1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế. Sự ra
đời và phát triển của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế thị trường là một tất
yếu. Việc phát triển thị trường chứng khoán còn liên quan đến tiến trình cổ phần hóa
đang diễn ra sôi động hiện nay. Tuy nhiên từ sau khi ra đời, kết quả hoạt động của thị
trường chứng khoán không như mong đợi, một phần là do sự tham gia hỗ trợ rất hạn
chế của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa hoạt động huy động vốn và cho vay
truyền thống của các ngân hàng thương mại đã không còn đáp ứng kịp thời nhu cầu
vốn cho nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu mối quan hệ giữa hai chủ thể trên đồng
thời tìm ra giải pháp để thúc đẩy sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị
trường chứng khoán, hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường chứng khoán là cần thiết.
Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu “tăng cường hoạt động đầu tư của ngân hàng
công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán”, một mặt tìm ra giải pháp đổi
mới củng cố hoạt động của ngân hàng công thương Việt Nam, thành ngân hàng đa năng
hiện đại với những hoạt động đa dạng, đồng thời giúp cho thị trường chứng khoán trở nên
sôi động hơn, thực sự phát huy vai trò kênh dẫn vốn mới cho nền kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại và thị trường chứng
khoán , vai trò của ngân hàng thương mại đối với hoạt động của thị trường
chứng khoán , từ đó chỉ ra lợi ích của ngân hàng thương mại cũng như của thị
trường chứng khoán khi có sự tham gia của ngân hàng thương mại trên thị
trường chứng khoán
- Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán , phân tích
đánh giá sự tham gia của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng
khoán , những hỗ trợ và hạn chế, phân tích nguyên nhân
1
2
- Thực trạng hoạt động đầu tư của ngân hàng công thương và sự tham gia của
ngân hàng công thương trên thị trường chứng khoán , đánh giá kết quả, phân
tích hạn chế và nguyên nhân
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động đầu tư của ngân
hàng công thương Việt Nam trên thị trường chứng khoán
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Về lý thuyết: Hoạt động của ngân hàng thương mại, cụ thể là hoạt động đầu tư
chứng khoán và vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng
khoán.
- Về thực tế: Một số kết quả hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán giai
đoạn 2004-2007 của Ngân hàng công thương Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp-phân tích
- Phương pháp quy nạp
- Phương pháp logic biện chứng
- Phương pháp thống kê mô tả
5. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục
bảng biểu, phụ lục, luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Hoạt động ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư của NHCTVN trên thị trường chứng khoán
Chương 3: Giải pháp tăng cường hoạt động đầu tư của NHCTVN trên thị trường
chứng khoán
2
3
CHƯƠNG 1
HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Sự ra đời và quan niệm về NHTM
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.
Vai trò của nó là biến các khoản tiết kiệm thành đầu tư thông qua dòng tài chính gián
tiếp. Có rất nhiều cách định nghĩa về Ngân hàng, đó là theo chức năng hay các dịch
vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Theo quan niệm cổ điển, Ngân hàng là tổ chức nhận tiền gửi và cho vay tiền.
Tuy nhiên cách định nghĩa trên không phân biệt được Ngân hàng với một số tổ chức
tài chính khác. Vì vậy có một cách tiếp cận mới đầy đủ hơn về Ngân hàng, đó là dựa
trên các dịch vụ mà nó cung cấp: Ngân hàng là một loại hình tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm
và các dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần
thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
Như vậy, về bản chất, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc thù,
tính chất đặc thù thể hiện ở chỗ đối tượng tác nghiệp là tiền tệ. Ngân hàng thương
mại không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất như các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực
sản xuất – kinh doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, lưu thông
và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh, góp phần tăng nhanh tốc độ phát
triển kinh tế.
3
4
1.1.2. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại
1.1.2.1. Hoạt động cơ bản, truyền thống của ngân hàng thương mại cổ điển
Hoạt động huy động vốn: Toàn bộ các hoạt động tạo nên bên “Nguồn vốn”
trong Bảng cân đối tài sản của NHTM
Các ngân hàng luôn tìm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay hay nguồn
đầu vào của bất kỳ hoạt động nào. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các
khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng, đó là một món tiền được gửi tại ngân hàng
theo đơn vị thời gian có thể là tuần, tháng hay năm.Gửi tại ngân hàng, khách hàng sẽ
nhận được một mức lãi suất nhất định tuỳ theo từng thời điểm và từng ngân hàng.
Ngoài ra, với chức năng là thủ quỹ cho các doanh nghiệp nên nguồn tiền gửi
của các doanh nghiệp là nguồn có tỷ trọng lớn nhất. Tuy nhiên đây lại là loại tiền gửi
không kỳ hạn vì doanh nghiệp có thể yêu cầu rút ra hoặc sử dụng bất kỳ lúc nào.
Bên cạnh đó, các NHTM cũng có thể chủ động phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
để huy động vốn mỗi khi có nhu cầu. Chính hoạt động này đã làm phong phú thêm
lượng hàng hoá giao dịch trên TTCK.
Cuối cùng, các NHTM khi cần thiết còn có thể đi vay vốn của NHTW, vay các
NHTM khác trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên
ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc xác định lãi suất cho các hoạt động tài
chính khác, đặc biệt tác động vào thị giá chứng khoán.
Như vậy hoạt động huy động vốn của các NHTM rất đa dạng, phần nào đáp
ứng nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh.
Hoạt động sử dụng vốn: Toàn bộ các hoạt động tạo nên bên “Tài sản (hình
thành từ nguồn)” trong Bản cân đối tài sản của NHTM.
Hoạt động sử dụng vốn đầu tiên và chiếm tỷ trọng lớn của các NHTM là cho
vay. Cho vay có thể được phân loại theo thời gian, theo đối tượng vay vốn, theo
ngành nghề kinh doanh… Hoạt động cho vay trước đây thường đem lại thu nhập
chiếm tỷ trọng lớn nhất cho ngân hàng.
Hoạt động nhận tiền gửi và cho vay đối với các khách hàng đã hình thành
chức năng tạo tiền của ngân hàng, tham gia vào quá trình mở rộng lượng tiền cung
4
5
ứng, góp phần tác động vào sự hình thành lãi suất, ảnh hưởng đến hoạt động của thị
trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
Tiếp theo đó là hoạt động đầu tư, một hoạt động tuy có quy mô và chiếm tỷ
trọng nhỏ song cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tạo điều kiện cho các
NHTM thâm nhập sâu vào nền kinh tế.
Hoạt động quan trọng khác bên cạnh cho vay và đầu tư là chiết khấu, cầm cố
các giấy tờ có giá. Ngay từ thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu
mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương, những người bán các
khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền mặt.
