Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

BỆNH HO GÀ (Pertussis), BỆNH LAO PHỔI (Tuberculosis) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.51 KB, 8 trang )

\BỆNH HO GÀ
(Pertussis)
ICD-10 A37: Whooping cough
Bệnh ho gà thuộc nhóm B trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm.
1. Đặc điểm của bệnh
1.1. Định nghĩa ca bệnh: Ho gà là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp,
thường xảy ra ở trẻ nhỏ. Khởi đầu của bệnh có thể không sốt hoặc sốt nhẹ, có
viêm long đường hô hấp trên, mệt mỏi, chán ăn và ho. Cơn ho ngày càng nặng
và trở thành cơn ho kịch phát trong 1-2 tuần, kéo dài 1-2 tháng hoặc lâu hơn.
Cơn ho gà rất đặc trưng, thể hiện trẻ ho rũ rượi không thể kìm hãm được, sau đó
là giai đoạn thở rít như tiếng gà gáy. Cuối cơn ho thường chảy nhiều đờm dãi
trong suốt và sau đó là nôn.
- Ca bệnh lâm sàng:
+ Ho rũ rượi từng cơn liên tục, kéo dài, sau cơn ho có lúc ngừng thở, tím tái.
+ Thở rít vào sau mỗi cơn ho.
+ Nôn sau cơn ho, thoạt đầu nôn thức ăn, rồi đến nước dãi trong suốt.
+ Sau mỗi cơn ho trẻ mệt bơ phờ, mình đẫm mồ hôi và thở gấp.
+ Xét nghiệm máu thấy bạch cầu tăng rất cao từ 15.000 - 50.000/mm³, chủ yếu
là tế bào Lympho.
- Ca bệnh xác định: Phân lập vi khuẩn ho gà (+) hoặc xét nghiệm kháng thể
huỳnh quang trực tiếp đối với dịch tiết từ mũi họng bệnh nhân.
1.2. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh tương tự:
- Bệnh phó ho gà (Bordetella parapertussis) giống bệnh ho gà, nhưng bệnh
thường nhẹ và hiếm gặp. Không có miễn dịch chéo giữa hai bệnh B.
parapertussis và B. pertussis.
- Bệnh viêm VA và amydan mãn tính.
- Bệnh viêm phế quản - phổi do bội nhiễm của bệnh ho gà.
1.3. Xét nghiệm:
- Loại mẫu bệnh phẩm: dịch tiết hầu họng, mũi.
- Phương pháp xét nghiệm:
+ Phân lập vi khuẩn ho gà trên môi trường nuôi cấy chuyên dụng.


+ Phản ứng kháng thể huỳnh quang trực tiếp.
2. Tác nhân gây bệnh
- Tên tác nhân là Bordetella pertussis thuộc giống Bordetella gây bệnh ở
người.
- Hình thái: Vi khuẩn ho gà là dạng trực khuẩn hai đầu nhỏ, thuộc loại vi khuẩn
có kích thước nhỏ nhất, không di động, gram (-). Vi khuẩn phát triển tốt trên
môi trường Bordet-Gengou có thạch máu với những khuẩn lạc điển hình.
- Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài: Vi khuẩn có sức đề kháng rất
yếu. Vi khuẩn sẽ bị chết trong 1 giờ dưới tác dụng của nhiệt độ, ánh sáng mặt
trời trực tiếp hoặc thuốc sát khuẩn thông thường.
3. Đặc điểm dịch tễ học.
- Bệnh ho gà xuất hiện ở mọi nơi trên thế giới và thường xảy ra ở trẻ em. Trước
khi có vắc xin, bệnh ho gà phát triển mạnh và bùng nổ thành dịch có tính chu kỳ
khoảng 3 - 4 năm ở nhiều nước. Sau hơn 40 năm sử dụng vắc xin cùng với việc
cải thiện đời sống và chăm sóc sức khoẻ, tỷ lệ mắc bệnh ho gà trên thế giới đã
giảm xuống từ 100 đến 150 lần vào năm 1970. Nhưng ở thập kỷ 80 và 90 của
thế kỷ 20, tỷ lệ mắc ho gà lại tiếp tục tăng. Từ 1992 đến 1994 có 15.286 trường
hợp bệnh được báo cáo với tỷ lệ chết là 0,2%. Trong số mắc này, có 50% bệnh
nhân chưa được tiêm vắc xin ho gà. Kết quả nghiên cứu dịch tễ học cho biết số
mắc thật còn cao hơn số được báo cáo và miễn dịch bảo vệ được tạo thành của
vắc xin toàn tế bào ho gà bị suy giảm nhanh nên vẫn bị mắc bệnh.
- Ở Châu Mỹ La Tinh, tỷ lệ tiêm vắc xin ho gà tăng lên đã làm giảm số mắc từ
120.000 năm 1980 xuống 40.000 năm 1990.
- Ở Anh và Thụy Điển, tỷ lệ mắc bệnh tăng vì tỷ lệ tiêm phòng ho gà giảm.
- Ở Việt Nam, bệnh ho gà lưu hành ở mọi nơi trong cả nước. Khi chưa thực hiện
Chương trình Tiêm chủng mở rộng (TCMR), bệnh ho gà thường xảy ra và phát
triển thành dịch ở nhiều địa phương, đặc biệt nghiêm trọng ở miền núi là nơi có
trình độ kinh tế-xã hội phát triển thấp. Trong vụ dịch, bệnh thường diễn biến
nặng, dễ tử vong do bị bội nhiễm, gây biến chứng viêm phổi, viêm phế quản-
phổi, nhất là ở trẻ dưới 5 tuổi và trẻ suy dinh dưỡng. Dịch có tính chu kỳ khoảng

