Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của nghành dệt may

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.77 KB, 53 trang )

lời nói đầu
Bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại, phát triển thì yêu cầu hàng hoá
của họ phải có sức cạnh tranh cao. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam
đang phát triển kinh tế thị trờng với xu thế hội nhập, các hãng sản xuất ngày
một nhiều, nhu cầu của ngời tiêu dùng thì không ngừng nâng cao, các doanh
nghiệp càng phải liên tục không ngừng nghiên cứu tìm biện pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh của chính mình. Doanh nghiệp có làm nh vậy trớc là để tồn tại và
phát triển sau là để góp phần tăng mức hội nhập của nền kinh tế Việt Nam trong
nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá.
Trong mọi thời kỳ, khả năng cạnh tranh đợc coi là nguồn năng lợng thiết
yếu để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy nguyên nhân dẫn
đến nguy cơ phá sản hay thành công trong kinh doanh dù ít dù nhiều đều có liên
quan đến khả năng cạnh tranh.
Ngành dệt may, một ngành đợc coi là có lợi thế nhất Việt Nam .Sự phát
triển của ngành có vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nền kinh tế đất nớc ta. Với sản phẩm đa dạng, nhiều chủng loại đồng thời
nhu cầu liên tục tăng lên cùng với xu thế tăng trởng kinh tế. Mức sống cao nhu
cầu ăn mặc cũng tăng, đó là điều tất yếu, hơn nữa sở thích thị hiếu ăn mặc mỗi
ngời một khác nên có thể phát triển một cách phong phú.
Tuy nhiên trên thực tế, ngành dệt may hiện nay ở nớc ta vẫn là một
ngành hoạt động hiệu quả kinh tế cha cao, sản xuất gia công là chính, công
nghệ lạc hậu, mẫu mã cha phong phú, phát triển cha đồng bộ giữa dệt và may,
nguồn lao động cha đợc sử dụng hợp lý...trong khi ta đang ở bớc đầu của thế kỷ
21, trớc xu thế hội nhập và cạnh tranh gay gắt. Do đó việc phân tích, đánh giá
đúng những yếu kém trong cạnh tranh của ngành dệt may, để từ đó có những
biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành dệt may là việc có tính cấp
thiết và có ý nghĩa.
Nhận thức đợc vấn đề đó, em mạnh dạn chọn đề tài: Biện pháp nâng
cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may làm đề tài cho đề án môn kinh
tế thơng mại của mình.
1


Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề án gồm 3 chơng:
Chơng 1: Lý luận chung về cạnh tranh.
Chơng 2: Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dệt may trong giai đoạn
hiện nay.
Chơng 3: Phơng hớng và biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của
ngành dệt may.
Đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng song do thời gian nghiên cứu và trình
độ bản thân còn nhiều hạn chế nên đề án sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy
em rất mong đợc sự đóng góp ý kiến của thầy cô cùng các bạn để đề án của em
đợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Đặng Đình Đào đã tận
tình hớng dẫn em trong quá trình hoàn thành đề án này.
2
chơng I:
lý luận chung về cạnh tranh
I.Bản chất và vai trò của cạnh tranh
1. Khái niệm cạnh tranh:
Trong nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trờng, các đơn vị
kinh tế đợc tự do kinh doanh hàng hoá trong khuôn khổ pháp luật và để thu đợc
nhiều lợi nhuận thì doanh nghiệp phải làm sao bán đợc nhiều hàng mà mình sản
xuất ra, mà trên thực tế có rất nhiều hãng sản xuất hàng nh mình. Chính vì thế
mà các hãng phải cạnh tranh với nhau, hãng nào có sức cạnh tranh lớn thì sẽ
giành thắng lợi và thu đợc nhiều lợi nhất.
Trớc tiên cần phải hiểu cạnh tranh là gì? Cạnh tranh là đặc trng cơ bản
của nền kinh tế thị trờng, có thể coi nh là một nguyên tắc tất yếu phải có trong
cơ chế thị trờng.
Kinh tế học định nghĩa cạnh tranh là sự giành thị trờng để tiêu thụ sản
phẩm giữa các doanh nghiệp.
Cạnh tranh theo nghĩa rộng là sự đua tranh với nhau giữa những ngời
theo đuổi cùng mục đích nhằm đánh bại đối thủ và giành cho mình lợi thế nhiều

nhất.
Nh vậy có thể hiểu cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà trong đó các chủ thể
có sự so sánh, đấu tranh với nhau trong thực hiện sản phẩm để đạt các mục tiêu
chiếm lĩnh thị trờng, giành điều kiện tiêu thụ có lợi, tối đa hoá lợi ích.
Một doanh nghiệp trong cơ chế thị trờng tất yếu phải cạnh tranh với các
hãng sản xuất cùng mặt hàng hoặc có công dụng tơng tự và để chiến thắng đối
thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp phải nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng
hoá của mình. Vậy khả năng cạnh tranh là gì?
Cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về khả năng cạnh tranh cũng nh
các yếu tố ảnh hởng tới khả năng cạnh tranh của một ngành.
3
*Quan niệm của Fafchamps: Khả năng cạnh tranh của một doanh
nghiệp là khả năng là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm
với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trờng. Theo cách
hiểu này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lợng tơng
tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhng với chi phí thấp hơn thì đợc coi là có
khả năng cạnh tranh cao hơn (Peters.G.H.khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, Dartmouch, 1995, trang 343).
*Quan niệm của Randall: Khả năng cạnh tranh là khả năng giành đợc và
duy trì thị phần trên thị trờng với lợi nhuận nhất định.
*Quan niệm của Dunning: Khả năng cạnh tranh là khả năng cung sản
phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trờng khác nhau mà không phân biệt
nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó.
*Quan niệm khác cho rằng: Khả năng cạnh tranh là trình độ của công
nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trờng đồng thời duy
trì đợc mức thu nhập thực tế của mình.
Có thể nhận thấy rằng các quan điểm trên đều xuất phát từ các góc độ
khác nhau, nhng đều có liên quan đến hai khía cạnh: chiếm lĩnh thị trờng và có
lợi nhuận. Từ đó có thể hiểu khả năng cạnh tranh là năng lực nắm giữ thị phần
nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận đợc, vì vậy khi thị phần tăng lên cho

thấy khả năng cạnh tranh đợc nâng cao. Quan niệm này có thể áp dụng đối với
từng doanh nghiệp, một nền kinh tế cũng nh đối với một quốc gia trong cuộc
cạnh tranh trên thị trờng nội địa, khu vực hay toàn thế giới.
2. Vai trò của cạnh tranh
Đối với doanh nghiệp bất kỳ thờng có năm mục tiêu cơ bản, đó là: mục
tiêu khách hàng, mục tiêu đổi mới, mục tiêu chất lợng, mục tiêu cạnh tranh,
mục tiêu lợi nhuận. Nh vậy cạnh tranh là một trong những mục tiêu hàng đầu
mà doanh nghiệp cần phải chú ý. Cạnh tranh là môi trờng của kinh tế thị trờng,
nó có vai trò quan trọng mà nếu doanh nghiệp không tính đến thì sẽ bị thất bại.
Đó là:
*Vai trò quan trọng nhất của cạnh tranh là làm cho giá thị trờng bị giảm
xuống. Trong độc quyền kinh tế thì bao giờ cạnh tranh cũng làm cho giá thành
sản phẩm tăng lên nhng trong cơ chế kinh tế thị trờng, cạnh tranh giữa các
4
doanh nghiệp làm cho giá giảm đi. Bởi lẽ, trong cạnh tranh không chỉ có một
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá mà còn có rất nhiều hãng cùng tham gia sản
xuất và ai có thể đảm bảo rằng hàng hoá mình sản xuất ra sẽ bán hết và thu đợc
nhiều lợi nhuận? Và chắc gì sản phẩm của mình đã tốt hơn đối thủ cạnh tranh
kia? Và nh vậy rất có thể khách hàng sẽ mua hàng của đối thủ cạnh tranh chứ
không phải của mình. Để tránh tình trạng đó, thu hút khách hàng mua hàng hoá
của mình thì doanh nghiệp phải sản xuất hàng hoá sao cho sản phẩm có sức thu
hút cao. Điều đầu tiên mà khách hàng hớng tới đó là giá cả hàng hoá, dĩ nhiên
hai hàng hoá nh nhau về công dụng và mẫu mã, đợc bán với phơng thức phục vụ
nh nhau thì khách hàng sẽ mua hàng hoá nào có thành sản phẩm rẻ hơn. Và nh
vậy thì doanh nghiệp phải tính sao cho giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
mình rẻ hơn đối thủ cạnh tranh. Việc các đối thủ cạnh tranh cùng đua nhau thu
hút khách hàng mua hàng hoá của doanh nghiệp mình làm cho giá cả thị trờng
giảm xuống (doanh nghiệp bât chấp cả việc giảm lợi nhuận thu đợc tính trên
từng sản phẩm).
*Cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp phải không ngừng áp dụng khoa

