGUYỄN THỊ THÚYQUYÊN K064020316
12. VÕ THANH THỦY K064020340
13. PHẠM THỊ NGỌC THƯ K064020347
1

Mục lục
Giới thiệu………………………………………………………………. …………… 3
I. Những vấn đề chung về chi phí đại diện ……………………………………………7
1. Nguồn gốc của chi phí đại diện Công ty đa quốc gia……………………………. . 7
2. Sự tách biệt quyền quản lý - kiểm soát và những tổn thất .……………………….. 10
do phân quyền (agency costs)
II. Bài học thực tế và những giải pháp hạn chế Chi phí đại diện………………………12
1. Hậu quả của phát sinh chi phí đại diện……………………………………12
2. Bài học thực tế và hậu quả do không quản lý, giám sát chi phí đại diện…13
3. Giải pháp hạn chế chi phí đại diện …………………………………………………. 13
4. Những đề xuất khác nhằm hạn chế chi phí đại diện………………………………….....17


5. Bàn thêm về chi phí đại diện……………………………………………………………17
2
Giới thiệu
Trong một nền kinh tế đầy biến động và phức tạp, quy mô của doanh nghiệp
càng lớn và sự cạnh tranh càng gay gắt, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn tìm tòi và
phát triển một cơ cấu tổ chức hoàn thiện và hợp lý. Ở đó vai trò của người quản trị là
cực kỳ quan trọng và quyết định mức độ tồn tại và phát triển của công ty.
Không phải ngẫu nhiên mà trong các công ty lớn, sự phân định giữa quyền sở
hữu và quyền quản lý là điều hết sức cần thiết. Có một số nguyên nhân dẫn tới điều này
và tất cả cũng đều nhằm mục đích giúp cho doanh nghiệp phát triển tốt hơn và nâng cao
năng lực cạnh tranh của công ty.
Thứ nhất, đôi khi việc điều hành trực tiếp của các chủ doanh nghiệp trở nên
thiếu khả thi và không hiệu quả. Việc điều hành những doanh nghiệp có quy mô lớn và
phức tạp đòi hỏi những kỹ năng phẩm chất mà không phải nhà đầu tư nào cũng có được.
Thực tế đó dẫn tới sự tách biệt giữa quyền quản lý và quyền kiểm soát. Những người có
vốn nhưng không có khả năng quản lý đầu tư vào các doanh nghiệp và trở thành ông
chủ. Các ông chủ này sẽ thuê những chuyên gia có đủ năng lực đến điều hành doanh
nghiệp của mình. Những người này có chuyên môn (và thường có kinh nghiệm về lĩnh
vực mà họ đảm nhận) nên sẽ được người chủ giao quyền quản lý.
Thứ hai, việc phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý cho phép chia nhỏ
quyền sở hữu theo những phần vốn góp bằng nhau và từ đó sự thay đổi chuyển nhượng
quyền sở hữu sẽ không gây phiền phức đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính vì thế, việc công ty thuê những người quản lý chuyên nghiệp để điều hành công ty
của mình theo hướng hiệu quả nhất nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu ban đầu của các chủ sở
hữu.
Tuy nhiên, sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý cũng làm nảy sinh
những nguy cơ khiến cho hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không ở mức tối ưu, gây
thiệt hại cho các nhà đầu tư; đó là khi mục tiêu của các chủ sở hữu và người quản lý
không giống nhau. Trong mối quan hệ giữa nhà đầu tư và nhà quản lý, cả hai đều muốn
tối đa hóa lợi nhuận của mình, tuy nhiên điều kiện để tối đa hóa lợi ích của hai bên