3-5 năm. Từ năm 1986, Chương trình TCMR được phát triển rộng khắp trong cả
nước. Tất cả trẻ dưới 1 tuổi được phổ cập gây miễn dịch cơ bản bằng 3 liều vắc
xin bạch hầu- ho gà- uốn ván (DTP). Sau nhiều năm tiêm vắc xin DTP, tỷ lệ
mắc và chết của bệnh ho gà đã giảm rất rõ rệt. Tỷ lệ mắc trung bình thời kỳ
1991-1995 của cả nước là 7,5/100.000 dân. Từ năm 1993, tỷ lệ tiêm DTP được
duy trì ở mức trên 90%, có năm đạt trên 95% (1997, 2000) với chất lượng tiêm
chủng được cải thiện nên tỷ lệ mắc trung bình của cả nước trong thời kỳ 1996-
2000 đã giảm xuống 1,8/100.000 dân.
4. Nguồn truyền nhiễm
- Ổ chứa: Người là vật chủ duy nhất. Bởi vậy, nguồn truyền bệnh là bệnh nhân,
không có nguồn lây truyền ở người lành mang trùng hoặc người bệnh trong thời
kỳ lại sức .
- Thời gian ủ bệnh: Thông thường từ 7 đến 20 ngày.
- Thời kỳ lây truyền: Bệnh ho gà lây truyền mạnh nhất trong thời kỳ đầu viêm
long, sau đó tính lây truyền giảm dần và sẽ mất đi sau 3 tuần mắc bệnh, mặc dù
lúc này cơn ho vẫn còn dai dẳng. Nếu được điều trị kháng sinh có hiệu lực thì
thời gian lây truyền được rút ngắn và thông thường khoảng 5 ngày.
5. Phương thức lây truyền: Lây truyền do tiếp xúc trực tiếp qua đường hô hấp có
các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng bệnh nhân khi ho, hắt hơi. Tính lây truyền
rất cao ngay sau khi bị phơi nhiễm với giọt nước miếng của bệnh nhân, nhất là
đối với những người sinh hoạt trong cùng một không gian khép kín lâu dài như
hộ gia đình, trường học… Tỷ lệ mắc bệnh trong số những người trực tiếp tiếp
xúc với bệnh nhân trong cùng gia đình (attack rates) từ 90-100%.
6. Tính cảm nhiễm và miễn dịch: Mọi người đều có cảm nhiễm với bệnh và sau
khi mắc bệnh thường được miễn dịch lâu dài, đôi khi có thể bị mắc bệnh lần thứ
hai (có thể là do B. parapertussis). Đến nay vẫn chưa biết rõ kháng thể miễn dịch
ho gà của mẹ truyền cho con qua rau thai như thế nào?. Bệnh ho gà vẫn là một
bệnh chủ yếu của thế hệ trẻ và tỷ lệ mắc bệnh cao nhất hiện nay là ở trẻ dưới 5
tuổi.
7. Các biện pháp phòng chống dịch