học kỹ thuật. Không ai có thể phủ nhận vai trò của sự phát triển và ứng dụng
khoa học công nghệ. Nhờ sự phát triển đó mà ngày nay ngời ta mới có thể có đ-
ợc mức hởng thụ nh ngày nay, đạt đợc sự thoả mãn cao mà chi phí thấp.
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá không ngừng ứng dụng các tiến bộ khoa
học nhằm có đợc những hàng hoá có chất lợng cao, mẫu mã đẹp, cũng bởi sản
xuất hàng hoá có sự giúp đỡ của khoa học công nghệ nên năng suất lao động
cao. Tất cả các điều này làm cho chi phí để sản xuất ra một sản phẩm thấp từ đó
làm cho giá thành sản phẩm thấp, nâng cao đợc năng lực cạnh tranh của sản
phẩm, giá thành sản phẩm bán ra trên thị trờng sẽ thấp hơn giá cả thị trờng.
*Cạnh tranh là công cụ tớc quyền thống trị về mặt kinh tế trong lịch sử.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sẽ làm cho các doanh nghiệp phải cùng nhau
nâng cao chất lợng hàng hoá và hạ giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp nào có đ-
ợc sản phẩm mới, dịch vụ mới mà tung ra thị trờng đầu tiên thì doanh nghiệp đó
có quyền hởng lợi nhuận lớn nhất trong kinh doanh, sẽ thống trị về mặt kinh tế.
Chính vì vậy bất cứ khi nào cũng có thể có lúc sản phẩm hàng hoá mình bán ra
không phải là sản phẩm mới hoặc có nhiều u điểm tiến bộ. Vì vậy bất cứ khi
nào một doanh nghiệp cũng có thể mất đi sự thống trị về mặt kinh tế.
5
3. Bản chất của cạnh tranh
Cạnh tranh là hiện tợng phổ biến trong nền kinh tế thị trờng để đạt đợc
mục tiêu lợi nhuận. Sẽ không thể có doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nếu
chúng sống trong một môi trờng không có cạnh tranh. Nói cách khác, một
doanh nghiệp rất khó trở thành doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nếu đợc
dung dỡng trong môi trờng thiếu tính cạnh tranh.
Trên thực tế, không thể có một thị trờng nào ở trạng thái cạnh tranh hoàn
hảo hoặc hoàn toàn độc quyền. Theo quy luật chung cạnh tranh luôn có xu h-
ớng dẫn đến độc quyền. Bản chất của cạnh tranh tự bản thân nó luôn có xu hớng
dẫn đến độc quyền. Về nguyên tắc ngời ta coi một nền kinh tế cản trở sự cạnh
tranh là một nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh và ngợc lại.
4. ý nghĩa của cạnh tranh

Trong nền kinh tế thị trờng ý nghĩa của cạnh tranh là không thể phủ nhận
bởi vì:
*Thứ nhất, cạnh tranh tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế.
Trong xu thế ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia sản xuất và dĩ
nhiên nh vậy là có xu hớng ngày càng có thêm đối thủ cạnh tranh. Để tối đa hoá
lợi nhuận thì doanh nghiệp phải bán hết hàng hoá do mình sản xuất ra với giá
cao nhất có thể bán đợc. Tuy nhiên khách hàng thì luôn luôn tìm mua những
hàng hoá có giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp có cùng sản phẩm sản xuất
hoặc sản phẩm có công dụng tơng tự cạnh tranh với nhau, cùng nhau tranh
giành khách hàng, tìm mọi biện pháp để sao cho khách hàng mua hàng hoá của
mình chứ không phải của đối thủ cạnh tranh. Trong xu thế đó, các doanh nghiệp
cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá của mình bằng cách giảm
giá thành, nâng cao chất lợng hàng hoá cũng nh dịch vụ bán hàng. Doanh
nghiệp nào mà chi phí trên một đơn vị hàng hoá càng thấp sẽ có lợi nhuận càng
nhiều, đây là yếu tố tạo cho các doanh nghiệp một triết lý rằng lợi nhuận mà
doanh nghiệp đã đạt đợc cha phải đã là lợi nhuận cao nhất mà doanh nghiệp có
thể đạt đợc. Chính vì lý do các doanh nghiệp tranh đua nhau nh vậy đã tạo nên
một động lực thúc đẩy sản xuất hơn, tiếp tục giảm chi phí một cách nhiều nhất
các yếu tố đầu vào, cùng việc không ngừng đẩy mạnh áp dụng khoa học kỹ
thuật để lợi nhuận thu đợc ngày một tăng cao.
6
*Thứ hai, cạnh tranh là cách hữu hiệu nhất để tối đa hoá lợi nhuận và lợi
ích của cả ngời cung cấp lẫn ngời tiêu dùng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.
Nh đã nói ở trên, thông qua cạnh tranh ngời ta mới đua nhau sản xuất,
kiếm lợi nhuận, qua cạnh tranh doanh nghiệp luôn nhận thấy lợi ích sẽ thu đợc
trong tơng lai hoàn toàn phụ thuộc vào chính doanh nghiệp, chứ không phải
trông chờ vào một thế lực nào tạo hoá ra đợc. Vì vậy có thể nói thông qua cạnh
tranh doanh nghiệp mới tối đa hoá lợi ích của mình một cách thực sự, hoàn toàn
là sự thuận mua vừa bán giá cả hàng hoá giữa khách hàng và doanh nghiệp, chứ
không phải nh trong độc quyền chỉ dựa vào việc quyền mà ép giá đầu ra hoặc

đầu vào.
Còn đối với ngời tiêu dùng, do đợc tự do lựa chọn hàng hoá mình định
mua, số doanh nghiệp sẵn sàng đáp ứng loại hàng hoá mình mua thì rất nhiều
nên hàng hoá mua đợc hoàn toàn tự làm hài lòng, mang lại lợi ích cho ngời tiêu
dùng là tối đa.
II. Những nội dung, công cụ của cạnh tranh và các chỉ tiêu
đánh giá khả năng cạnh tranh
Để cạnh tranh với đối thủ trên thị trờng, các doanh nghiệp đang sử dụng
các công cụ phổ biến trong quá trình cạnh tranh sôi động hiện nay là:
*Thứ nhất, chất lợng của hàng hoá.
Trên thơng trờng nếu nhiều hàng hoá có công dụng nh nhau, giá cả bằng
nhau thì ngời tiêu dùng sẵn sàng mua hàng hoá nào có chất lợng cao hơn. Do
đó, đây là công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng để
thắng các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, chất lợng hàng hoá phụ thuộc vào điều
kiện kỹ thuật của từng đơn vị sản xuất, từng ngành, từng vùng và từng quốc gia.
*Thứ hai, giá cả hàng hoá.
Hai hàng hoá có cùng công dụng, chất lợng nh nhau thì ngời tiêu dùng sẽ
mua hàng hoá nào có giá rẻ hơn. Giá cả hàng hoá đợc quyết định bởi giá trị
hàng hoá. Song sự vận động của giá cả còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán
của ngời tiêu dùng. Mức sống còn thấp, ngời tiêu dùng tìm mua những hàng hoá
có giá rẻ. Thực tế cho thấy, phần lớn hàng hoá tiêu dùng của Trung Quốc đợc
tiêu thụ mạnh tại Việt Nam. Các nhà sản xuất đã thực hiện một chiến lợc kinh
7
doanh là làm ra hàng hoá có khả năng thanh toán thấp về phía mình. Trong kinh
doanh để cạnh tranh về giá, một số doanh nghiệp chấp nhận lời ít, bán với giá
thấp nhng dùng số nhiều để thu lại. Ngợc lại, khi mức sống cao hơn ngời tiêu
dùng sẽ quan tâm đến hàng hoá có chất lợng tốt, chấp nhận mức giá cao.
*Thứ ba, áp dụng khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại.
Sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp sẽ tăng lên khi giá cả hàng
hoá cá biệt của họ thấp hơn giá cả trung bình trên thị trờng. Để có lợi nhuận đòi

