Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Báo cáo tốt nghiệp Dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng thương mại Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.21 KB, 97 trang )








Báo cáo tốt nghiệp


Dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng thương
mại Việt Nam
Mục lục

Lời mở đầu - 1 -
Chương I - 7 -
Tổng quan về dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng thương
mại trong nền kinh tế. - 7 -
I. Tổng quan về ngân hàng thương mại - 7 -
1. Khái niệm về ngân hàng - 7 -
2. Chức năng của các ngân hàng thương mại - 8 -
3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại - 8 -
II. Tổng quan về dịch vụ ngân hàng hiện đại - 9 -
1. Khái niệm về dịch vụ ngân hàng hiện đại (DVNHHĐ) - 9 -
- Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ mà không cần phải trực tiếp
đến ngân hàng , có thể giao dịch với ngân hàng tại bất cứ nơi đâu,
bất cứ thời điểm nào, chỉ cần khách hàng đáp ứng đủ các điều
kiện do ngân hàng đưa ra - 11 -
2. Sự phân biệt giữa dịch vụ ngân hàng truyền thống và dịch vụ
ngân hàng hiện đại - 11 -
3. Sự cần thiết phát triển DVNHHĐ của NHTM ở Việt Nam - 14 -


3.1 Những lợi ích của việc phát triển DVNHHĐ - 14 -
4.1.2. Các phương thức thanh toán - 20 -
4.2.4 Dịch vụ ngân hàng qua mạng Internet (Internet-
Banking) - 27 -
5. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng phát triển dịch vụ ngân
hàng hiện đại: - 28 -
5.1 Nhóm nhân tố ngoài ngân hàng thương mại - 28 -
5.1.1. Môi trường kinh tế: - 29 -
5.1.2. Môi trưòng khoa học, kỹ thuật công nghệ - 29 -
5.1.3. Môi trường chính trị, pháp luật - 30 -
5.1.4. Nhân tố khác - 31 -
5.2 Nhóm nhân tố về phía ngân hàng thương mại - 32 -
Đây là những nhân tố thuộc về các yếu tố nội lực của ngân
hàng - 32 -
Chương II - 35 -
Thực trạng dịch vụ ngân hàng hiện đại tại các NHTM Việt Nam và
SGDI- BIDV - 35 -
I. Thực trạng DVNHHĐ của các NHTM ở Việt Nam hiện nay - 35 -
1. Thực trạng DVNHHĐ của các NHTM ở Việt Nam - 35 -
2. Đánh giá thực trạng DVNHHĐ của các NHTM Việt Nam - 39 -
2.1 Những kết quả đã đạt được - 39 -
II. Thực trạng DVNHHĐ ở Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam - 50 -
1. Giới thiệu về SGDI-BIDV - 50 -
1.1. Lịch sử hình thành. - 50 -
1.2. Hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I - BIDV - 51 -
1.2.1. Hoạt động huy động vốn - 52 -
Tính đến 31/12/2003 tổng huy động vốn ước đạt khoảng 8408
tỷ, tăng khoảng 17% so với năm 2002, thị phần huy động vốn
trên địa bàn vẫn giữ ở mức 8% trong điều kiện cạnh tranh

ngày càng gay gắt. - 52 -
1.2.2. Hoạt động tín dụng. - 54 -
1.2.3. Hoạt động dịch vụ - 55 -
2. Thực trạng DVNHHĐ ở SGDI- BIDV - 57 -
2.1 Thực trạng dịch vụ ngân hàng hiện đại ở SGDI-BIDV - 57 -
2.2 Đánh giá công tác phát triển DVNHHĐ của SGDI- BIDV - 67
-
Chương III - 73 -
Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại ở các NHTM Việt
Nam - 73 -
(nghiên cứu tại Sở giao dịch I - NHĐT&PTVN) - 73 -
1. Giải pháp phát triển DVNHHĐ chung cho các NHTM Việt
Nam - 73 -
1.1. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách và cơ sở pháp lý cho
hoạt động DVNHHĐ - 73 -
1.2. Nhóm giải pháp hiện đại hóa công nghệ ngân hàng - 75 -
1.3 Nhóm giải pháp khuyến khích mở và sử dụng tài khoản cá
nhân. - 78 -
1.4. Nhóm giải pháp Marketing - 79 -
1.5. Nâng cao chất lượng cán bộ nhân viên - 84 -
II. Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại tại Sở giao dịch I-
NHĐT&PTVN - 84 -
1. Định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại của Sở giao
dịch I- NHĐT&PTVN - 84 -
2. Giải pháp đối với SGD I - BIDV về phát triển DVNHHĐ - 86 -
2.1. Hoàn thiện hơn nữa các cơ chế chính sách có liên quan đến
DVNHHĐ - 86 -
2.2. Tiếp tục hoàn thiện dự án hiện đại hóa ngân hàng đồng thời
không ngừng nâng cao trình độ công nghệ thông tin, trang thiết
bị cơ sở vật chất cho SGD I - BIDV - 86 -