Ngoài ra bên tài sản của NHTM còn có khoản mục ngân quỹ, trong đó có dự
trữ bắt buộc và dự trữ vượt quá. Đó là số tiền các NHTM trước khi tiến hành cho vay
và đầu tư phải dự trữ một phần nguồn vốn của mình để đảm bảo sự an toàn trong
hoạt động kinh doanh. Khoản mục dự trữ bắt buộc sẽ gửi tại NHTW, phần còn lại
được giữ tại ngân hàng trong tài khoản thanh toán. Đây chính là tồn quỹ nghiệp vụ
của ngân hàng, những khoản sinh lời rất thấp nhưng lại có tính lỏng cao nhằm đảm
bảo cho khả năng thanh toán và sự an toàn trong các hoạt động kinh doanh khác của
Ngân hàng.
Các hoạt động sử dụng vốn còn lại của NHTM bao gồm: mua sắm tài sản cố
định, thực hiện các hoạt động tài trợ, quảng cáo….chiếm tỷ trọng nhỏ và không trực
tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng nhưng góp phần phát triển và quảng bá các
hoạt động ngân hàng.
Hoạt động trung gian tài chính hay hoạt động tài trợ ngoại bảng của ngân
hàng thương mại
Đây là những hoạt động rất cơ bản và chính là những hoạt động đầu tiên của
một ngân hàng thương mại sơ khai.
Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Lịch sử cho thấy một trong những dịch vụ ngân
hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ, đó là việc một ngân hàng đứng ra
mua bán một loại tiền này để lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi
đó rất quan trọng đối với khách đi du lịch hay những khách buôn từ địa phương khác
đến.
5
6
Bảo quản vật có giá: Từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện
việc lưu trữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Các
giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang
được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền
Cung cấp các tài khoản giao dịch. Một dịch vụ mới, quan trọng trong thời kỳ
cách mạng công nghiệp ở Châu Âu, Châu Mỹ là tài khoản tiền gửi giao dịch, một tài
khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và
dịch vụ. Việc ra đời loại tài khoản tiền gửi này đã cải thiện đáng kể hiệu quả của quá
trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng
và an toàn hơn. Sau này với sự phát triển của tín dụng thương mại, các hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt đã không ngừng được phát triển, phương thức tổ
chức thanh toán cho khách hàng và giữa các ngân hàng với nhau cũng đa dạng và
thuận lợi hơn, nhờ đó làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ của nền kinh tế, góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn.
Ngoài ra các ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ như bảo lãnh, uỷ thác, tài trợ
thuê mua….ngày càng đáp ứng được tất cả các yêu cầu của khách hàng trong nền
kinh tế.
1.1.2.2 Hoạt động đa dạng của ngân hàng thương mại hiện đại
Cùng với sự phát triển và yêu cầu của nền kinh tế, các ngân hàng thương mại
truyền thống đã không ngừng đa dạng hoá và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm đáp
ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đồng thời trở thành những ngân hàng
đa năng hiện đại.
So với các hoạt động truyền thống, hoạt động của NHTM đa năng có những
khác biệt sau:
Hoạt động nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn được huy động bằng nhiều
hình thức hơn, đồng thời việc sử dụng vốn an toàn và hiệu quả hơn.
Nguồn vốn của NHTM đa năng vẫn bao gồm các khoản mục cơ bản như: vốn
chủ sở hữu, vốn huy động và vốn vay nhưng cơ cấu vốn và phương thức huy động
vốn đã có nhiều thay đổi. Các công cụ để huy động vốn đa dạng, phong phú hơn và
6
7
đã chú trọng rất nhiều đến lợi ích khách hàng. Đặc biệt, các NHTM đã mở rộng và
tăng cường huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán bằng cách phát hành cổ
phiếu, trái phiếu với các kỳ hạn khác nhau.
Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng ngày nay là tạo ra và cung cấp các
dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Trước đây, một trong những dịch vụ quan
trọng, chiếm tỷ trọng lớn nhất là cho vay. Ngày nay các ngân hàng đã thực hiện được
những khoản cho vay tài trợ đối với hoạt động đầu tư của các hãng kinh doanh hay
tài trợ cho chi tiêu của các thành viên trong xã hội. NHTM đã mở rộng đối tượng cho
vay từ chỗ chỉ ưu tiên cho các doanh nghiệp vay vốn để phục vụ sản xuất sang cho
vay tiêu dùng. Những khoản vay này tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho hàng
ngàn người. Mặc dù không phải tất cả những người này đều vay vốn ngân hàng
nhưng chắc chắn họ là những người được hưởng lợi gián tiếp từ hoạt động cho vay.
Các ngân hàng thương mại cũng có thể cho vay lẫn nhau. Tuy nhiên ngân hàng không
thể sử dụng toàn bộ số vốn huy động để cho vay. Một mặt, hầu hết các khoản cho vay
có tính thanh khoản thấp, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường một cách dễ
dàng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt. Một vấn đề khác nữa là những khoản cho vay
thuộc nhóm tài sản của ngân hàng có mức rủi ro cao nhất như rủi ro do vỡ nợ cao
nhất.
Vì tất cả những lý do trên, các ngân hàng đã phân chia danh mục tài sản của
mình vào một số loại hình tài sản sinh lời khác: đầu tư chứng khoán, kinh doanh
ngoại tệ, kinh doanh bất động sản . Ngân hàng chủ yếu đầu tư vào các loại chứng
khoán sau: tín phiếu và trái phiếu chính phủ, tín phiếu và trái phiếu công ty, các loại
chứng khoán nợ khác và một số loại cổ phiếu được pháp luật cho phép.
Về hoạt động trung gian, trước hết là tư vấn tài chính. Các NHTM thường
được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết
kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng,
từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị
trường trong và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ. Ngoài ra, các
ngân hàng còn quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu
7
8
tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn
hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Ngoài việc quản lý tiền mặt
cho các tổ chức, còn một xu hướng khác là việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho
người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty môi giới
chứng khoán đang cung cấp cho khách hàng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ
tài chính liên quan. Các hoạt động khác như cho khách hàng kinh doanh thuê mua
thiết bị, bán các dịch vụ bảo hiểm tín dụng cho khách hàng thông qua các liên doanh
hoặc thoả thuận đại lý kinh doanh độc quyền, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán ở đó cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các
chứng khoán khác, cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư (bảo lãnh phát hành chứng
khoán) và ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn…. đã đưa ngân hàng thực sự trở
thành một “bách hoá tài chính”, cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Nhìn chung, danh mục dịch vụ
mà ngân hàng đa năng cung cấp đem lại sự thuận lợi rất lớn cho khách hàng và làm
tăng thu nhập cho ngân hàng, cải thiện cơ cấu thu nhập của ngân hàng, tránh tập
trung thu nhập chủ yếu từ hoạt động cho vay truyền thống, giảm rủi ro cho ngân
hàng.