hỏi các doanh nghiệp phải tập trung các nguồn lực để tăng năng suất lao động,
hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lợng hàng hoá nhằm làm cho giá trị hàng
hoá cá biệt của mình thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải
thờng xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng
dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và quản lý hiện đại vào trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Thực tiễn đã chứng minh các doanh nghiệp tồn tại và phát
triển đợc cần có dâu chuyền công nghệ mới, hiện đại có phơng pháp tổ chức
quản lý khoa học.
*Thứ t là thông tin.
Thông tin là một công cụ cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp. Thông tin
về thị trờng mua bán, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng, về giá cả, về đối
thủ cạnh tranh ...có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Đủ thông
tin và xử lý đúng thông tin, một mặtn giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro
trong kinh doanh; mặt khác qua thông tin có thể tìm ra và tạo ra lợi thế so
sánh của doanh nghiệp trên thơng trờng, chuẩn bị và đa ra đúng thời điểm
những sản phẩm mới thay thế để tăng cờng sức cạnh tranh của hàng hoá. Thông
tin đủ đúng hoặc bng bít thông tin có thể thúc đẩy thị trờng một cách tích cực
hoặc tạo ra những nhu cầu giả tạo, hành vi cạnh tranh sai trái làm biến dạng thị
trờng. Vì thế, không ngạc nhiên khi tình trạng quảng cáo sản phẩm hiện nay
ngày càng nhiều trên các phơng tiện thông tin đại chúng, chi phí cho hoạt động
quảng cáo, giới thiệu, trng bày sản phẩm chiếm tỷ trọng nhất định trong chi phí
chung của các doanh nghiệp.
*Thứ năm, phơng thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Phơng thức phục vụ và thanh toán là công cụ cạnh tranh khá quan trọng.
Ai nắm đợc công cụ này sẽ thắng trong cạnh tranh. Bởi vì, công cụ này tạo đợc
8
sự tiện lợi cho khách hàng. Phơng thức phục vụ và thanh toán trớc hết đợc thể
hiện ở ba giai đoạn của quá trình bán hàng: trớc khi bán, trong khi bán và sau
khi bán hàng.

Trớc khi bán hàng, các doanh nghiệp thực hiện các động tác nh quảng
cáo, giới thiệu, hớng dẫn thị hiếu khách hàng, các hoạt động triển lãm, trng bày
hàng hoá. Những động tác này hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng đến với sản phẩm
cuảe doanh nghiệp mình.
Trong quá trình bán hàng, khâu quan trọng nhất là nghệ thuật chào mời
khách hàng. Điều này đòi hỏi ngời bán hàng phải thật sự tôn trọng khách hàng,
lịch sự, ân cần và chu đáo.
Sau khi bán hàng, phải có các dịch vụ nh bao bì và giao hàng hóa đến tận
tay ngời ngời mua, các dịch vụ bảo hành, sửa chữa hàng hoá...Những dịch vụ
này tạo sự tin tởng, uy tín của doanh nghiệp đối với ngời tiêu dùng. Sau nữa, ph-
ơng thức phục vụ trên sẽ phát huy tác dụng khi đợc đảm bảo các yêu cầu sau:
các dịch vụ phải nhanh, chính xác...Phơng thức thanh toán phải linh hoạt, đa
dạng bao gồm các loại nh: thanh toán một lần, thanh toán chậm (bán chịu), bán
trả góp, bán có thởng, thanh toán linh hoạt khi trả bằng ngoại tệ...
*Thứ sáu, tính độc đáo của sản phẩm .
Mọi sản phẩm khi xuất hiện trên thị trờng đều mang một chu kỳ sống
nhất định, đặc biệt vòng đời của nó sẽ rút ngắn khi xuất hiện sự cạnh tranh.
Để kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm , các doanh nghiệp dùng nhiều biện pháp
trong đó có biện pháp là thờng xuyên cải tiến mọi mặt sản phẩm , tạo ra nét độc
đáo riêng, liên tiếp tung ra thị trờng những sản phẩm thay thế sản phẩm cũ.
Trong điều kiện doanh nghiệp cha đủ sức tạo ra tính độc đáo của sản phẩm
mới, thì có thể sử dụng nhãn hiệu của một sản phẩm đang đợc uy tín trên thi tr-
ờng thông qua hình thức liên doanh. Sự thay đổi thờng xuyên về mẫu mã, nhãn
hiệu sản phẩm cũng nh không ngừng nâng cao chất lợng, tính năng hàng hoá sẽ
tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp hiện nay.
*Thứ bảy, chữ tín.
Chữ tín là công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong quá trình kinh
doanh các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm giành giật khách hàng
về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng, thanh toán nh:
9

quy ớc về giá cả, số lợng, kích cỡ, mẫu mã bằng văn bản hoặc bằng miệng, hay
việc thanh toán với các hình thức nh bán trả góp, bán chịu, bán gối đầu...Những
hành vi này sẽ thực hiện đợc tốt hơn khi giữa doanh nghiệp và khách hàng có
lòng tin với nhau. Do vậy, chữ tín trở thành công cụ sắc bén trong cạnh tranh,
giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh chóng và tiện lợi. Mặt khác, công cụ
này còn tạo cơ hộicho nhiều ngời ít vốn có điều kiện tham gia kinh doanh, do
đó mở rộng thị phần hàng hoá..., tạo sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Ưu điểm đó giải thích tại sao trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhà nớc
với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thờng linh hoạt hơn, có nhiều bạn hàng
hơn so với doanh nghiệp nhà nớc. Tuy nhiên, sử dụng công cụ này đòi hỏi các
chủ thể cạnh tranh phải có bản lĩnh. Bởi vì, có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh
nh tình trạng chụp giật, đối tác làm ăn có ý đồ đen tối.
*Thứ tám, sự mạo hiểm, rủi ro.
Trong kinh doanh, lợi nhuận của doanh nghiệp thờng tỷ lệ thuận với sự
mạo hiểm, rủi ro trong kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh có khuynh hớng đầu
t kinh doanh (kể cả đầu t nghiên cứu khoa học ) vào những mặt hàng mới,
những lĩnh vực mới mà rủi ro ở đó thờng cao. Đây cũng là khuynh hớng khách
quan, vì nó có hy vọng thu đợc lợi nhuận cao trong tơng lai. Mặt khác, nó giảm
đợc áp lực từ phía các đối thủ cạnh tranh hiện tại. Sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro
nhằm thu đợc lợi nhuận lớn bằng cách đi đầu trong kinh doanh là công cụ cạnh
tranh cực kỳ hiệu quả nhng cũng cực kỳ nguy hiểm trong quá trình cạnh tranh.
Việc sử dụng hiệu quả công cụ này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tài năng
và bản lĩnh.
III. Những nhân tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của
các ngành
Các nhân tố ảnh hởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể
đợc phân theo nhiều cách. Theo Hội nghị liên hợp Quốc tế về thơng mại và phát
triển (UNCAD) thì các yếu tố đó có thể là công nghệ, nguồn nhân lực, vốn,
chính sách thơng mại, các đối thủ cạnh tranh mới. Còn đối với Diễn đàn kinh tế
thế giới (WEF) lại đa ra các yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh là sự mở