2.3. Nhóm giải pháp Marketing để phát triển DVNHHĐ - 88 -
2.4. Không ngừng nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên về
nghiệp vụ, tin học và ngoại ngữ - 89 -
2.5. Một số giải pháp hỗ trợ khác - 89 -
III. Kiến nghị - 89 -
1. Một số kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan có liên quan - 89
-
2. Một số kiến nghị với Ngân hàng Nhà nuớc Việt Nam - 91 -
Kết luận - 94 -
Danh mục tài liệu tham khảo - 96 -



























Lời mở đầu
Trước tác động của toàn cầu hoá và xu thế nhất thể hoá thị trường tài
chính tiền tệ đang diễn ra nhanh chóng, Việt Nam đang từng bước mở cửa
tiến tới hội nhập khu vực và Quốc tế. Trong xu thế đó Việt Nam đã kí kết
không ít các hiệp định song phương và đa phương liên quan tới hoạt động
tài chính ngân hàng. Đặc biệt Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng như
cam kết chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại thế giới( WTO) đã buộc
chúng ta phải đổi mới và phát triển hệ thống Ngân hàng. Để giành thế chủ
động trong tiến trình hội nhập Việt Nam cần xây dựng một hệ thống Ngân
hàng đa dạng về hình thức, có uy tín với khách hàng, hoạt động có hiệu
quả, an toàn, nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu
cầu CNH- HĐH đất nước
Cùng với xu thế đó là sự phát triển không ngừng và ngày càng mạnh mẽ
của khoa học kĩ thuật và thông tin. Cũng cùng với thế giới Việt Nam đang
dần hình thành một nền thương mại điện tử trong đó các nghiệp vụ về
thanh toán và chuyển tiền đều được điện tử hoá. Ngân hàng là trung gian
thanh toán đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế nên cũng là cũng là
người bạn không thể thiếu của khách hàng tham gia thương mại điện tử.
Với sự phát triển của thương mại điện tử cũng đã tạo ra cho ngân hàng một
loạt các dịch vụ mới, trong đó phải kể đến các dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Đây là những dịch vụ ngân hàng được ra đời và phát triển dựa trên một
trình độ công nghệ kĩ thuật hiện đại. ở Việt Nam kể từ khi các NHTM thực
hiện đổi mới tái cơ cấu lại tổ chức và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
cũng đã bắt đầu đưa ra những sản phẩm dịch vụ hiện đại phù hợp với sự

phát triển của quốc tế cũng như đáp ứng được nhu cầu của khách hàng
Phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại có ý nghĩa rất quan trọng đối
với sự phát triển và tồn tại của các NHTM Việt Nam hiện nay.Tuy nhiên
trong khi các NHTM trên thế giới đã phát triển mạnh mẽ các dịch vụ hiện
đại của mình thì ở Việt Nam do nhiều điều kiện khách quan và chủ quan
mà việc phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại mới đang ở giai đoạn
nghiên cứu, triển khai thử nghiệm, chưa phát triển rộng rãi. Bước đầu đã
thu được một số kết quả nhất định nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn
vướng mắc cần tháo gỡ.
Sở giao dịch I - NHĐT&PTVN là một chi nhánh lớn của hệ thống
NHĐT&PTVN, là một trong những đơn vị hàng đầu của hệ thống và luôn
đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào phát triển dịch vụ của
mình. Tuy nhiên cùng với tình trạng chung của các NHTM Việt Nam mà
trong quá trình phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại của mình vẫn còn
nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết. Do đó để tìm ra giải pháp phát triển
dịch vụ ngân hàng hiện đại của Sở giao dịch I - NHĐT&PTVN nói riêng
và hệ thống NHTM Việt Nam nói chung nhằm thu hút khách hàng, tạo uy
tín và vị thế cạnh tranh trên thị trường là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay.
Nhận thức được vấn đề này em đã chọn đề tài:
Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng
thương mại Việt Nam ( Nghiên cứu tại Sở giao dịch I- NHĐT&PTVN)
Nội dung gồm ba phần:
Chương I: Tổng quan về dịch vụ ngân hàng hiện đại của các NHTM
trong nền kinh tế
Chương II: Thực trạng dịch vụ ngân hàng hiện đại tại các NHTM Việt
Nam và Sở giao dịch I- NHĐT&PTVN
Chương III: Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại của các
NHTM Việt Nam ( Nghiên cứu tại Sở giao dịch I- NHĐT&PTVN)