Về mặt cơ cấu tổ chức của một NHTM đa năng ngày nay cũng có khá
nhiều thay đổi. Các NHTM được tổ chức dưới dạng các công ty đa quốc gia hay
các tập đoàn tài chính, có trụ sở chính tại một nước nhưng có công ty thành viên
tại nhiều nước.
1.1.3. Hoạt động của NHTM trên TTCK
1.1.3.1 Phát hành chứng khoán
Để phục vụ cho nhu cầu tăng vốn dài hạn, ngoài hình thức huy động các loại
tiền gửi, vay NHTM khác trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng… ngân hàng thương
mại có thể huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu (đối với các ngân hàng
thương mại cổ phần là tăng vốn điều lệ) và trái phiếu để vay tiền từ nền kinh tế. Việc
các NHTM phát hành cổ phiếu, trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: Một mặt nó góp
8
9
phần tăng cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán, là động lực giúp cho thị trường
phát triển. Mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM để phục vụ
mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.
1.1.3.2 Đầu tư và kinh doanh chứng khoán
Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài
hạn, các NHTM ngày nay không chỉ thực hiện vai trò là một trung gian tài chính - sử
dụng nguồn vốn để cho vay hay biến các khoản tiết kiệm trong dân cư thành các
khoản đầu tư của ngân hàng nhằm mục đích sinh lợi- mà còn tham gia trên TTCK với
vai trò là nhà đầu tư trực tiếp. Hầu hết các NHTM đầu tư trên thị trường trái phiếu,
đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn.
Hoạt động đầu tư nhằm mục đích tăng thu nhập cho chính bản thân ngân hàng. Trên
thực tế, một số lượng lớn trái phiếu chính phủ và công trái là NHTM mua. Thêm nữa,
các ngân hàng còn thực hiện kinh doanh chứng khoán theo sự ủy thác của khách
hàng. Song song với các hoạt động đầu tư là đầu cơ chứng khoán trên thị trường: tiến
hành mua chứng khoán để bán chứng khoán tại các thời điểm khác nhau khi có sự
biến động của thị giá chứng khoán.
Các hoạt động kinh doanh chứng khoán trực tiếp nói trên ngày càng được các
ngân hàng chú trọng hơn vì chúng mang lại nhiều khoản thu nhập lớn cho ngân hàng.
Khi đưa ra quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán tại những thời điểm thích
hợp, ngân hàng là người có lợi thế hơn bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào khác vì có
đầy đủ các cơ sở thông tin về doanh nghiệp phát hành chứng khoán, khả năng chuyên
môn về phân tích thông tin, thẩm định năng lực tài chính tốt.
1.1.3.3 Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong
đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại
lý sơ cấp hoặc bảo lãnh phát hành. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng như các tổ chức
Chính phủ khi muốn phát hành chứng khoán ra thị trường rất cần sự tư vấn của ngân
hàng. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi
9
10
tham gia bảo lãnh phát hành. Dưới sự bảo lãnh bằng uy tín của các Ngân hàng thương
mại lớn, chứng khoán sẽ được phát hành và đến với công chúng một cách dễ dàng
hơn, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các loại chứng khoán sớm được giao dịch tại
thị trường cấp hai.
1.1.3.4 Môi giới, tư vấn đầu tư chứng khoán
Với chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp, thực hiện kiểm soát và giám
sát bằng đồng tiền đối với các hoạt động kinh tế quốc dân, các ngân hàng thương mại
luôn có đầy đủ các thông thin và khả năng phân tích mọi mặt hoạt động sản xuất kinh
doanh, tình hình tài chính, các nguồn tài trợ và cả xu hướng phát triển của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy mà sự tư vấn của ngân hàng luôn có cơ sở thực tiễn,
và thông tin thường chính xác, đáng tin cậy cho khách hàng. Đến với các ngân hàng
thương mại, các cá nhân hay doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư vào chứng khoán sẽ
luôn có được những cơ hội tốt và những lựa chọn đầu tư đúng đắn, hiệu quả nhất.
1.1.3.5 Một số hoạt động khác
* Cho vay cầm cố chứng khoán
Xuất phát từ hình thức cho vay có tài sản đảm bảo, NHTM cho khách hàng
của mình vay để mua chứng khoán và sử dụng ngay các chứng khoán mua được làm
tài sản cầm cố cho khoản vay.
Để thực hiện các khoản vay cầm cố, khách hàng phải sử dụng tài khoản ký
quỹ. Theo đó, khách hàng sẽ ký quỹ một số tiền nhất định để mua chứng khoán, phần
còn lại khách hàng vay của NHTM. Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả
vốn vay cùng lãi cho NHTM. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có
quyền bán chứng khoán cầm cố để thu hồi khoản vay.
Trong hoạt động cho vay cầm cố, rủi ro xảy ra đối với NHTM là chứng khoán
cầm cố có thể bị giảm giá tới mức giá trị của chúng thấp hơn giá trị khoản vay cầm
cố. Vì thế khi cho vay, NHTM phải có những nguyên tắc riêng để đảm bảo thu hồi
vốn và tránh tập trung cho vay quá mức vào một khách hàng hay một loại chứng
10
11
khoán nhất định. Hoạt động này thường đi kèm với hoạt động môi giới và hỗ trợ hoạt
động môi giới của NHTM.
* Quản lý thu nhập từ chứng khoán cho khách hàng
Xuất phát từ hoạt động lưu ký chứng khoán, NHTM tổ chức theo dõi tình hình
thu lãi chứng khoán khi đến hạn rồi gửi thông báo cho khách hàng. Tuy nhiên trên
thực tế, các NHTM thường không trực tiếp quản lý thu nhập chứng khoán mà việc trả
lãi chứng khoán do các tổ chức phát hành tự động chuyển thành chứng khoán tại
trung tâm lưu ký chứng khoán thuộc sở giao dịch chứng khoán.
Ngoài việc quản lý thu nhập từ chứng khoán cho khách hàng, các NHTM còn
quản lý số tiền đầu tư chứng khoán cho các nhà đầu tư chứng khoán.
* Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của những người đầu
tư, được uỷ thác cho các công ty quản lý quỹ đầu tư để quản lý và đầu tư vào chứng
khoán nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho những người đầu tư vào quỹ. Để hình
thành một quỹ đầu tư chứng khoán, phải có một công ty quản lý quỹ đầu tư đứng ra
thành lập quỹ huy động vốn dưới hình thức phát hành chứng chỉ quỹ đâu tư. Khi quỹ
đã được thành lập, công ty quản lý quỹ có thể sử dụng số tiền thu được từ việc phát
hành chứng chỉ quỹ đầu tư vào các loại chứng khoán trên thị trường theo điều lệ của
quỹ đầu tư chứng khoán. Trong hoạt động quản lý đầu tư, công ty quản lý quỹ phải
tách bạch các tài sản của công ty với tài sản của quỹ. Để thực hiện tốt việc này, phải
có một ngân hàng giám sát đứng ra quản lý tiền và lưu ký chứng khoán của quỹ.