cửa của nền kinh tế, vai trò của nhà nớc, khả năng tài chính, cơ sở hạ tầng, công
nghệ, quản lý, lao động, thể chế.
10
Micheal Porter lại đề xuất cách khác để nói về các yếu tố ảnh hởng đến
khả năng cạnh tranh của các ngành. Đó là: Các điều kiện về yếu tố đầu vào
(nhân tố sản xuất ), các điều kiện về cầu, các ngành liên quan và các ngành hỗ
trợ, chiến lợc, cấu trúc thị trờng và mức độ cạnh tranh. Ngoài các yếu tố nói
trên, thời cơ và đặc biệt vai trò củ1 nhà nớc đợc xem nh những điều kiện tổng
hợp thúc đẩy hoặc hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
1- Những nhân tố sản xuất
Yếu tố sản xuất là các yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất
nh lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn, cơ sở hạ tầng.
Các yếu tố sản xuất là đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh
tranh. Hệ thống các yếu tố sản xuất bao gồm các yếu tố sản xuất cơ bản nh khí
hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và các yếu tố yếu tố sản xuất mới gồm
cơ sở hạ tầng, thông tin, trình lao động, khả năng nghiên cứu phát triển, bí
quyết công nghệ.
Bất cứ hãng sản xuất nào cũng đợc đặt trong một môi trờng nhất định với
các yếu tố cơ bản nhất định. Việc xác định để đặt hãng sản xuất của mình trong
các yếu tố đó sao cho phù hợp rất có ý nghĩa, đặc biệt những ngành phụ thuộc
nhiều vào điều kiện tự nhiên, chi phí vận chuyển cao nh ngành sản xuất cà
phê...
Điều kiện khí hậu có thể ảnh hởng tới quá trình sinh học của nhiều loại
sản phẩm đặc biệt sản xuất chế biến các loại sản phẩm từ nông nghiệp. Nếu
hãng đặt ở nơi có khí hậu phù hợp thì sẽ có năng suất cao hơn nhiều so với nơi
không phù hợp khí hậu. Bởi khí hậu phù hợp sẽ đỡ bị hỏng đi rất nhiều.
Còn điều kiện tài nguyên thiên nhiên và vị trí địa lý nếu hãng đặt tại nơi
sẵn có tài nguyên, lại gần nơi có nhu cầu tiêu thụ sẽ giúp hãng giảm chi phí vận
chuyển đi rất nhiều, trong khi ngời ta ớc tính chi phí vận chuyển trong giá thành
sản phẩm chiếm từ 30% đến 80%.

Điều kiện khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý nếu đợc thuận lợi
sẽ giúp cho hãng sản xuất giảm chi phí đi rất nhiều, từ đó nâng cao khả năng
cạnh tranh hàng hoá của hãng nhờ có giá thành sản phẩm đi rất nhiều. Song
việc lựa chọn địa điểm không đơn giản, rất ít khi mà có đợc một cách trọn vẹn.
11
Yếu tố sản xuất cơ bản quyết định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của
hãng song yếu tố sản xuất mới còn quan trọng hơn trong việc tạo ra lợi thế cạnh
tranh để nâng cao năng lực cạnh tranh. Không giống nh yếu tố sản xuất cơ bản,
các yếu tố sản xuất mới là kết quả của sự đầu t của chính phủ, các công ty và
các cá nhân.
Những yếu tố sản xuất cơ bản mọi công ty đều có thể sở hữu và do đó
không xây dựng lợi thế cạnh tranh lâu dài đợc. Tuy nhiên những yếu tố sản xuất
mới cần phải đợc đầu t và duy trì mạnh mẽ. Chúng khó có thể sao chép đợc,
chính điều này tạo ra lợi thế cạnh tranh.
Cơ sơ hạ tầng có phát triển tạo ra một điều kiện cực kỳ thuận lợi cho các
hãng, nhất là trong lĩnh vực vận chuyển giúp hãng có thể giảm đợc chi phí sản
xuất đi rất nhiều. Điều kiện nay giúp khắc phục phần nào của yếu tố sản xuất cơ
bản.
Nguồn lực khan hiếm thờng giúp các hãng sản xuất có năng lực cạnh
tranh hơn. Sự giàu mạnh về nguồn lực sẽ dẫn đến lãng phí và sự khan hiếm phát
sinh tinh thần sáng tạo. Buộc những ngành, quốc gia này phải đổi mới để vợt
qua trở ngại do khan hiếm nguồn lực.
Chính phủ với các khoản đầu t của mình vào các lĩnh vực cơ bản nh giáo
dục, nâng cao trình độ dân trí, khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển,
nâng cao chất lợng các cơ sở đào tạo sẽ có thể cải thiện đợc thực trạng không
thuận lợi của yếu tố sản xuất mới.
Việc có cơ sở hạ tầng phát triển giúp hãng giảm chi phí, nâng cao khả
năng cạnh tranh, có điều kiện thuận lợi để phục vụ đợc nhiều khách hàng trên
toàn đất nớc và cả quốc tế. Trớc hết, hãng phải tính sản phẩm làm ra bán cho
khách hàng có đạt yêu cầu của khách hay không, điều đó còn phụ thuộc vào

trình độ lao động. Đội ngũ lao động có tay nghề cao mới có thể tạo ra sản phẩm
đạt yêu cầu với năng suất cao, có nh thế sản phẩm của hãng mới bán đợc rộng
rãi với khối lợng lớn, khả năng cạnh tranh hàng hoá mới cao, từ đó mới thu đợc
lợi nhuận tối đa.
Để tăng hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình thì hãng cần quan tâm tới
vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ. Hãng cần thu hút chất xám về
cho mình, đầu t nghiên cứu và phát triển tạo ra những bí quyết công nghệ để có
12
đợc những sản phẩm u việt, hiện đại, mẫu mã đẹp với chất lợng cao đáp ứng tốt
nhu cầu của khách hàng.
Qua phân tích trên ta nhận thấy các yếu tố sản xuất cơ bản tạo ra những
lợi thế ban đầu và kết quả của nó là cung cấp khả năng đầu t để mở rộng và phát
triển các yếu tố sản xuất mới và ngợc lại sự hạn chế về các yếu tố sản xuất cơ
bản cũng có thể tạo ra áp lực để phát triển các yếu tố sản xuất mới. Đây là mối
quan hệ phức tạp giữa các yếu tố sản xuất cơ bản và các yếu tố sản xuất mới.
Việc cân nhắc thiên về yếu tố nào hơn là vấn đề không phải dễ dàng và tất yếu
phải có bởi không phải tất cả mọi cái đều tuyệt đối. Cả hai yếu tố đó đều ảnh h-
ởng quan trọng quyết định đến năng lực cạnh tranh của hãng. Hãng muốn nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình thì trớc hết hãng cần phải tạo ra đợc lợi thế về
các yếu tố đó, những yếu tố trực tiếp tác động đến năng lực cạnh tranh của
hãng.
2. Điều kiện của cầu
Các hãng trong một ngành còn phải cạnh tranh với các ngành sản xuất
các sản phẩm thay thế. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm
năng của một ngành bằng cách đặt ngỡng tối đa cho mức giá mà các hãng trong
ngành có thể kinh doanh có lãi. Khả năng lựa chọn về giá cả của các sản phẩm
thay thế càng hấp dẫn thì ngỡng chặn trên đối với lợi nhuận của ngành càng
vững chắc hơn. Chính vì lý do đó, bất kỳ lúc nào khách hàng cũng có thể mua
sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trong ngành và cả những sản phẩm thay thế
nếu sản phẩm của công ty không đáp ứng yêu cầu của khách hàng hoặc cha