không giống nhau. Nhà đầu tư muốn tối đa hóa lợi ích của mình thông qua việc tăng giá
trị doanh nghiệp, còn lợi ích cuả nhà quản lý thường gắn với thu nhập nhận được. Vì thế,
nhà quản lý có thể tìm kiếm một sự điều hành nhàn nhã hơn, ít khốc liệt hơn hoặc theo
3
lối sống xa hoa…hay đưa ra những quyết định có thể mang tính bảo thủ và không làm
tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.
Do nhà quản lý là người trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp nên họ
có thể thực hiện được hành vi hay quyết định nhằm tối đa hóa cho lợi ích cá nhân mình
nhưng lại làm tổn hại đến lợi ích của nhà đầu tư. Chủ sở hữu là người chủ còn các nhà
quản lý chuyên nghiệp là người đại diện cho họ. Nhà quản lý có thể đi ngược với ý
muốn tối đa hóa giá trị doanh nghiệp của người chủ, họ rút khỏi công việc này và tìm
cách thu vén lợi ích cho bản thân để làm giàu.
Ví dụ, nhà quản lý có thể không nỗ lực với khả năng cao nhất của mình, do đó
làm giảm hiệu quả họat động của doanh nghiệp; nhà quản lý có thể không quyết định
đầu tư nguồn lực vào một dự án có khả năng sinh lời cao trong tương lai vì làm như vậy
sẽ ảnh hưởng tới lợi nhuận trong ngắn hạn (nếu thu nhập của nhà quản lý được xác định
dựa trên kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn); thậm chí nhà quản lý có
thể báo cáo không trung thực về tình hình họat động của doanh nghiệp nhằm đạt mức lợi
nhuận kế hoạch. Những hành vi như vậy của nhà quản lý sẽ làm tổn hại đến lợi ích của
nhà đầu tư. Có thể minh chứng cho điều này là vụ bê bối làm cho một số tập đòan kinh
tế ở Mỹ bị phá sản như Enron, Typo…tuy diễn ra với hình thức, quy mô, cách thức, địa
điểm khác nhau nhưng đều cùng một nguyên nhân bản chất. Đó là việc người điều hành
lợi dụng nhiệm vụ được các cổ đông giao phó để hành động vì mục đích tư lợi cá nhân,
gây hiệu quả nghiêm trọng đến lợi ích của doanh nghiệp. Chẳng hạn như vụ việc chủ
tịch Jeffrey Skilling và Andrew Fastow- phụ trách đối ngoại của Enron đã cấu kết với
hơn chục thành viên hội đồng quản trị và hãng kiểm toán Athur Andersen để bưng bít và
tung hỏa mù đối với chính quyền trước những vụ làm ăn phi pháp ở Enron. Điều này
khiến số người mua cổ phiếu của công ty cao kỷ lục nhưng thực chất là giá trị cổ phiếu
đã được nâng lên “ảo” để qua mặt các cổ đông, và sau đó là việc công ty tuyên bố phá
sản làm nhiều nhà đầu tư điêu đứng. Còn Fastow sau việc làm giả số liệu đã bỏ túi hàng