Công ty quản lý quỹ có trách nhiệm thực hiện kinh doanh chứng khoán do điều lệ
quỹ và Nghị quyết của Đại hội những người đầu tư. Khi thực hiện quản lý quỹ đầu
tư, NHTM sẽ được hưởng một khoản phí quản lý do điều lệ quỹ quy định.
* Thực hiện uỷ thác đầu tư cho khách hàng
Xuất phát từ nghiệp vụ uỷ thác truyền thống, các NHTM hiện đại ngày nay đã
quan tâm phát triển dịch vụ uỷ thác đầu tư cho khách hàng, đáp ứng nhu cầu đầu tư
11
12
của khách hàng khi họ không có khả năng, điều kiện để tự thực hiện. Qua đó, NHTM
thay mặt cho khách hàng để quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán có mặt trên
thị trường sau khi đã được sự đồng ý của khách hàng. Tuỳ theo từng điều kiện nhất
định, NHTM có thể toàn quyền xử lý các tình huống và tự ra quyết định đầu tư hợp
lý.
1.1.4. Vai trò của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán
Qua phân tích hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng
khoán ở phần trên, có thể khái quát rằng ngân hàng thương mại có hai nhóm hoạt
động: vừa là người phát hành, kinh doanh chứng khoán, vừa là người cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ. Là một cấu thành của thị trường tài chính, sự phát triển của TTCK sẽ
kém bền vững nếu thiếu sự gắn kết với hệ thống ngân hàng. Kinh nghiệm của nhiều
nước cho thấy rằng, “nếu thị trường chứng khoán là một cạnh cắt của thị trường tài
chính thì các ngân hàng vừa là nền móng, vừa là xi măng”. Như vậy có thể thấy hệ
thống ngân hàng và TTCK có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, kết hợp tác động với
nhau cùng phát triển. Vai trò của hệ thống ngân hàng trong sự phát triển TTCK được
thể hiện trên cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
1.1.4.1. Trên thị trường sơ cấp
Là một trong những chủ thể cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán,
hoạt động của ngân hàng thương mại đã tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển
của thị trường chứng khoán.
Các ngân hàng thương mại có thể phát hành và bán cổ phiếu của mình, phát
hành để tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc tăng vốn bổ sung, phát hành trái phiếu
để huy động vốn từ nền kinh tế.
Ngoài ra, các ngân hàng thương mại cũng gián tiếp tham gia vào quá trình tạo
hàng hoá cho thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động trên thị trường sơ cấp
bằng việc cung cấp các dịch vụ về tư vấn cho các doanh nghiệp phát hành chứng
khoán, làm đại lý hoặc bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ, chứng khoán doanh
nghiệp.
12
13
Như vậy ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng đối với việc tạo ra
lượng hàng hoá đa dạng, phong phú cho thị trường chứng khoán.
1.1.4.2. Trên thị trường thứ cấp
NHTM có vai trò quan trọng trên thị trường thứ cấp như sau:
a. Đối với các chủ thể khác nhau tham gia trên thị trường
Hoạt động trên thị trường thứ cấp tuân theo ba nguyên tắc cơ bản là: Nguyên
tắc trung gian, nguyên tắc đấu giá và nguyên tắc công khai. Trong đó, nguyên tắc
trung gian đòi hỏi “những người muốn mua hay bán chứng khoán không tiến hành
giao dịch trực tiếp với nhau mà phải thông qua các nhà trung gian môi giới”. Vì vậy,
các NHTM, đặc biệt là các CTCK của NHTM là cầu nối giữa khách hàng hay các nhà
đầu tư với các nhà phát hành trên TTCK. Thông qua các trung gian tài chính như
NHTM, CTCK, hoạt động của TTCK sẽ đảm bảo đúng mục đích: ổn định, lành
mạnh, hợp pháp, các chứng khoán giao dịch được đảm bảo là chứng khoán thực, bảo
vệ lợi ích cho nhà đầu tư.
Ngoài ra, với nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư cho
khách hàng, NHTM có vai trò giúp khách hàng lựa chọn chứng khoán để đầu tư một
cách hiệu quả nhât.
Ngân hàng do có những quan hệ khách hàng lâu dài nên hệ thống thông tin
của ngân hàng cũng vô cùng quan trọng, đây chính là cơ sở để tham chiếu tính chính
xác, trung thực về thông tin liên quan đến các công ty niêm yết, đảm bảo nguyên tắc
công khai, minh bạch của TTCK. Đồng thời, việc ngân hàng thương mại tham gia sẽ
tiết kiệm chi phí trong việc thu thập và xử lý thông tin cho nhà đầu tư.
b.Đối với việc xác định giá cả trên thị trường.
Khi các ngân hàng tham gia vào mua bán chứng khoán, hoặc ngân hàng làm
cổ đông chiến lược cho một doanh nghiệp nào đó sắp phát hành chứng khoán, thì sẽ
có tác động đến cung và cầu chứng khoán trên thị trường, do đó làm thay đổi thị giá
chứng khoán theo chiều hướng nhất định. Ngoài ra, việc các ngân hàng được phép
chủ động điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay cũng tác động trực tiếp đến thị giá
13
14
chứng khoán. Thị trường tiền tệ và TTCK như hai bình thông nhau trong sự luân
chuyển vốn, lãi suất ngân hàng tăng hoặc giảm sẽ ảnh hưởng đến giá chứng khoán:
vốn được chuyển từ TTCK sang thị trường tiền tệ hoặc ngược lại.Sau đó việc ổn định
giá cả trên thị trường chứng khoán cũng có sự tham gia không nhỏ của các NHTM.
Các NHTM và các CTCK phải giành một tỷ lệ nhất định mua vào khi giá chứng
khoán xuống quá thấp và bán ra khi giá thị trường lên quá cao.
1.2. Hoạt động đầu tư của NHTM trên TTCK
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hoạt động đầu tư chứng khoán của
NHTM
* Khái niệm
Hoạt động đầu tư chứng khoán là việc bỏ vốn thường xuyên, lâu dài hoặc là
trong ngắn hạn vào các chứng khoán có mức độ rủi ro khác nhau để mong kiếm
được thu nhập từ quyền sở hữu các chứng khoán đó.