thoả mãn nhu cầu của họ.
Ngời mua tranh đua với ngành bằng cách bắt ép giá giảm xuống, mặc cả
để có chất lợng tốt hơn và đợc phục vụ nhiều hơn. Hơn nữa, họ còn làm cho các
đối thủ cạnh tranh chống lại nhau, tất cả đều làm tổn hao mức lợi nhuận ngành,
làm khả năng cạnh tranh bị ảnh hởng.
Thị trờng nội địa khó tính và tinh tế sẽ là một nhân tố quan trọng tạo nên
năng lực cạnh tranh của hãng. Những doanh nghiệp nào tồn tại trên những thị
trờng này sẽ có khả năng sản xuất và bán đợc những mặt hàng cao cấp và việc
tiếp xúc với những khách hàng khó tính giúp cho doanh nghiệp hiểu biết tốt hơn
nhu cầu và sở thích ngời tiêu dùng. Nếu giá trị riêng biệt của hàng nội địa đợc
13
các thị trờng ngoài nớc chấp nhận, các doanh nghiệp trong nớc sẽ có tính cạnh
tranh trên thị trờng toàn cầu.
Tuy nhiên, hãng sản xuất sản phẩm để bán cho khách hàng, phải coi
khách hàng là thợng đế, cần đáp ứng tốt nhu cầu của họ thì mới thu đợc nhiều
lợi nhuận. Nhu cầu đóng vai trò quan trọng để tạo ra động lực để nâng cao khả
năng cạnh tranh. Vì vậy, đặc tính của cầu là đặc biệt quan trọng trong việc hình
thành các đặc tính sản phẩm và tạo ra những áp lực để phát triển sản phẩm mới
hoặc cải tiến chất lợng sản phẩm mới. Mục đích của các hãng kinh doanh là thu
đợc lợi nhuận qua việc phục vụ, đáp ứng nhu cầu khách hàng, chính vì thế, họ
phải thoả mãn nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất nếu có thể. Nói nh vậy có
nghĩa là nếu nh nhu cầu ở trình độ cao thì sẽ tạo áp lực buộc các công ty phải
cải tiến lại mình, tiêu chuẩn hoá sản phẩm , tạo ra sản phẩm mới ngày càng đáp
ứng tốt hơn hoặc tốt nhất nhu cầu mong muốn của khách hàng. Thông thờng,
một ngành có thể thu đợc lợi thế cạnh tranh hay có đợc năng lực cạnh tranh cao
nếu cầu thị trờng ở trình độ cao và phức tạp.
Hầu hết các ngành bán hàng không chỉ cho một loại khách hàng mà là
cho nhiều loại khách hàng, thế nhng rất ít khi nhóm khách hàng lại đồng nhất.
Khách hàng tiêu dùng sản phẩm có thể khác nhau khá lớn về khối lợng mua, về
thu nhập, về trình độ giáo dục và về nhiều tiêu thức khác.

Khách hàng khác nhau có thể đòi hỏi khác nhau về mức độ dịch vụ, chất
lợng và độ bền sản phẩm, thông tin cần thiết trong việc chuẩn bị bán hàng...Nói
chung là khác nhau về nhu cầu mua hàng. Những nhu cầu khác nhau là nguyên
nhân tại sao khách hàng có những lựa chọn mua của hãng sản xuất khác nhau.
Do sự tăng trởng khối lợng hàng mua của mỗi khách hàng một khác hay nói
cách khác đó là khách hàng sẽ mua tiếp với khối lợng sản phẩm lớn nữa hay
không?
Do nhiều nguyên nhân mà chi phí cho việc phục vụ những khách hàng
riêng biệt sẽ khác nhau, thờng những khách hàng mua với khối lợng ít thì đắt
hơn so với khách hàng có khối lợng mua nhiều do giảm đợc chi phí vận chuyển.
Chính tính hỗn hợp này việc lựa chọn những khách hàng mục tiêu rất
quan trọng, hãng nên bán cho khách hàng thuận lợi nhất có thể. Hãng có khả
năng tới đâu, có thể đáp ứng nhu cầu của nhóm khách hàng nào. Sự lựa chọn
khách hàng, xem xét về cầu, có tác động mạnh tới khả năng cạnh tranh, tới tỷ lệ
14
tăng trởng của hãng. Có xem xét đúng năng lực của mình, lựa chọn đúng nhóm
khách hàng mục tiêu thì mới phát huy đợc năng lực của hãng, tăng đợc khả
năng cạnh tranh của hãng. Sự ăn khớp đó cho phép hãng đạt đợc mức khác biệt
hoá sản phẩm cao nhất so với các đối thủ cạnh tranh trớc con mắt của khách
hàng, đồng thời nó cũng làm giảm đến mức tối thiểu những chi phí phục vụ
khách hàng đó so với các đối thủ cạnh tranh. Đáp ứng đợc nhu cầu mong muốn
khách hàng một cách tốt nhất, thu hút đợc khách hàng mua sản phẩm của
mình, tạo ra uy tín cho hãng, củng cố lòng tin trong khách hàng về hãng để các
lần mua tiếp theo khách hàng sẽ mua sản phẩm của hãng chứ không phải của
đối thủ cạnh tranh.
3. Các ngành liên quan và hỗ trợ
Bất kỳ một đối tợng, sự việc nào tồn tại, phát triển cũng phụ thuộc một
cách khách quan vào những đối tợng, sự việc khác.
Việc phát triển một ngành sản xuất cũng vậy, năng lực cạnh tranh của nó
phụ thuộc rất lớn vào sự hiện diện của các ngành liên quan và hỗ trợ.

Ngành nào cũng thế, khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều đợc đặt trong
điều kiện sự phát triển của các ngành liên quan và hỗ trợ nhất định. Khách quan
mà nói, không có ngành nào phát triển một cách độc lập, riêng biệt, không liên
quan tới một ngành nào khác.
Những ngành sản xuất thuộc lĩnh vực nông nghiệp không phải chỉ phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên mà còn phụ thuộc vào các ngành sản xuất vật chất
khác nh ngành sản xuất hoá học, thuốc trừ sâu...
Những ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ cũng phụ thuộc vào các ngành nh:
sự phát triển của trình độ dân trí( tức ngành giáo dục ), sự phát triển của cơ sở
hạ tầng, của phơng tiện thông tin đại chúng...
Còn những ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp thì còn phụ thuộc rất nhiều
vào sự phát triển của các ngành nh: nguồn nguồn nguyên, nhiên liệu, công
nghiệp chế tạo máy móc...
Những ngành liên quan và hỗ trợ này có phát triển thuận lợi thì sự phát
triển của hãng cũng thuận lợi và khả năng cạnh tranh của hãng mới cao. Ngợc
lại, nếu những ngành liên quan và hỗ trợ sản xuất của hãng kém phát triển thì
hãng cũng bị ảnh hởng lớn, khả năng cạnh tranh sẽ bị giảm nhiều.
15
Nh vậy sự phát triển của một ngành còn bị tác động của rất nhiều ngành
khác có liên quan, giữa các ngành có sự liên quan tới nhau, sản phẩm của
ngành này là yếu tố đầu vào của ngành khác.
Để sản xuất với chi phí thấp mà hiệu quả, năng suất lao động lại cao,
mẫu mã hấp dẫn, phong phú mà giá lại rẻ ngoài việc tạo điều kiện thuận lợi về
các yếu tố sản xuất thì còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ tích cực của các ngành liên
quan. Có nh vậy mới nâng cao đợc khả năng cạnh tranh hàng hoá của hãng.
4.Cấu trúc thị trờng, mức độ cạnh tranh, chiến lợc của hãng và của
đối thủ cạnh tranh
Môi trờng cạnh tranh thúc đẩy sáng tạo, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Cạnh tranh gay gắt trên thị trờng trong nớc sẽ tạo ra những khách hàng tinh tế
hơn, những ngời trông mong sự đổi mới và sáng tạo của doanh nghiệp.