7.1. Biện pháp dự phòng:
- Tuyên truyền giáo dục sức khoẻ: Cần cung cấp các thông tin cần thiết về bệnh
ho gà cho nhân dân, nhất là cho các bà mẹ, thầy cô giáo biết để cộng tác với cán
bộ y tế phát hiện sớm bệnh, biết cách ly, phòng bệnh và cộng tác với cán bộ y tế
cho con đi tiêm vắc xin DTP.
- Vệ sinh phòng bệnh:
+ Nhà ở, nhà trẻ, lớp học, vườn trẻ phải thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh
sáng.
+ Tại nơi có ổ dịch ho gà cũ, cần tăng cường giám sát, phát hiện sớm các trường
hợp bệnh có cơn ho gà điển hình, nhất là đến khoảng thời gian chu kỳ của bệnh
dịch ở địa phương.
+ Tổ chức tiêm vắc xin DTP đầy đủ theo Chương trình TCMR.
7.2. Biện pháp chống dịch:
- Tổ chức:
+ Thành lập Ban chống dịch do lãnh đạo chính quyền làm trưởng ban, lãnh đạo
y tế địa phương làm phó ban thường trực và các thành viên khác có liên quan
như: Y tế, Giáo dục, Công an, Hội Phụ nữ, Hội Chữ thập đỏ v.v
+ Các thành viên trong Ban chống dịch được phân công nhiệm vụ để chỉ đạo và
huy động cộng đồng thực hiện tốt công tác chống dịch.
+ Đối với vụ dịch nhỏ cần giành một số giường bệnh trong một khu riêng ở khoa
lây bệnh viện để cách ly và điều trị bệnh nhân. Nếu có dịch lớn thì có thể thành
lập bệnh xá dã chiến trong cộng đồng.
- Chuyên môn:
+ Những trường hợp mắc bệnh ho gà nhẹ có thể cách ly, theo dõi và điều trị tại
nhà dưới sự giám sát của cán bộ y tế xã. Những trường hợp mắc bệnh ho gà
nặng, bị bội nhiễm và có biến chứng cần được cách ly và điều trị tại trạm y tế xã
hoặc bệnh viện.
+ Cách ly đối với những trường hợp bệnh được xác định lâm sàng. Những
trường hợp bệnh nghi ngờ cũng không nên cho tiếp xúc với trẻ nhỏ, nhất là
những trẻ chưa được gây miễn dịch. Thời gian cách ly khoảng 3 tuần kể từ khi

xuất hiện viêm long. Nếu được dùng kháng sinh có hiệu lực thì thời gian cách ly
ít nhất 5 ngày nhưng bệnh nhân vẫn phải tiếp tục điều trị kháng sinh đủ liều
trong 14 ngày. Bệnh ho gà có vắc xin phòng bệnh hiệu quả tốt. Cần tiêm vắc xin
ho gà đơn hoặc vắc xin hỗn hợp (DPT) cho trẻ theo lịch của Chương trình
TCMR.
+ Xử lý môi trường: Cần sát trùng tẩy uế đồng thời đối với dịch mũi họng và các
đồ dùng bị nhiễm bẩn của bệnh nhân.
7.3. Nguyên tắc điều trị:
+ Điều trị đặc hiệu bằng erythromycin với liều 50 mg/kg/ngày trong 14 ngày.
Cần điều trị sớm để diệt vi khuẩn và giảm lây nhiễm. Tuy có dùng kháng sinh
nhưng không làm giảm triệu chứng, trừ khi điều trị sớm trong thời kỳ ủ bệnh
hoặc thời kỳ đầu viêm long.
+ Cho nhập viện sớm bệnh nhi dưới 1 tuổi để theo dõi cơn ho ngạt thở và ngừng
thở ngạt, hút đờm dãi, thở oxy, bù nước và bù dinh dưỡng là rất cần thiết.
+ Chống bội nhiễm bằng amoxycillin hoặc cephalosporin.
+ Điều trị biến chứng thần kinh, chống co giật, chống phù và suy hô hấp.
7.4. Kiểm dịch y tế biên giới: Không có quy định.\\
BỆNH LAO PHỔI
(Tuberculosis)
ICD-10 A15: Tuberculosis
Bệnh lao phổi thuộc nhóm B trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm
1. Đặc điểm của bệnh.
1.1.Định nghĩa ca bệnh:
- Ca bệnh lâm sàng. Người bị bệnh lao phổi là những người có biểu hiện ho
khạc kéo dài trên 2 tuần , kèm theo các triệu chứng sốt nhẹ về chiều, ra mồ hôi "
trộm" , gầy sút cân, kém ăn, mệt mỏi. Cũng có thể ho khạc ra máu số lượng ít
hoặc nhiều, đau ngực. Tỷ lệ hơn 90% những người có các triệu chứng đó là
người bị mắc bệnh lao phổi.
- Ca bệnh xác định: Những người có các triệu chứng trên sẽ chắc chắn là lao
phổi khi có các kết quả xét nghiệm sau:

+ Có trực khuẩn kháng cồn kháng toan trong đờm khi nhuộm Ziehl-Neelsen,
thường gọi là AFB(+)
+ Phản ứng dương tính với kháng nguyên đặc hiệu của trực khuẩn lao (Phản ứng
Mantoux+)
+ Có hình ảnh tổn thương nhu mô phổi (thâm nhiễm hoặc phá hủy thành hang)
trên X quang.
+ Cấy đờm tìm thấy trực khuẩn lao (Mycobacteria tuberculosis) ở các môi
trường đặc hiệu.
1.2. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh ho khạc mạn tính:
- Bệnh dãn phế quản: Ho khạc đờm mạn tính, có thể ho ra máu. Thể trạng bệnh
nhân vẫn tốt, không gầy sút. Bệnh xuất hiện từng đợt kèm theo sốt cao, đờm mủ.
Bệnh đỡ sau khi điều trị kháng sinh 2 đến 3 tuần. Soi đờm không có AFB. Chụp
X quang phổi có hình ảnh "tổ ong" hoặc viêm dầy các phế quản.
- Bệnh COPD (Bệnh phổi phế quản tắc nghẽn mạn tính): Bệnh có triệu chứng ho
khạc đờm mạn tính nhiều năm, nhưng triệu chứng chủ yếu là khó thở thường
xuyên, liên tục và nặng dần lên theo thời gian. Không tìm thấy AFB trong đờm.
- Bệnh ung thư phổi: Ho khạc mạn tính, có thể ho ra máu, gầy sút cân, đau ngực.
Thường gặp ở nam giới trên 40 tuổi, có tiền sử hút thuốc lá nhiều năm. X quang
phổi có thể thấy tổn thương dạng khối u đa hình thái. Không có AFB trong đờm.
1.3. Xét nghiệm:
- Loại mẫu bệnh phẩm: Đờm hoặc chất hút từ dạ dày (với trẻ em không biết
khạc đờm). Soi trên 3 mẫu đờm: Mẫu đờm 1 lấy lúc khám bệnh, mẫu đờm 2 lấy
lúc sáng sớm hôm sau khi ngủ dậy, mẫu đờm 3 lấy tại chỗ khám khi mang mẫu
đờm 2 đến khám.
- Phương pháp xét nghiệm:
+ Nhuộm soi trên kính hiển vi quang học bằng phương pháp Ziehl- Neelsen,
trực khuẩn bắt màu đỏ
+ Phương pháp sinh học phân tử giúp xác định trực khuẩn lao trong trường hợp
số lượng trực khuẩn rất ít.
+ Phương pháp miễn dịch có tác dụng bổ sung chẩn đoán.