* Đặc điểm hoạt động đầu tư chứng khoán của các Ngân hàng thương mại
Khác với hoạt động đầu tư của cá nhân nhỏ lẻ trên thị trường chứng khoán,
hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại có những đặc điểm như: tính chuyên
môn hoá cao, quy mô đầu tư lớn, danh mục đầu tư linh hoạt và đa dạng, yêu cầu an
toàn vốn cao, hoạt động đầu tư bị kiểm soát, phạm vi đầu tư lớn và đa dạng…
Tính chuyên môn hoá cao
Với tư cách là một trung gian tài chính, chuyên hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ, hoạt động kinh doanh chứng khoán của Ngân hàng thương mại được tổ
chức và thực hiện một cách chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá. Đó là trình độ nhân
lực của ngân hàng, cơ sở vật chất, sự quản lý hoạt động đầu tư. Đặc biệt là hệ thống
thông tin mà ngân hàng nắm giữ, các phân tích về khả năng tài chính của các doanh
nghiệp niêm yết, đây là điều khó khăn và tốn nhiều chi phí nếu nhà đầu tư cá nhân
muốn có được. Bởi vậy, hoạt động đầu tư chứng khoán của các NHTM là hoạt động
có chất lượng đầu tư cao, độ rủi ro thấp…
14
15
Quy mô đầu tư lớn, danh mục đầu tư linh hoạt và đa dạng
Hoạt động đầu tư chứng khoán của NHTM ngày càng lớn do vai trò ngày
càng quan trọng của nó trong hoạt động của NHTM, do sự tăng trưởng, phát triển
của NHTM trên quy mô tài sản, nguồn vốn, do áp lực cạnh tranh ngày càng khốc
liệt…Để đảm bảo được yêu cầu về việc đáp ứng khả năng thanh khoản khi cần thiết,
khả năng sinh lợi…NHTM thực hiện đầu tư vào một danh mục chứng khoán linh
hoạt và đa dạng. Sự linh hoạt và đa dạng thể hiện ở các loại chứng khoán khác nhau,
thời gian đáo hạn khác nhau, mức độ rủi ro, sinh lời khác nhau, khả năng chuyển đổi
thành tiền khác nhau…
Hoạt động đầu tư bị kiểm soát
Cũng giống như các hoạt động sử dụng vốn khác của NHTM, hoạt động đầu
tư chứng khoán bị kiểm soát chặt chẽ bởi chính bản thân ngân hàng và của Nhà
nước. Hoạt động đầu tư của NHTM thường được quy định chi tiết trong Luật các
TCTD, các quy định của NHNN và điều lệ của NHTM. Mục đích của việc kiểm soát
của bản thân các ngân hàng là nhằm đáp ứng yêu cầu về tính an toàn trong hoạt động
và đảm bảo lợi ích của người gửi tiền.
Phạm vi đầu tư lớn, đa dạng
Hoạt động của các NHTM thường bao trùm lên hầu hết các ngành nghề, khu
vực của nền kinh tế quốc dân, do đó các NHTM nắm được nhiều thông tin, cơ hội
đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Tận dụng những cơ hội này trong
hoạt động đầu tư chứng khoán, các NHTM có được phạm vi đầu tư lớn và đa dạng.
* Phân loại hoạt động đầu tư
a. Theo mục đích đầu tư
Đầu tư ngân quỹ : Là việc NHTM đầu tư những khoản rất ngắn hạn vào các
chứng khoán có tính thanh khoản cao với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán, chi
trả và nâng cao khả năng sinh lời của Ngân hàng. Các chứng khoán thanh khoản cao
15
16
bao gồm tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng và một số loại
thương phiếu.
Đầu tư hưởng lợi : Bất kì một nhà đầu tư nào dù là cá nhân hay tổ chức khi
đầu tư cũng nhằm mục đích này. Lợi nhuận mang lại bao gồm trái tức của trái phiếu,
cổ tức của cổ phiếu và phần chênh lệch giá mua – bán (đầu tư chênh lệch giá)
Đầu tư thực hiện hoạt động tạo lập thị trường:
Hoạt động tạo lập thị trường của ngân hàng thương mại thường thực hiện qua ba
hoạt động chính, đó là: môi giới, tự doanh và thực hiện lệnh để đáp ứng các yêu cầu từ
phía nhà đầu tư. Hoạt động môi giới của nhà tạo lập thị trường không phải là hoạt động
mua bán chứng khoán, chỉ đơn giản là sắp xếp các giao dịch giữa người mua và người
bán. Trong hoạt động tự doanh, nhà tạo lập thị trường sẽ mua và bán chứng khoán bằng
chính tài khoản của mình, nhà tạo lập thị trường không chỉ sắp xếp các giao dịch cho
khách hàng mà thực chất là bán chứng khoán từ tồn kho của mình cho khách hàng.
b. Theo phương thức đầu tư
Đầu tư trực tiếp: là việc các NHTM trực tiếp bỏ vốn vào các tài sản thực và
tài sản tài chính để hưởng lãi và thực hiện một số mục đích.
Đầu tư gián tiếp: là việc các NHTM thực hiện hoạt động đầu tư thông qua một
số tổ chức trung gian như Ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu
tư... để hưởng lợi tức. Uỷ thác đầu tư: Đây là cách thức các NHTM uỷ thác cho công
ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện hoạt động đầu tư chứng khoán hộ
mình trên cơ sở các văn bản, hợp đồng ký kết giữa NHTM và đơn vị nhận uỷ thác.
c. Theo sản phẩm đầu tư
Đầu tư trái phiếu: là việc các NHTM thực hiện nắm giữ các trái phiếu. Do các
trái phiếu có độ rủi ro thấp hơn cổ phiếu, lại là giấy xác nhận đòi nợ đối với trái chủ
nên được thanh toán trước khi công ty phá sản. Ngân hàng thương mại thường đầu tư
vào các loại trái phiếu: trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc…
16
17
Đầu tư cổ phiếu : Đầu tư vào cổ phiếu là việc các NHTM thực hiện mua một
loại cổ phiếu hay một danh mục cổ phiếu với nhiều mục đích khác nhau như hưởng
lợi, nắm quyền kiểm soát…
1.2.2. Quy trình đầu tư chứng khoán của Ngân hàng thương mại
Sơ đồ 1.3: Các bước quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
Thiết lập mục tiêu đầu tư
Thiết lập chiến lược đầu tư
Xây dựng danh mục
Giám sát, đo lường và đánh giá kết quả hoạt động
Thiết lập mục tiêu đầu tư: Đây là bước đầu tiên và cũng là bước có ý nghĩa
quyết định đến các khâu tiếp theo. Thông thường, mục tiêu đầu tư bao gồm: Mức
sinh lời kỳ vọng trong một thời kỳ nhất định; Mức rủi ro tối đa có thể chấp nhận
được; Thời gian đầu tư làm cơ sở cho việc đánh giá kết quả của hoạt động đầu tư.
Như vậy, 2 khía cạnh quan trọng nhất của mục tiêu đầu tư là lợi nhuận và rủi
ro.