Những đối thủ mới của ngành mang đến năng lực sản xuất mới, sự mong
muốn chiếm lĩnh một thị phần nào đó và thờng là những nguồn lực to lớn. Giá
bán có thể bị kéo xuống hoặc chi phí của các hãng đi trớc có thể bị tăng lên và
kết quả là làm giảm mức lợi nhuận. Các công ty đa dạng hoá hoạt động của
mình thông qua việc xâm nhập vào một ngành từ những thị trờng khác thờng sử
dụng các nguồn lực của họ để tạo ra một cuộc cải tổ, sự xâm nhập vào một
ngành với dự định xây dựng một vị trí trên thị trờng kiểu đó đợc coi nh một sự
nhập cuộc của đối thủ mới mặc dù không có thực thể hoàn toàn mới nào đợc tạo
ra. Sự nhập cuộc đó cần đợc xem xét dự báo trớc bởi nó có ảnh hởng tới năng
lực cạnh tranh của hãng về lâu dài.
Cuộc cạnh tranh giữa các đối thủ đang tồn tại sử dụng các chiến thuật nh
cạnh tranh về giá, các cuộc chiến về quảng cáo, giới thiệu sản phẩm và tăng c-
ờng phục vụ khách hàng hoặc bảo hành. Cuộc tranh đua xảy ra bởi vì một hoặc
nhiều đối thủ cảm thấy bị chèn ép hoặc lấy đó làm cơ hội để cải thiện vị trí.
Trong đa số các ngành những nớc đi của một hãng có những hiệu ứng rõ ràng
đối với các đối thủ của nó và nh thế có thể kích thích sự trả đũa hoặc những cố
gắng chống trả lại có nghĩa là các hãng phụ thuộc lẫn nhau . Mô hình hành
động kiểu này có thể có hoặc không cho phép các hãng hoạt động một cách chủ
động và toàn ngành, xét một cách toàn thể sẽ tôt lên. Nếu các nớc đi và phản
hồi đó cứ liên tục leo thang thì tất cả các hãng trong ngành đều giảm năng lực
cạnh tranh, phải chịu tổn thất và yếu kém hơn trớc.
16
Các hãng liên tục chiến đấu đối đầu trong cuộc cạnh tranh. Họ có thể mất
một thời gian vất vả để thăm dò chính xác ý định của nhau và để đi đến luật
của cuộc chơi cho toàn ngành. Một sự lựa chọn chiến lợc đúng đối với đối thủ
này có thể lại là sai đối với đối thủ khác.
Một khi các lực lợng ảnh hởng tới cuộc cạnh tranh của ngành và các
nguyên nhân sâu xa của chúng đã đợc dự báo thì nhiệm vụ của hãng là phải xây
dựng điểm mạnh, yếu của mình xét trong mối tơng quan với ngành đặc biệt là
thế đứng của hãng. Hãng đứng ở đâu để chống chọi cuộc cạnh tranh từ phía các

đối thủ đã chắc chân trong cuộc? Một chiến lợc cạnh tranh hiệu quả sẽ dùng ph-
ơng sách tấn công hoặc phòng thủ nhằm tạo một vị trí có thể bảo toàn đợc
chống lại lực lợng cạnh tranh.
Hãng phải chấp nhận cấu trúc ngành nh thực tế đang tồn tại và cố gắng
sao cho những điểm mạnh, điểm yếu của hãng phải phù hợp với cấu trúc đó và
tìm ra chiến lợc cho mình trên cơ sở xem xét chiến lợc của đối thủ cạnh tranh.
Chiến lợc ở đây đợc hiểu là việc xây dựng một hệ thống phòng thủ chống lại
các lực lợng cạnh tranh hoặc tìm kiếm vị trí trong ngành mà tại đó các lực lợng
cạnh tranh là yếu nhất. Một chiến lợc đúng đắn mới phát huy năng lực công ty.
Sự hiểu biết về năng lực của hãng và những căn nguyên của các lực lợng
cạnh tranh sẽ chỉ rõ xem điểm nào, chỗ nào hãng nên đối đầu với cuộc cạnh
tranh và chỗ nào phải né tránh nó. Có thế mới nâng cao năng lực cạnh tranh.
Chiến lợc thị trờng vốn nội địa ảnh hởng đến chiến lợc của doanh nghiệp. Nơi
có tầm nhìn ngắn hạn về thị trờng vốn thờng có tính cạnh tranh cao hơn đối với
ngành sử dụng đầu ngắn hạn nh máy tính, còn những nơi có tâm nhìn dài hạn có
tính cạnh tranh cao hơn trong lĩnh vực đầu t dài hạn nh sản xuất dợc phẩm.
Vídụ nếu hãng xuất phát từ lĩnh vực sản xuất hoặc kỹ thuật thì hãng phải tập
trung vào các quy trình chế tạo hoặc thiết kế sản phẩm (hãng A), còn nếu hãng
đi lên từ lĩnh vực tài chính thì chiến lợc của hãng thờng thiếu sự tập trung vào
các vấn đề kỹ thuật mà tập trung quá mức vào vấn đề tài chính với các chỉ tiêu
nh lợi tức ngắn hạn( hãng B). Điều này dẫn tới hãng B bị mất đi lợi thế cạnh
tranh ở một số ngành đòi hỏi kỹ thuật cao nh công nghiệp chế tạo ô tô. Trong tr-
ờng hợp này hãng B phải nhận rõ về mình không nên cố tình cạnh tranh với
hãng A những sản phẩm có tính kỹ thuật cao mà nên tìm sản phẩm đòi hỏi có
nguồn tài chính lớn để cạnh tranh.
17
Sự hiện diện của bốn nhóm yếu tố này sẽ có tác dụng tích cực trong việc
tạo ra khả năng cạnh tranh cho một ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá. Lý
thuyết cũng đã chỉ ra rằng chính phủ có thể ảnh hởng đến bốn nhóm yếu tố này.
Ví dụ, các yếu tố sản xuất mới có thể đợc tạo ra và phát triển bằng các chính

sách trợ cấp, tín dụng và giáo dục. Nhu cầu thị trờng nội địa cũng có thể bị ảnh
hởng do việc chính phủ đa ra các quy định về tiêu chuẩn chất lợng, hoặc các
quy định khác ảnh hởng tới hành vi và nhu cầu của khách hàng. Chính phủ có
thể ảnh hởng tới ngành công nghiệp hỗ trợ hoặc liên quan thông qua các quy
định về cạnh tranh và thuế. Theo lý thuyết này thì doanh nghiệp muốn phát
triển thì tập trung sản xuất các sản phẩm mà bốn yếu tố trên là thuận lợi nhất.
18
Chơng II:
Đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp dệt may nhà nớc trong
giai đoạn hiện nay
I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật tác động tới năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam
1. Các nhân tố sản xuất và các ngành hỗ trợ liên quan
Trong sản xuất kinh doanh, nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có
ảnh hởng quyết định chất lợng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Tại Việt Nam
ngành dệt may sử dụng nguyên liệu chính là bông xơ, xơ sợi tổng hợp, len, đay,
tơ tằm...trong đó quan trọng nhất là bông xơ và xơ sợi tổng hợp.
Hiện nay Việt Nam mới sản xuất đợc các loại xơ dệt chính là bông và tơ
tằm. Chúng ta có điều kiện thuận lợi về trồng bông và có khả năng khai thác đ-
ợc 25.000 đến 30.000 hecta diện tích trồng bông cung cấp cho ngành dệt
khoảng 10.000 tấn/năm. Diện tích trồng dâu trên cả nớc hiện đạt khoảng 38.000
hecta, cho 1.500 tấn tơ kén.
Thực tế sản phẩm dệt tơ tằm trong nớc không nhiều, chất lợng cha cao,
còn biến động lớn về cả chất lợng lẫn sản phẩm. Nguồn xơ sợi tổng hợp sử dụng
hiện tại vẫn còn phải nhập 100%, hàng năm vẫn nhập khoảng 25.000 tấn xơ PE
và 6.000 tấn sợi PETEX .
Những năm gần đây, sản xuất bông trong nớc đợc chú ý quan tâm hơn
nhng cũng mới chỉ đáp ứng đợc khoảng3% đến 5% nhu cầu và bông vẫn cha có
vị trí xứng đáng trong những cây công nghiệp quan trọng ở nóc ta.