triệu đôla cho bản thân và gia đình.
Mặc dù ý thức được điều này nhưng không dễ để nhà đầu tư có thể kiểm soát
được, bởi trên thực tế tồn tại thông tin bất cân xứng giữa nhà đầu tư và nhà quản lý. Nhà
quản lý có những thông tin mà nhà đầu tư không thể có hoặc không muốn có do chi phí
để thu thập các thông tin đó là quá cao. Ví dụ, nhà quản lý có thể biết được mức độ nỗ
lực của mình trong khi nhà đầu tư không biết được hoặc biết nhưng không hiểu được
đầy đủ. Do tình trạng thông tin bất cân xứng này mà nhà quản lý có cơ hội để thực hiện
các hành vi không trung thực như trên mà không sợ bị trừng phạt.
4
I. Những vấn đề chung về chi phí đại diện.
Sơ lược về một số khái niệm:
Thông tin bất cân xứng (asymmetrical information hoặc information
asymmetry)
Trong kinh tế học nói chung, tình trạng thông tin bất cân xứng phát sinh khi
trong một giao dịch, một trong các bên tham gia có nhiều thông tin hơn hoặc có thông tin
tốt hơn (các) bên còn lại.
Mô hình thông tin bất cân xứng trong kinh tế học giả định rằng có ít nhất một
bên tham gia giao dịch phải có thông tin ở mức độ tốt hơn (các) bên còn lại. Hoặc cũng
có thể là trường hợp một bên tham gia có khả năng áp đặt, tác động hoặc phản ứng lại
một hay một số điều khoản bị phá vỡ trong thỏa thuận mà (các) bên còn lại không có
năng lực đó. Thông tin bất cân xứng là nguồn gốc hình thành hai vấn đề "Rủi ro đạo
đức" và "Lựa chọn đối nghịch".
Rủi ro đạo đức (moral hazard), xét trên góc độ kinh tế học, là khái niệm phản
ánh khả năng việc tái phân bổ rủi ro (chẳng hạn như trong hợp đồng bảo hiểm - rủi ro
được chuyển từ người được bảo hiểm sang người nhận bảo hiểm - công ty bảo hiểm) sẽ
làm thay đổi hành vi của người tham gia hoặc có liên quan. Chẳng hạn khi một người sở
hữu xe hơi và mua bảo hiểm cho xe của mình khi bị trộm thì bản thân người đó sẽ giảm
đi ý thức khóa xe so với khi họ chưa có bảo hiểm.
Vấn đề này liên quan đến cơ chế thông tin bất đối xứng ở điểm có một bên
không thể hoặc có rất ít khả năng giám sát, thu nhận những thông tin có tính chất quyết

định tới giao dịch. Ở ví dụ về bảo hiểm, hiện tượng này thể hiện qua khả năng hạn chế
trong việc giám sát và thu nhận thông tin của công ty bảo hiểm về hành vi và hoạt động
của người được bảo hiểm.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của ngành bảo hiểm, thuật ngữ rủi ro đạo đức
ngày nay được phân thành hai nhóm là:
(i)rủi ro đạo đức hành vi (vẫn sử dụng moral hazard);
(ii) rủi ro đạo đức ý thức (morale hazard).
Theo sự phân biệt này, "rủi ro đạo đức hành vi" sẽ được coi là trái đạo đức và vi
phạm pháp luật, vi phạm hợp đồng bảo hiểm. Còn những thay đổi trong thái độ, quan
điểm được gọi là rủi ro đạo đức ý thức, không thuộc phạm vi xử lý vi phạm đạo đức hay
quy định hợp đồng.
5
Với rủi ro lựa chọn đối nghịch, có một phía thiếu thông tin và kiến thức phục
vụ cho quá trình đàm phán thỏa thuận chung hay hợp đồng giao dịch. Nó khác với rủi ro
đạo đức ở chỗ rủi ro lựa chọn đối nghịch phát sinh khi đàm phán để đạt được thỏa thuân
công bằng, còn rủi ro đạo đức phát sinh khi một bên không đảm bảo thực hiện thỏa
thuận từ trước hoặc có năng lực tác động, điều chỉnh hoặc phản ứng với một hoặc một
số điều khoản bị sai lệch khỏi thỏa thuận ban đầu trong khi (các) bên còn lại không thể
làm được.
Rủi ro lựa chọn đối nghịch phát sinh khi có tình trạng thông tin bất đối xứng
giữa các bên khi bắt đầu tham gia và một giao dịch. Lấy ví dụ thị trường điện thoại di
động cũ. Có những điện thoại cũ chất lượng tốt và dĩ nhiên có những điện thoại cũ chất
lượng kém. Vấn đề ở chỗ người mua không thể biết trước khi vào cửa hàng mua một
chiếc điện thoại cũ thì cái nào là tốt và cái nào là không tốt. Điều này làm cho người
mua buộc phải giả định một mức chất lượng trung bình, từ đó tự đưa ra một mức giá
trung bình mà họ chấp nhận mua. Việc này dẫn đến một kết quả khác là trong quá trình
giao dịch, những chiếc điện thoại cũ dù còn rất tốt cũng không thể được bán với đúng
giá cao thích hợp, còn những chiếc rất kém lại có thể được bán với mức giá cao hơn giá
trị thực của nó. Hiện tượng này được Giáo sư George Akerlof mô tả trong nghiên cứu
năm 1970 của mình "The Market for Lemons: Quality Uncertainty and the Market