Thiết lập chiến lược đầu tư: Việc thiết lập chiến lược đầu tư nhằm đáp ứng
cao nhất những mục tiêu đầu tư đã đặt ra. Để làm được điều này nhà quản lý danh
mục đầu tư phải tìm hiểu kỹ các điều kiện kinh tế, tài chính hiện tại và dự báo được
17
18
những xu thế sẽ diễn ra trong tương lai, từ đó kết hợp những dự báo về thị trường
với nhu cầu đầu tư để lập ra chiến lược thích hợp. Thông thường các nhà quản lý
danh mục đầu tư sẽ lựa chọn giữa chiến lược quản lý danh mục chủ động và chiến
lược quản lý danh mục thụ động hoặc là kết hợp giữa các chiến lược này.
Xây dựng danh mục: Căn cứ vào lược đầu tư đã được thiết lập, người quản lý
danh mục sẽ cụ thể hoá chiến lược đó, đưa ra quyết định về việc phân bổ cho các
chứng khoán khác nhau, theo đó sẽ đưa ra quyết định cụ thể là sẽ đầu tư vào những
loại chứng khoán nào, tỷ trọng của mỗi loại trong danh mục đầu tư.
Giám sát, đo lường và đánh giá kết quả hoạt động đầu tư: Nhà quản lý danh
mục đầu tư cần liên tục theo dõi những biến động của thị trường để có những điều
chỉnh kịp thời và thích hợp về chiến lược đầu tư, mà cụ thể hơn là bản thân danh
mục đầu tư. Việc đánh giá kết quả của danh mục đầu tư thường được đánh giá trên 2
khía cạnh: Người quản lý và bản thân danh mục. Người quản lý danh mục tốt đáp
ứng được hai yêu cầu: có khả năng kiếm được mức lợi nhuận cao hơn trung bình ứng
với một loại rủi ro nhất định; có khả năng đa dạng hoá danh mục hoàn toàn để loại bỏ
tất cả các rủi ro không hệ thống so với chuẩn của danh mục. Kết quả của danh mục
đầu tư hay mức sinh lời tổng thể của danh mục thường được đem so sánh với kết quả
của một danh mục đầu tư chuẩn.
1.2.3. Danh mục đầu tư và quản lý danh mục đầu tư
Danh mục đầu tư theo nghĩa chung nhất là một tập hợp tài sản thuộc sở hữu
của một nhà đầu tư cá nhân hay tổ chức gồm nhiều hơn một cổ phiếu, trái phiếu,
hàng hoá, bất động sản tài sản tương đương tiền hoặc tài sản khác (Từ điển thuật ngữ
tài chính và đầu tư Barron’s).
Như vậy, có thể hiểu rằng danh mục đầu tư chứng khoán là các khoản đầu tư
của một cá nhân hoặc tổ chức vào nhiều hơn một loại chứng khoán (như cổ phiếu,
trái phiếu, chứng khoán phái sinh...).
Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là một quá trình bao gồm việc phân
tích và ra các quyết định về việc xây dựng một danh mục các loại chứng khoán đáp
18
19
ứng tốt nhất nhu cầu của chủ đầu tư và sau đó thực hiện theo dõi, điều chỉnh các danh
mục này nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán về bản chất được thực hiện dựa trên cơ sở định lượng mối quan hệ giữa rủi ro
và lợi tức thu được và nguyên tắc đa dạng hoá.
* Đa dạng hoá danh mục đầu tư: Đây là kỹ thuật phân tán rủi ro thông qua
việc đầu tư vào không chỉ một mà nhiều loại chứng khoán khác nhau. Nhờ vậy rủi ro
của khoản đầu tư sẽ được giảm bớt và lợi nhuận thu được có khả năng ổn định hơn.
Đa dạng hoá danh mục đầu tư bằng cách đa dạng hoá về loại chứng khoán, đầu tư
vào nhiều loại công cụ - chứng khoán có mức độ rủi ro khác nhau như cổ phiếu, trái
phiếu, tham gia các quỹ đầu tư…; trong từng loại chứng khoán đầu tư vào nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau qua đó giảm thiểu tác động từ những rủi ro cụ thể
của các ngành nhất định. Đa dạng hoá danh mục đầu tư là biện pháp quan trọng nhất
giúp cho việc đạt được các mục tiêu tài chính dài hạn trong khi giảm thiểu được rủi
ro. Tuy nhiên đa dạng hoá không đảm bảo chắc chắn mọi rủi ro sẽ được loại bỏ hết
và hoàn toàn không có khả năng thua lỗ, mà đa dạng hoá chỉ có thể loại bỏ một phần
hoặc toàn bộ rủi ro phi hệ thống, còn không thể loại bỏ được rủi ro hệ thống.
* Vai trò của danh mục đầu tư chứng khoán
Việc nắm giữ các chứng khoán có vai trò quan trọng đối với danh mục tài sản
của ngân hàng như đem lại thu nhập, nâng cao tính thanh khoản, tăng cường mức độ
đa dạng hoá, hạn chế rủi ro và ít nhất một phần thu nhập của ngân hàng không phải
chịu thuế. Khoản mục đầu tư cũng có vai trò ổn định thu nhập của ngân hàng, tạo ra
thu nhập bổ sung khi các nguồn thu khác (đặc biệt là nguồn thu từ lãi cho vay) suy
giảm.
1.3. Điều kiện để NHTM đầu tư trên TTCK
Để tham gia hoạt động cũng như đầu tư trên thị trường chứng khoán, các
NHTM cũng phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện về cơ sở pháp lý, quy mô hoạt động,
uy tín, trình độ công nghệ ngân hàng.... và tuân thủ nghiêm túc các quy định của thị
trường.
19
20
1.3.1. Cơ sở pháp lý:
Có ba quan điểm về sự tham gia của các ngân hàng trên trên thị trường chứng
khoán bao gồm: các ngân hàng có thể tự do tham gia kinh doanh trên TTCK; các
ngân hàng muốn kinh doanh trên thị trường chứng khoán thì phải thành lập công ty
chứng khoán riêng; các ngân hàng thương mại không được hoặc chỉ tham gia một
cách hạn chế vào hoạt động của thị trường chứng khoán, được thể hiện qua ba mô
hình tổ chức ngân hàng thương mại như sau:
Mô hình thứ nhất là mô hình ngân hàng đa năng toàn phần, hay còn gọi là mô
hình ngân hàng kiểu Đức, được áp dụng tại Đức và một số nước Bắc Âu, Hà Lan,
Thuỵ Sỹ, Áo. Mô hình này không tách biệt được hoạt động của Ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Các ngân hàng thương mại ngoài việc kinh doanh tín dụng và cung cấp các
dịch vụ ngân hàng còn được phép thực hiện cung cấp đầy đủ các dịch vụ kinh doanh
chứng khoán, bảo hiểm với tư cách là một pháp nhân duy nhất. Điều này xuất phát từ
mong muốn đa dạng hoá các dịch vụ tài chính nhằm đáp ứng một cách tốt nhất các
nhu cầu của khách hàng. Các NHTM là thành viên chính thức tham gia giao dịch trên
TTCK.