Nh vậy tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho ngành dệt may của Việt Nam
khá thuận lợi về cả khí hậu, đất đai lại nhiều lao động thuộc ngành nông nghiệp
song lại cha đầu t quan tâm đúng mức.Từ đó dẫn đến ngành dệt may phải nhập
nhiều nguyên liệu từ nớc ngoài làm cho ngành dệt may bị phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu nớc ngoài, giá thành sản phẩm lại có xu hớng tăng và từ đó khả
năng cạnh tranh của dệt may Việt Nam bị giảm xuống.
19
Nh đã biết, ngành dệt may của Việt Nam có lịch sử phát triển kéo dài hơn
một thế kỷ nay bắt đầu từ nghề thêu dệt lụa. Đầu thế kỷ XX thực dân Pháp lập
nhà máy dệt Nam Định song sản phẩm của nó lại dành cho xuất khẩu chứ
không phải dành cho dệt may Việt Nam, dệt vải bằng nguyên liệu bông cho tiêu
dùng nội địa. Hầu hết các doanh nghiệp dệt may đều có trang thiết bị lắp đặt từ
thời đó và cho đến nay vẫn đợc sử dụng, trở nên quá lỗi thời, không đáp ứng đ-
ợc nhu cầu của thị trờng về chất lợng và mẫu mã sản phẩm. Tuy các doanh
nghiệp cũng đã trang bị lại một số thiết bị, đổi mới công nghệ nhng chỉ với quy
mô nhỏ, lẻ tẻ không nằm trong một chiến lợc chung toàn ngành. Chính vì vậy,
sản phẩm đạt chất lợng không cao.
Về trình độ lao động, việc đầu t để tạo nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn cao và năng lực quản lý đối với doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng,
mà thực tế hiện nay cha có trờng nào có chuyên ngành đào tạo công nhân kỹ
thuật, cán bộ quản lý cho ngành dệt may, chủ yếu trởng thành trong quá trình
làm việc.
Ngành dệt may sử dụng nhiều máy móc, song ngành công nghiệp sản
xuất máy móc phục vụ cho nó lại cha phát triển. Thiết bị máy móc còn lạc hậu
so với thế giới, máy móc của ta lạc hậu so với các nớc ASEAN từ 10 đến 20
năm phát triển. Các doanh nghiệp phải nhập máy móc từ nớc ngoài. Điều này
làm ảnh hởng lớn đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam.
2. Điều kiện về cầu và các đối thủ cạnh tranh.
Với dân số trên 6 tỷ ngời, thế giới là một thị trờng tiêu thụ rất nhiều

sản phẩm dệt may. Cùng với thu nhập của thế giới tăng lên, nhu cầu ăn mặc,
mua sắm cũng tăng lên. Ngoài ra, hoạt động thời trang diễn ra mang tính chất
xuyên quốc gia, sẽ là cơ hội lớn cho ngành dệt may phát triển rất mạnh trong
thời gian tới. Điều kiện thời tiết, khí hậu mỗi nớc một khác nhau, các doanh
nghiệp dệt may có thể phát triển loại sản phẩm phù hợp khả năng của mình
hoặc cung cấp những sản phẩm khác nhau thích ứng với tính mùa vụ trong năm.
Đời sống khá lên, con ngời lại có xu hớng quay về với thiên nhiên. Do vậy,
những sản phẩm dệt may có xuất xứ từ thiên nhiên nh tơ tằm, lanh, thổ cẩm...sẽ
là những sản phẩm đợc ngời tiêu dùng thế giới rất a chuộng mà Việt Nam ta lại
có lợi thế về những mặt này.
20
Không nói đâu xa, Việt Nam có dân số gần 80 triệu ngời cũng đã là một
thị trờng tiềm năng cho tiêu thụ các loại hàng hoá nói chung và hàng hoá dệt
may nói riêng. Trong tơng lai, đời sống của tầng lớp dân c ngày càng đợc cải
thiện thì nhu cầu sử dụng hàng hoá dệt may ngày càng tăng thúc đẩy ngành dệt
may ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất.
Không những nhu cầu ăn mặc mua sắm tăng lên mà những đòi hỏi chất l-
ợng, mẫu mã của sản phẩm đối với hàng dệt may ngày càng tăng. Ngời ta a sản
phẩm của hãng nào chất lợng tốt, mẫu mã phong phú mà giá lại rẻ.
Nh vậy, thị trờng tiêu thụ của ngành dệt may rộng lớn, đâu đâu cũng có
nhu cầu. Song với sự phát triển ngày càng lên cao của nhận thức con ngời, ngời
ta hớng tới sản phẩm chất lợng, mẫu mã ngày một cao và phong phú hơn. Điều
này thúc đẩy các doanh nghiệp dệt may ngày một nâng cao khả năng cạnh tranh
của mình.
Doanh nghiệp Việt Nam của ta ngoài việc cạnh tranh với nhau trên thị tr-
ờng thì còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp dệt may nớc ngoài. Họ có u
thế là giá thành không cao lắm đặc biệt sau năm 1997 (khủng hoảng tài chính
tiền tệ khu vực do sự mất giá của đồng tiền bản địa ) mà sản phẩm dệt may Việt
Nam trở nên đắt hơn, họ tự túc nguyên liệu và phụ kiện chất lợng cao nên càng
giảm giá thành sản phẩm , hơn nữa nhãn hiệu của họ quen thuộc với ngời tiêu

dùng và có uy tín.
3. Những tác động của nhà nớc
Ngày 14/11/1999, Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) đợc thành lập
nhằm bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp dệt may, tránh tình trạng dẫm
chân lên nhau, chèn ép nhau, tự mình làm hại mình nh trớc đây. Ngoài ra
VITAS còn hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin, đầu t, chuyển giao công nghệ,
về thị trờng và đào tạo nguồn nhân lực...
Ngành dệt may Việt Nam phát triển trên diện rộng và thuộc nhiều thành
phần kinh tế. Song cha có sự cân xứng giữa dệt và may:
Trong ngành dệt vai trò chủ đạo thuộc về xí nghiệp quốc doanh. Cụ thể:
Doanh nghiệp quốc doanh chiếm 60% tổng sản lợng toàn ngành
Doanh nghiệp t nhân chiếm 25% tổng sản lợng toàn ngành
21
Doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài chiếm 15% tổng sản lợng toàn
ngành
Trong ngành dệt may doanh nghiệp t nhân lại có vị trí quan trọng chiếm
48% tổng sản lợng toàn ngành, tiếp theo là doanh nghiệp nhà nớc chiếm 36%,
cuối cùng là các công ty có vốn đầu t nớc ngoài là 15%.
Nhìn chung, ở ngành dệt may đã có những chuyển biến tích cực theo h-
ớng đa dạng hoá các thành phần kinh tế, vai trò của các loại xí nghiệp quốc
doanh ngày một tăng và quan trọng hơn, đặc biệt là loại hình công ty TNHH và
vốn đầu t nớc ngoài. Đồng thời với điều đó là sự động viên và tạo điều kiện để
có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong ngành dệt may Việt Nam ,
nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực cho ngành quan trọng này.
Trong thời kỳ đổi mới vừa qua nhà nớc ta đã có nhiều chính sách kinh tế
tài chính có tác động tích cực đến ngành dệt may nh chính sách phát triển kinh
tế nhiều thành phần; cho phép các doanh nghiệp đợc quyền xuất nhập khẩu trực
tiếp; luật đầu t nớc ngoài (ra đời tháng 12/1987) tạo điều kiện cho nganh thu hút
số vốn đầu t lớn...
Sự ra đời của tổng công ty dệt may Việt Nam mở rộng kịp thời thị trờng dệt

may sang Nhật Bản; Quyết định số 55/2001 /QĐ Thủ tớng chính phủ đã phê
duyệt chiến lợc phát triển và một số cơ chế chính sách hỗ trợ cho ngành dệt
may từ nay đến năm 2010. Theo đó, ngành dệt may sẽ đợc tạo điều kiện phát
triển trở thành ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất nhập khẩu,
thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nớc.
So với nhiều ngành khác, vốn đầu t để đổi mới thiết bị trong ngành dệt
may nói chung tăng khá nhanh. Hiện nay vốn đầu t của Tổng công ty dệt Việt
Nam (VINATEX) 4.000 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên so với yêu cầu thì còn rất
thấp. Theo tính toán của các nhà kinh tế thì đầu t cho ngành dệt may Việt Nam
phải ở mức từ 2 đến 4 tỷ USD mới đạt mục tiêu mà chính phủ đề ra.
Nhờ có vốn các doanh nghiệp có thể trang bị thêm cơ sở vật chất, đầu t
theo chiều sâu, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lợng sản phẩm . Tuy nhiên các
doanh nghiệp nhà nớc địa phơng lại bị giảm sút về vốn đầu t, còn các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh có số vốn nhỏ.
22
II.Thực trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt
may nhà nớc.
Nh đã biết, ngành dệt may của Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời, xét
toàn ngành nói chung, ngành dệt may đã đạt đợc những thành tựu đáng kể nhờ
có những thuận lợi từ phía tự nhiên cũng nh sự lỗ lực cố gắng của các doanh
nghiệp, cộng với những điều kiện thuận lợi mà nhà nớc tạo ra. Song bên cạnh
đó vẫn tồn tại những hạn chế cùng những khó khăn cần đợc giải quyết.
1.Những thành tựu và những thuận lợi về khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp dệt may nhà nớc Việt Nam
Chế độ bao cấp đợc xoá bỏ nhng chính phủ vẫn thi hành chính sách cấp
vốn và hỗ trợ đầu t từ ngân sách nhà nớc theo hớng tập trung vào những dự án
công trình đem lại hiệu quả đối với nền kinh tế. Doanh nghiệp dệt may của nhà
nớc nằm trong danh mục đợc u tiên hỗ trợ đầu t của nhà nớc.
Bên cạnh nguồn vốn đầu t từ ngân sách nhà nớc, các doanh nghiệp
dệt may còn đợc u tiên trong việc vay vốn tín dụng đầu t của nhà nớc, kể cả