Mechanism" ( Thị trường về ô tô cũ, kém chất lượng: Sự không chắc chắn về chất
lượng và Cơ chế thị trường).
1. Nguồn gốc của chi phí đại diện Công ty đa quốc gia
a. Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational corporation)
hoặc MNE (từ các chữ Multinational enterprises), là công ty sản xuất hay cung cấp dịch
vụ ở ít nhất hai quốc gia.
Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia.
Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và các nền
kinh tế của các quốc gia. Các công ty đa quốc gia đóng một vai trò quan trọng trong quá
trình toàn cầu hóa; một số người cho rằng một dạng mới của MNC đang hình thành
tương ứng với toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp liên hợp toàn cầu.
b. Nguồn gốc của chi phí đại diện: Việc phân định quyền sở hữu và quyền
quản lý cho phép chia nhỏ quyền sở hữu theo những phần góp vốn bằng nhau và từ đó
sự thay đổi quyền sở hữu sẽ không gây phiền hà đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Và điều này cũng cho phép công ty thuê những nhà quản lý chuyên nghiệp để
điều hành công ty của mình theo mục tiêu của người chủ sở hữu.
Việc phân định giữa quyền sở hữu và quyền quản lý bản thân nó cũng mang lại
nhiều vấn đề phức tạp như:
• Mục tiêu của chủ sở hữu và mục tiêu của nhà quản lý khác nhau,
6
• Các nhà quản lý và các chủ sở hữu có những thông tin rất khác nhau về giá trị
của các tài sản của công ty.
• Sự mâu thuẫn giữa mục tiêu và sự bất cân xứng thông tin giữa cổ đông và nhà
quản lý đã tạo nên những vấn đề về người chủ – người đại diện, đồng thời nảy sinh các
chi phí đại diện.
=>Nhà quản lý thì biết nhiều về tiềm năng, rủi ro và các giá trị của công ty hơn
các cổ đông.
Chúng ta có thể chứng minh điều này bằng cách quan sát các thay đổi giá cổ
phần do các công bố của các giám đốc. Khi một công ty công bố một sự gia tăng cổ tức

thường xuyên, giá cổ phiếu thường tăng, vì các nhà đầu tư diễn dịch việc gia tăng này
như một dấu hiệu về sự tin tưởng của ban giám đốc công ty về thu nhập tương lai???
Lập luận của Modigliani và Miller, một sự gia tăng trong cổ tức chuyển một loại
thông tin nào đó đến các cổ đông. Đó là, ban điều hành doanh nghiệp dự kiến thu nhập
tương lai sẽ cao hơn.
Tương tự, một sự cắt giảm cổ tức được xem như truyền đạt các thông tin bất lợi
về triển vọng lợi nhuận của doanh nghiệp.
c. Chi phí đại diện là gì?
Theo Jensen – Meckling, vấn đề nhà quản lý trốn tránh nhiệm vụ của mình sẽ
được xem như một loại chi phí. Khi các nhà quản lý không thể hiện năng lực lãnh đạo
của họ cũng được xem là một loại chi phí.
Jensen – Meckling định nghĩa chi phí đại diện như là sự tổng hợp các chi phí của
một hợp đồng có tổ chức. Hợp đồng này gồm, một người (người chủ) thuê một người
khác (người đại diện) làm nhiệm vụ thay thế cho mình. Người chủ đưa ra quyết định -
ủy quyền cho người đại diện.
Khi đó, chi phí đại diện sẽ là : (M) + (B) + (R)
(M) : Chi phí theo dõi bởi người chủ.
(B) : Chi phí ràng buộc bởi người đại diện.
(R) : Sự mất mát.
Như vậy: Tổng chi phí theo dõi, ràng buộc và mất mát phụ trội được gọi là chi
phí đại diện vì chúng xuất phát từ các mối quan hệ giữa người chủ và người quản lý.
Cần có những chi phí để giám sát người đại diện nhằm mục đích đảm bảo rằng
người đại diện gắn với lợi ích của người chủ.
Người đại diện gánh chịu chi phí để cam kết rằng bản thân họ không xâm hại đến
lợi ích của người chủ.
7
Những chi phí được kết hợp với một kết quả mà kết quả đó không hoàn toàn phục
vụ lợi ích của người chủ.
Tóm lại, chi phí đại diện ( agency cost) xuất hiện khi:
(1) Các nhà quản lý không cố gắng thực hiện nhiệm vụ tối đa hóa giá trị