Mô hình thứ hai là mô hình ngân hàng đa năng một phần-hạn chế kiểu Anh,
được áp dụng tại Anh và một số nước như Canada, Úc, v.v.
Các ngân hàng này không tham gia trên thị trường chứng khoán một cách trực
tiếp mà thông qua các công ty chứng khoán do nó thành lập. Các công ty chứng
khoán này sẽ thay mặt ngân hàng để thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Mô hình thứ ba là mô hình ngân hàng chuyên doanh. Theo mô hình này, các
ngân hàng thương mại không được phép tham gia vào việc môi giới, kinh doanh
chứng khoán, chỉ được phép kinh doanh trong phạm vi các hoạt động ngân hàng
thương mại, còn việc kinh doanh chứng khoán phải do các công ty chứng khoán độc
lập thực hiện. Đây là mô hình được áp dụng tại Mỹ và Nhật. Đạo luật Glass Steagall
(1933) của Mỹ quy định chỉ có ngân hàng đầu tư – ngân hàng thương mại đặc biệt
20
21
kinh doanh đối với vốn trung và dài hạn, và sau năm 1987 có thêm các ngân hàng
thương mại rất lớn mới được phép tham gia kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Còn ở Nhật ngay cả ngân hàng đầu tư cũng không được phép kinh doanh chứng
khoán. Ở đây, các ngân hàng thương mại không được phép tham gia quá sâu hay
cạnh tranh quá mức trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, dù có sự tách
biệt về pháp lý giữa công nghiệp ngân hàng và công nghiệp chứng khoán theo đạo
luật Glass – Steagall ở Mỹ và đạo luật về chứng khoán ở Nhật, các Ngân hàng
thương mại ngày càng tham gia nhiều hơn vào hoạt động chứng khoán và có xu
hướng tiến gần tới một kiểu ngân hàng đa năng phong cách Anh.
Như vậy, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước mà các ngân hàng thương
mại có được tham gia vào thị trường chứng khoán hay không và nếu được tham gia
thì sẽ phải tổ chức hoạt động như thế nào, ở mức độ nào. Với các nước phát triển,
trên cơ sở các điều kiện thuận lợi về hạ tầng kỹ thuật, môi trường pháp lý, kinh
nghiệm tổ chức quản lý, trình độ nhận thức cũng như thu nhập của công chúng ở mức
cao, có thể áp dụng mô hình ngân hàng đa năng toàn phần . Song đối với các nước
đang phát triển, mô hình đa năng hạn chế kiểu Anh sẽ đảm bảo sự an toàn cần thiết
cho các hoạt động của các ngân hàng và của thị trường chứng khoán.
Ngoài ra, để hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại trên thị trường
chứng khoán có thể phát triển, đòi hỏi phải có một hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động đầu tư chứng khoán. Khung
pháp lý phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, tạo được các cơ sở pháp lý cơ bản
cho hoạt động đầu tư chứng khoán. Đồng thời các quy định phải liên tục được hoàn
thiện nhằm đáp ứng thực tiễn của hoạt động đầu tư chứng khoán. Hiện nay các
NHTM sẽ không thể thực hiện được hoạt động tạo lập thị trường do các quy định của
pháp luật hiện hành không cho phép các NHTM thực hiện chức năng môi giới chứng
khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán.
21
22
Khung pháp lý quy định cụ thể quyền hạn của nhà đầu tư, đảm bảo công bằng
và lợi ích cho nhà đầu tư, khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào thị trường chứng
khoán
1.3.2. Uy tín của ngân hàng
Uy tín của ngân hàng được đánh giá qua quy mô hoạt động, năng lực tài chính
và an toàn trong hoạt động.
Trước hết ngân hàng phải có nguồn vốn đủ lớn và cơ cấu vốn thích hợp.
- Vốn điều lệ: Quy mô của vốn điều lệ, quỹ dự trữ vốn điều lệ ảnh hưởng rất
lớn đến quy mô của việc đầu tư cổ phiếu nói riêng và đầu tư chứng khoán của NHTM
nói chung. Bên cạnh đó, quy mô vốn điều lệ ảnh hưởng tới việc tăng cường điều kiện
cơ sở vật chất, kỹ thuật, hiện đại hoá ngân hàng, do đó ảnh hưởng tới khả năng thực
hiện và quản lý hoạt động đầu tư. Quy mô vốn điều lệ là nhân tố quyết định các
NHTM có thể tăng quy mô tài sản có, tài sản nợ, tăng cao khả năng huy động vốn
cũng như tài trợ cho nền kinh tế hay không...
- Vốn huy động: Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư chứng
khoán, mà cụ thể là hoạt động đầu tư vào trái phiếu của NHTM không chỉ trên
phương diện quy mô của nguồn vốn huy động mà cả cơ cấu của nguồn vốn huy động
cũng ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu chứng khoán được đầu tư.
Nguồn vốn của Ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn huy động từ các tổ chức, cá
nhân trong xã hội và Ngân hàng luôn phải dự trữ một lượng tiền nhất định để nhằm
đáp ứng nhu cầu rút tiền của các khách hàng. Dự trữ của Ngân hàng bao gồm một
phần là dự trữ dưới hình thức tiền mặt và một phần dưới hình thức các giấy tờ có giá
có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền hoặc đầu tư ngắn ngày trên thị trường liên
ngân hàng. Trên cơ sở quy mô nguồn vốn có thể đầu tư vào chứng khoán và cơ cấu
thời hạn của nguồn vốn này, NHTM sẽ xây dựng một danh mục đầu tư chứng khoán
với các kỳ hạn khác nhau.
22
23
Như vậy, ngân hàng phải có vốn tự có lớn, các phương thức huy động đa
dạng, phong phú hấp dẫn đối với khách hàng.
Năng lực tài chính đủ lớn sẽ giúp ngân hàng có đủ điều kiện tham gia nhiều
hoạt động và sẵn sàng chịu đựng các tình huống xảy ra ngoài ý muốn để đảm bảo uy
tín. Uy tín, khả năng tài chính của ngân hàng còn được phản ánh bởi chất lượng hoạt
động của ngân hàng thương mại. Nếu chất lượng hoạt động không tốt, tỷ lệ nợ quá
hạn cũng như các khoản nợ xấu cao, hiệu suất hoạt động và khả năng thu hồi vốn
thấp, sẽ rất dễ dẫn đến giảm uy tín của ngân hàng. Vì vậy các ngân hàng phải đảm
bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động mới có thể tham gia trên thị trường chứng
khoán.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung gian,
theo đó khách hàng không được thực hiện việc mua bán chứng khoán trực tiếp mà
phải thông qua một tổ chức trung gian tài chính được phép hoạt động trên TTCK.