nguồn vốn ODA. Nhờ có vốn lớn, các doanh nghiệp có thể trang bị thêm cơ sở
vật chất kỹ thuật, cải tiến kỹ thuật nâng cao chất lợng sản phẩm, đầu t theo
chiều sâu.
Ngành dệt may thực hiện chiến lợc thay thế nhập khẩu, vơn tới xuất
khẩu. Trong giai đoạn đầu thực hiện chiến lợc này nhà nớc thi hành chính sách
bảo hộ thông qua các biện pháp nh thuế...với mục tiêu này thuế nhập khẩu đối
với ngành dệt may rất khác nhau nhằm khuyến khích sản xuất trong nớc.
Hàng dệt may của Việt Nam khá tốt và rẻ hơn so với hàng nớc ngoài. Ưu
điểm này nằm trong bản chất ngành và thế so sánh giữa tiền lơng nhân công
Việt Nam với tiền lơng nhân công nớc ngoài. Ngành dệt may cần rất nhiều nhân
công, mỗi nhân công dệt chỉ coi đợc một số máy dệt hạn chế, các nhân công
may mặc cũng chỉ may đợc một số rất ít sản phẩm mỗi ngày. Giá nhân công rẻ
là khâu quyết định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của ngành dệt may:
Tại các nớc công nghiệp phát triển giá nhân công 10 USD/giờ
Tại các nớc công nghiệp mới giá nhân công 3 5 USD/giờ
Tại Việt Nam giá nhân công là 0,14-0,42 USD/giờ
23
Do số cầu hàng may mặc có tính co giãn, số cầu không bao giờ tiến đến
mức bão hoà.Vì mức sống càng đợc cải thiện thì con ngời càng có nhu cầu ăn
mặc đẹp và đúng thời trang hơn.
Việt Nam có khí hậu phù hợp với việc trồng bông và có diện tích trồng
bông, dâu lớn, hơn nữa lao động thuộc ngành nông nghiệp của ta lại rất lớn.
Điều này thể hiện rằng chúng ta có khả năng đáp ứng nguyên liệu cho dệt may
trong nớc.
Chính nhờ những thuận lợi trên mà ngành dệt may đã thu đợc thành tựu
đáng mừng. Thể hiện:
Ngành dệt may Việt Nam với lợi thế nguồn lao động dồi dào, giá nhân
công rẻ, có thị trờng tiêu thụ và đợc chính phủ quan tâm, đã phát triển khá
nhanh và đã tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trờng nội địa. Ngành dệt may đang
giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nớc, chiếm 24% lao động trong

khu vực công nghiệp (khoảng 1,6 triệu lao động); Góp 14,8% tổng kim ngạch
xuất khẩu; Góp 31% GDP của công nghiệp chế biến.
Trong 5 năm vừa qua mức độ tăng trởng chung của hàng dệt may tăng
bình quân hàng năm khoảng 11%.
Ngành dệt may không chỉ thực hiện mục tiêu đáp ứng nhu cầu trong nớc
mà còn khai thác cả thị trờng nớc ngoài. Trong danh mục hàng xuất khẩu những
năm gần đây hàng dệt may luôn chiếm u thế, kim ngạch hàng xuất khẩu hàng
dệt may tăng lên nhanh chóng , tăng từ 1150 triệu USD (năm 1996) lên 1747
triệu USD (năm 1999) và tăng lên 2150 triệu USD (năm 2001), riêng 7 tháng
đầu năm 2002 đã đạt 1249 triệu USD.
Một điểm nổi bật nhất của hàng dệt may Việt Nam là có đến 70% sản
phẩm đợc xuất khẩu theo phơng thức gia công.Việc xuất khẩu theo hình thức
gia công tuy có kém lợi thế hơn so với xuất khẩu trực tiếp song u điểm của nó
sử dụng nhiều lao động và đầu t vốn không lớn.
Trong khoảng chục năm trở lại đây, gia công hàng may mặc xuất khẩu
của các doanh nghiệp dệt may đạt đợc bớc tiến đáng kể. Nhờ phát triển mạnh
phơng thức gia công hàng dệt may xuất khẩu mà vốn đầu t cả trong và ngoài n-
ớc vào lĩnh vực đã và đang tăng mạnh. Tổng công ty dệt may trong giai đoạn
1996-1999 đầu t khoảng 3.500 tỷ đồng, ngoài ra các đơn vị trong tổng công ty
24
dệt may còn phối hợp với nhiều địa phơng đầu t hàng trăm tỷ đồng để xây dựng
dây chuyền sản xuất.
Theo thông tin mới nhất tháng 10 năm 2002 nhiều công ty nhà nớc cùng
một số công ty khác đã kết hợp tổ chức luyện thi thợ giỏi, thao diễn kỹ thuật với
chế độ nâng bậc hàng năm, nhờ đó mà tạo đợc năng suất lao động mới, chất l-
ợng sản phẩm tăng, đồng thời tạo động lực khuyến khích đông đảo công nhân
hăng hái tham gia. Đồng thời phong trào thi đua công nhân viên chức lao động
đã phát huy 163 sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất với giá trị làm
lợi là 1,68 tỷ đồng. Trong cuộc thi này các công tuy dệt may nhà nớc nh công ty
dệt kim Hà Nội đã xây dựng và áp dụng thành công cùng một lúc hai hệ thống

quản lý chất lợng là ISO 9000 và TQM, hay nh nhà máy dệt 19-5 đã xây dựng
và áp dụng các hệ thống ISO 9000, TQM và ISO-1400 cùng việc đăng ký đến
năm 2003 tiến hành xây dựng hệ thống quản lý chất lợng SA 8000.
Các doanh nghiệp dệt may nhà nớc đang ngày càng cố gắng góp phần
vào công cuộc phát triển dệt may của toàn nền kinh tế, ngày một nâng cao khả
năng cạnh tranh, không chỉ với các doanh nghiệp sản xuất hàng nội địa mà còn
với cả các doanh nghiệp bán hàng nhập khẩu.
Xét trên toàn thể ngành dệt may nói chung, trong đó các doanh nghiệp
dệt may nhà nớc giữ vai trò then chốt, đã thu đợc những thành tựu đáng mừng.
Xét trên toàn thể ngành dệt may nói chung, trong đó các doanh nghiệp dệt may
nhà nớc giữ vai trò then chốt, đã thu đợc những thành tựu đáng mừng.
Doanh nghiệp dệt may nhà nớc, những năm vừa qua, trên cơ sở tận dụng
các lợi thế sẵn có của mình, đang tham gia ngày càng sâu hơn vào lĩnh vực cạnh
tranh. Tuy nhiên, không phải mọi việc đều suôn sẻ.
2. Khó khăn và những hạn chế cần khắc phục
Trong chất lợng phát triển các ngành thì ngành dệt may thuộc nhóm
ngành có tính cạnh tranh cao và đợc u tiên hỗ trợ phát triển từ phía nhà nớc. Và
thực tế nhà nớc đã thi hành một số chính sách hỗ trợ nhng từ thực tế ngành đang
gặp rất nhiều khó khăn.
Trớc kia Việt Nam vốn là nớc thuộc địa của Pháp, chỉ sản xuất các nông
sản để bán cho Pháp và Pháp bán hàng công nghiệp của Pháp cho Việt Nam.
Khi đó sản xuất công nghiệp Việt Nam rất kém phát triển thậm chí nói là ngừng
25

×