công ty.
(2) Các cổ đông sẽ gánh chịu phí tổn để kiểm soát ban quản lý và do đó
ảnh hưởng đến công việc của họ.
• Theo Jensen – Meckling, vấn đề nhà quản lý trốn tránh nhiệm vụ của mình sẽ
được xem như một loại chi phí, các nhà quản lý không thể hiện năng lực lãnh đạo của họ
cũng được xem là một loại chi phí.
Chí phí đại diện là loại chi phí phát sinh khi một tổ chức gặp phải vấn đề về sự
thiếu đồng thuận giữa mục đích của người quản trị và người sở hữu và vấn đề thông tin
bất cân xứng.
Vấn đề thông tin bất cân xứng tồn tại giữa người sở hữu và CEO là một dạng
điển hình của dạng chi phí này. Người đại diện (nhà quản trị doanh nghiệp) chính là
người làm việc thay mặt cho người sở hữu, nói cách khác là các cổ đông của doanh
nghiệp. Thông thường cổ đông của doanh nghiệp không hoặc rất ít có điều kiện giám sát
thường xuyên từng hành động của người quản trị. Đây là một điểm dễ làm phát sinh tình
trạng thông tin bất cân xứng và tiếp tục gây ra các vấn đề rủi ro đạo đức và lựa chọn đối
nghịch.
Theo Ross và Westerfield (tác giả cuốn Corporate Finance, phiên bản thứ 7): khi
doanh nghiệp mang một khoản nợ, sẽ có xung đột lợi ích phát sinh giữa cổ đông (người
nắm giữ cổ phiếu) và trái chủ (người nắm giữ trái phiếu) của doanh nghiệp (nếu doanh
nghiệp có phát hành trái phiếu). Xung đột phát sinh ở chỗ người sở hữu (cổ đông công
ty) thường muốn theo đuổi những chiến lược hoạt động có tính "ích kỷ", điều này làm
phát sinh chi phí đại diện (agency cost). Những chiến lược "ích kỷ" này thường tốn kém
do chúng làm giảm giá trị thị trường của toàn doanh nghiệp, chẳng hạn một chiến lược
kinh doanh với mức độ rủi ro cao; hoặc một chiến lược nhắm vào đầu tư những tài sản
có độ rủi ro thấp hơn kỳ vọng của trái chủ (trái chủ với mức đầu tư của mình vào doanh
nghiệp, ở dạng cho vay, có những kỳ vọng riêng về mức độ rủi ro trong hoạt động đầu tư
của doanh nghiệp để đảm bảo lợi ích tối đa cho mình) - còn gọi là những vấn đề liên
quan tới đầu tư dưới mức (underinvestment problem); hoặc cũng có thể là chiến lược
nhằm vắt kiệt lợi ích mà tài sản hiện tại của công ty có thể sinh ra phục vụ cho mục đích
của cổ đông - còn gọi là milking the property hay milking strategy.

Khi có quá nhiều "diễn viên" trên cùng một sân khấu và mỗi người diễn với một
mục đích khác nhau thì điều này có thể làm phát sinh những hành động sai lệch mà để
điều chỉnh lại sẽ rất tốn kém.
Trong doanh nghiệp, có nhiều cơ chế có thể được áp dụng để hạn chế tình trạng
bất đồng thuận giữa lợi ích của đại lý và lợi ích của người sở hữu, chẳng hạn: trả hoa
8

×