Chẩn đoán xác định bệnh: Phải có ít nhất 1 mẫu có AFB(+) và hình ảnh X quang
nghi lao hoặc khi có 2 mẫu đờm (+).
2.Tác nhân gây bệnh:
- Tên tác nhân: Trực khuẩn lao (Mycobacterium tuberculosis) thuộc họ
Mycobacteriaceae.
- Hình thái: Trực khuẩn lao hình que, bắt mầu tím khi nhuộm Gram, bắt màu đỏ
khi nhuộm Ziehl-Neelsen. Trực khuẩn không sinh nha bào, không di động, sinh
sản chậm (20 giờ một thế hệ mới ra đời), hiếu khí.
- Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài: Trực khuẩn lao kháng lại cồn và
axit ở nồng độ diệt được vi khuẩn khác. Trực khuẩn lao sống được nhiều tuần
trong đờm, trong rác ẩm và tối, chết ở nhiệt độ 1000C/5 phút và dễ bị mất khả
năng gây bệnh dưới ánh nắng mặt trời.
3. Đặc điểm dịch tễ học: Bệnh rất dễ lây từ người sang người do lây bằng đường
hô hấp . Khả năng lây mạnh trong thời gian chưa được điều trị. Cứ 1 người bị
lao phổi có ho khạc ra vi khuẩn có thể lây cho 10-15 người khác, nhất là trong
các quần thể dân cư nhỏ như gia đình, lớp học, trại tập trung trước khi người
bệnh được điều trị. Khi đã được điều trị bằng thuốc chống lao, khả năng lây
bệnh rất thấp. Bệnh có thể gặp bất cứ ở lứa tuổi nào, thời gian nào của cuộc đời.
Hay gặp nhất là ở lứa tuổi trẻ, phụ nữ mang thai, cho con bú. Đặc biệt, bệnh dễ
xuất hiện ở những người có nguy cơ cao như mắc các bệnh mạn tính khác như
đái tháo đường, nhiễm HIV, điều trị các thuốc ức chế miễn dịch Tỷ lệ mắc
bệnh ở thành thị đông người cao hơn ở nông thôn và miền núi.
4. Nguồn truyền nhiễm:
- Không có ổ chứa mầm bệnh trong thiên nhiên hoặc vật trung gian truyền bệnh
- Nguồn bệnh là những người bệnh lao phổi, lao thanh quản, phế quản trong giai
đoạn ho khạc ra vi khuẩn lao
- Thời gian ủ bệnh của lao phổi rất khác nhau. Khi vi khuẩn lao vào phổi, cơ thể
sẽ có đáp ứng với kháng nguyên của vi khuẩn lao (phản ứng Mantoux chuyển từ
âm tính sang dương tính), vi khuẩn lao có thể tồn tại trong cơ thể suốt cuộc đời
của người đó mà không gây bệnh. Nhưng cũng có thể sau khi tiếp xúc với một

số lượng lớn vi khuẩn lao trong một thời gian dài (sống chung với người bị lao
phổi ho khạc ra vi khuẩn lao, không có phương pháp phòng bệnh) trong vài ngày
đến vài tuần, người tiếp xúc có thể phát bệnh.
- Thời kì lây truyền mạnh nhất là thời kì toàn phát của lao phổi (sốt về chiều, ho
nhiều, khạc đờm). Thời kì lây truyền này kéo dài cho đến khi người bệnh được
dùng thuốc lao 2 tuần đến 1 tháng. Nếu không được phát hiện và điều trị, người
bệnh sẽ liên tục phát tán vi khuẩn lao trong suốt thời gian họ sống .
5. Phương thức lây truyền: Lao phổi lây truyền qua đường hô hấp. Vi khuẩn
lao từ các hạt nước bọt li ti, hoặc trong các hạt bụi nhỏ có đường kính từ 1 đến 5
m sẽ dễ dàng bị hít vào phổi, xuống tận phế nang và nhân lên, gây bệnh tại phổi.
Từ phổi, vi khuẩn có thể qua máu, bạch huyết đến các tạng khác trong cơ thể
(hạch bạch huyết, xương, gan, thận, ) và gây bệnh tại các cơ quan đó của cơ
thể.
6. Tính cảm nhiễm và miễn dịch
- Ai cũng có thể mắc bệnh lao phổi. Trẻ sơ sinh chưa có miễn dịch bảo vệ nên
rất dễ mắc bệnh. Phụ nữ mang thai, cho con bú, người bị HIV, đái tháo đường,
người đang dùng các thuốc ức chế miễn dịch điều trị một số bệnh khác là
những người có nguy cơ cao dễ mắc lao phổi hoặc lao các cơ quan khác.
- Miễn dịch với lao là miễn dịch đặc hiệu qua trung gian tế bào nhưng hiệu lực
bảo vệ không mạnh và không bền. Miễn dịch với lao là miễn dịch thu được,
không truyền từ mẹ sang con cho nên cần phải tạo miễn dịch cho trẻ bằng cách
tiêm phòng lao (vắc xin BCG) sau khi trẻ sinh ra.
7.Các biện pháp phòng chống dịch bệnh
7.1. Biện pháp dự phòng: Biện pháp dự phòng quan trọng nhất là "cắt đứt nguồn
lây", có nghĩa là phải phát hiện sớm những người bị lao phổi có AFB(+) và chữa
khỏi cho họ. Tuy nhiên bệnh lao là một bệnh có tính xã hội cho nên những biện
pháp dự phòng mang tính cộng đồng cũng rất quan trọng.
- Làm tốt công tác truyền thông và giáo dục sức khỏe cho mọi người. Ai cũng
hiểu được bệnh lao là một bệnh lây truyền qua đường hô hấp, có thể phòng và
chữa khỏi được hoàn toàn. Qua đó có ý thức phòng bệnh bằng cách tăng cường