Thứ nhất, chỉ có những ngân hàng có uy tín, đáp ứng đủ điều kiện mới được tham gia
vào thị trường chứng khoán. Thứ hai, xét từ giác độ nhà đầu tư, những người muốn
đầu tư nhưng lại thiếu kiến thức về đầu tư chứng khoán, đều muốn tìm cho mình một
đại diện có uy tín để có thể thực hiện đầu tư theo ý muốn của mình. Còn đối với
người phát hành chứng khoán, một ngân hàng có uy tín lớn là điều kiện hàng đầu để
thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh và làm đại lý phát hành. Các loại chứng khoán được
các ngân hàng có uy tín bảo lãnh phát hành sẽ dễ dàng được công chúng ưu tiên khi
lựa chọn.
1.3.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật Ngân hàng
Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò rất quan trọng, nó trợ giúp cho các
NHTM trong quá trình thẩm định, quyết định, thực hiện hoạt động đầu tư. Bên cạnh
đó, cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến hiện đại giúp các NHTM tổ chức quản lý, giám
sát hoạt động đầu tư chứng khoán một cách có hiệu quả, cho phép các NHTM đầu tư
vào rất nhiều loại cổ phiếu, trái phiếu với các thời hạn khác nhau, phương thức trả lãi
23
24
khác nhau, lãi suất khác nhau, từ đó theo dõi và quản lý được hiệu quả của việc đầu
tư, thời gian đáo hạn của các trái phiếu, tín phiếu...
1.3.4. Năng lực đội ngũ cán bộ
Đây luôn là yếu tố quyết định đến hiệu quả của hoạt động đầu tư, mặc dù đến
nay, trong các NHTM thì cơ sở vật chất được trang bị tương đối đầy đủ và hiện đại,
song để sử dụng một cách có hiệu quả các trang thiết bị này vẫn phải có một đội ngũ
cán bộ có năng lực trong thẩm định, dự đoán xu hướng thị trường và có năng lực xây
dựng, quản lý một danh mục đầu tư tốt.
Nếu như cán bộ tác nghiệp là người trực tiếp thực hiện các công việc cụ thể
liên quan đến hoạt động đầu tư thì cán bộ quản lý là người sắp xếp phân bổ cán bộ
tác nghiệp vào những công việc cụ thể, phù hợp; là người bao quát, định hướng toàn
bộ hoạt động đầu tư.
Cũng như các hoạt động nghiệp vụ khác, hoạt động đầu tư đòi hỏi một đội
ngũ cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, không những thế để phát huy sức
mạnh và sự sáng tạo của đội ngũ này cũng đòi hỏi một chính sách đào tạo thường
xuyên, liên tục kèm theo chính sách đãi ngộ hợp lý.
1.3.5. Sự phát triển các hoạt động khác của Ngân hàng
Mức độ phát triển của các hoạt động khác của Ngân hàng một mặt tạo sự hỗ
trợ cho hoạt động đầu tư chứng khoán, một mặt tạo sức ép phát triển hoạt động đầu
tư chứng khoán, tuy nhiên có hoạt động tạo cơ hội cho đầu tư chứng khoán. Hoạt
động khai thác thông tin và hoạt động tín dụng của Ngân hàng phát triển sẽ hỗ trợ rất
nhiều cho hoạt động đầu tư, đặc biệt trong việc đầu tư vào cổ phiếu của các doanh
nghiệp, trong một số trường hợp tạo cơ hội cho hoạt động đầu tư, bởi vì trên cơ sở
quan hệ tín dụng sẵn có giữa Ngân hàng và doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ mời Ngân
hàng mua cổ phiếu khi doanh nghiệp cổ phần hoá, tăng vốn điều lệ với tư cách là cổ
đông chiến lược, cổ đông lớn...Trong những thời điểm hoạt động tín dụng tăng
trưởng chậm trong khi nguồn vốn huy động tăng trưởng tốt sẽ tạo sức ép cho việc
24
25
tăng trưởng hoạt động đầu chứng khoán nhằm tận dụng nguồn vốn dư thừa mà tín
dụng không thể đầu tư cho các doanh nghiệp.
1.3.6. Mô hình tổ chức của Ngân hàng
Mô hình tổ chức của Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tập trung
hoá, chuyên môn hoá hoạt động đầu tư chứng khoán. Nếu hoạt động đầu tư chứng
khoán là chức năng nhiệm vụ của nhiều phòng, ban hoặc chỉ là một trong nhiều
nhiệm vụ của một phòng ban nào đó sẽ rất khó có được hiệu quả cao nhất trong đầu
tư, hơn nữa nếu các chi nhánh của ngân hàng đều được quyền thực hiện hoạt động
đầu tư chứng khoán sẽ dẫn đến việc rất khó quản lý, tập trung thành đầu mối, các
khoản đầu tư sẽ trở nên vụn vặt và có quy mô nhỏ... đặc biệt trong những trường hợp
trên hoạt động đầu tư sẽ không được chuyên môn hoá, đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt
động đầu tư bị chi phối bởi nhiều hoạt động khác...
1.3.7. Sự phát triển của thị trường chứng khoán
Sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hoạt
động đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư nói chung và NHTM nói riêng.
Trước hết, thị trường chứng khoán phát triển sẽ làm tăng tính thanh khoản của
các chứng khoán, bao gồm cả cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ phái sinh, qua đó
các NHTM sẽ dễ dàng chuyển đổi các chứng khoán của mình thành tiền nhằm đáp
ứng nhu cầu thanh toán khi cần thiết, vì khả năng chuyển đổi thành tiền nhanh nên
các NHTM có thể giảm bớt dự trữ dưới hình thức tiền mặt, thay vào đó các NHTM
sẽ đầu tư vào các chứng khoán vừa đảm bảo được khả năng sinh lời tốt hơn là để
tiền mặt và đồng thời vẫn đảm bảo được khả năng thanh khoản của Ngân hàng.
Thứ hai, thị trường chứng khoán phát triển, sẽ làm tăng tính đa dạng của các
hàng hoá được trao đổi, mua bán trên thị trường, các NHTM có cơ hội để lựa chọn
các loại hàng hoá khác nhau đáp ứng các nhu cầu khác nhau tại mỗi thời điểm về tính
lỏng, tính sinh lời...
Thứ ba, từ khi có TTCK, đã có sự chuyển dịch đáng kể vốn từ ngân hàng
thương mại sang đầu tư chứng khoán theo 2 hướng: (1) các nhà đầu tư cá nhân rút
tiền gửi tiết kiệm để đầu tư chứng khoán (2) những người khác (bao gồm cả công ty
25