sức khỏe, làm sạch và thông thoáng tốt môi trường sống.
- Kiểm soát phòng chống lây nhiễm tại các cơ sở y tế hoặc tại những nơi có
nguồn lây (bệnh viện lao, trại giam ) bằng cách:
+ Người bệnh phải đeo khẩu trang, khi ho, hắt hơi phải che miệng, khạc đờm
vào chỗ qui định và đờm hoặc các vật chứa nguồn lây phải được hủy đúng
phương pháp.
+ Tận dụng ánh nắng mặt trời càng nhiều càng tốt cho nơi ở và các vật dụng của
người bệnh.
+ Tạo được những điều kiện thông gió tốt để không khí được lưu thông nhằm
giảm thấp nhất nồng độ các hạt chứa vi khuẩn lao trong không khí.
7.2. Biện pháp quản lý và điều trị.
- Tổ chức: Mỗi một huyện đều có 1 tổ chống lao cùng với mạng lưới là các nhân
viên y tế xã có nhiệm vụ phát hiện những người nghi mắc lao. Nhân viên y tế xã
giới thiệu những người ho khạc kéo dài trên 2 tuần đến tổ chống lao huyện để
khám, xác định bệnh lao phổi bằng soi đờm trên kính hiển vi. Những người có
AFB trong đờm sẽ được chẩn đoán là lao phổi và được đăng kí điều trị, cấp
thuốc miễn phí. Những người nghi ngờ hoặc bệnh nặng sẽ được gửi lên tuyến
tỉnh để chẩn đoán, điều trị.
- Chuyên môn:
+ Thu dung, cách ly, điều trị người bệnh:
Những người bệnh lao phổi phải được đăng kí điều trị và theo dõi suốt trong quá
trình mang bệnh. Nơi đăng kí là các đơn vị chống lao tuyến huyện, tỉnh gần
nơi người bệnh cư trú. Phương pháp "điều trị có kiểm soát bằng phác đồ ngắn
hạn" (DOTS-Directly Observed Treatment Short-course) tại tuyến y tế cơ sở là
phương pháp tổ chức chặt chẽ, đảm bảo quyền lợi cho người bệnh lao được
khám chữa bệnh và theo dõi một cách tốt nhất. Hệ thống mạng lưới tổ chức
chống lao phủ khắp toàn quốc và trên tất cả các tuyến y tế thuận lợi cho công tác
phát hiện và quản lí điều trị.
Người bệnh được các nhân viên y tế giám sát điều trị trực tiếp 2 tháng đầu tiên.
Sau đó sẽ được giám sát bởi các nhân viên y tế hoặc người thân hoặc tình

nguyện viên trong giai đoạn sau cho đến khi kết thúc điều trị.
+ Dự phòng:
Tiêm phòng vắc xin BCG cho trẻ sơ sinh
Người bệnh bắt buộc phải đeo khẩu trang khi tiếp xúc với người khác.
Uống INH 300mg/ngày x 6 tháng dự phòng cho những người có nguy cơ mắc
lao cao như người có HIV trong các trại giam, trong các trung tâm 05-06.
Các chất thải của người bệnh phải được xử lý trước khi thải ra hệ thống chung.
Đờm và các dụng cụ chứa phải được đốt, hoặc xử lý bằng hóa chất.
Thông gió tốt các buồng bệnh và những nơi tập trung nhiều người bệnh. Tận
dụng tối đa ánh nắng và gió trong môi trường sống và làm việc.
7.3. Nguyên tắc điều trị.
- Người bệnh phải được điều trị càng sớm càng tốt ngay sau khi phát hiện bệnh
- Phương pháp điều trị có kiểm soát trực tiếp (DOTS).
- Điều trị theo phác đồ chuẩn được Bộ Y tế qui định cho các trường hợp lao phổi
mới được phát hiện.
2S(E)HRZ/4RH hoặc
2S(E)HRZ/6HE
- Tuân thủ nguyên tắc:
Uống thuốc đúng phác đồ.
Uống thuốc đủ thời gian.
Uống thuốc đều đặn vào 1 lần nhất định trong ngày, xa bữa ăn.
7.4. Kiểm dịch biên giới: Tất cả các trường hợp lao phổi AFB(+) phải được
thông báo với cơ quan y tế chịu trách nhiệm của những quốc gia người bệnh đi
qua để quản lý và đảm bảo người bệnh được điều trị liên tục.

×