Chương I
Tổng quan về dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng
thương mại trong nền kinh tế.
I. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1. Khái niệm về ngân hàng
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với kinh tế. Các
NHTM được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ và vai trò mà chúng
thực hiện trong nền kinh tế. Với mỗi cách tiếp cận khác nhau ta sẽ có khái
niệm ngân hàng khác nhau.
Luật ngân hàng Pháp 1941 định nghĩa NHTM căn cứ vào mục đích và
tính chất hoạt động. Ngân hàng được coi là “những xí nghiệp hay cơ sở
hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay
hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chứng khoán, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Nếu xét trên phương diện những loại hình dịch vụ cung cấp có thể hiểu:
“Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
Xem xét trên các hoạt động chủ yếu Luật các tổ chức tín dụng của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch
vụ thanh toán”.
Với nội dung của đề tài nghiên cứu, chuyên đề sẽ đi theo khái niệm về
NHTM dựa trên những loại hình dịch vụ cung cấp và trên các hoạt động
chủ yếu của nó.
2. Chức năng của các ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính có vai trò vô cùng quan
trọng trong nền kinh tế, với vị trí và vai trò của mình ngân hàng thực hiện

các chức năng cơ bản sau:
Chức năng trung gian tín dụng: Với chức năng này ngân hàng đã khắc
phục được những hạn chế trong quan hệ tín dụng trực tiếp giữa các chủ thể
kinh tế. Ngân hàng chuyển những khoản tiết kiệm nhàn rỗi thành những
khoản tín dụng cho các tổ chức kinh tế và các thành phần kinh tế khác để
đầu tư. Ngân hàng đồng thời vừa là người đi vay vừa là người cho vay. Đây
là chức năng quan trọng nhất vì nó phản ánh bản chất của NHTM đó là đi
vay để cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM, đồng
thời là cơ sở để thực hiện những chức năng tiếp theo
Chức năng là trung gian thanh toán: Ngân hàng làm trung gian thanh
toán, thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán việc mua hàng hoá và dịch
vụ bằng việc trích từ tài khoản tiền gửi của khách hàng, hay nhập tiền vào
tài khoản của khách hàng , thanh toán hộ cho khách hàng .Khi nền kinh tế
càng phát triển xu hướng thanh toán bằng tiền mặt giảm, thanh toán qua
ngân hàng tăng nên ngân hàng ngày càng bộc lộ rõ tầm quan trọng của
mình trong thanh toán .
Chức năng là người bảo lãnh: Ngân hàng cam kết trả nợ cho khách hàng
khi khách hàng mất khả năng thanh toán ( phát hành thư tín dụng)
Chức năng là đại lý : Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản cho
họ, phát hành và chuộc lại chứng khoán.
3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Nhìn chung các hoạt động cơ bản của NHTM đều hướng tới mục tiêu tối
cao, chi phối các hoạt động khác đó là tối thiểu hoá chi phí, tối đa hóa lợi
nhuận và đạt được mục tiêu an toàn. Về cơ bản một NHTM thường xuyên
thực hiện các hoạt động chính sau:
-Huy động vốn: Đây là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân
ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong hoạt động này NHTM được
phép sử dụng những biện pháp và công cụ cần thiết mà luật pháp cho phép
để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng
để cho vay đối với nền kinh tế. Kết quả của hoạt động huy động vốn là tạo

ra nguồn vốn để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế.
-Hoạt động sử dụng vốn: Là việc ngân hàng sử dụng nguồn vốn của
mình và các nguồn vốn ổn định khác để cho vay đối với các chủ thể kinh
tế và thực hiện đầu tư. Đây là hoạt động quan trọng nhất quyết định đến
khả năng tồn tại và phát triển của NHTM.
- Ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng :
Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng
kể cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa
tạo ra thu nhập cho ngân hàng bằng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí. Các
hoạt động này gồm: Các dịch vụ thanh toán; thu, chi hộ khách hàng; Nhận
bảo quản các tài sản giấy tờ có giá; Kinh doanh mua bán ngoại tệ , vàng
bạc, đá quý; Tư vấn tài chính …
II. Tổng quan về dịch vụ ngân hàng hiện đại
1. Khái niệm về dịch vụ ngân hàng hiện đại (DVNHHĐ)
Dịch vụ là hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải quyết
các mối quan hệ giữa khách hàng và tài sản mà khách hàng sở hữu với
người cung cấp mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu. Sản phẩm của
dịch vụ có thể trong phạm vi và vượt quá phạm vi của sản phẩm vật chất.
Ngành ngân hàng là ngành không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và
tinh thần cho xã hội nên được xếp vào ngành dịch vụ.
Xét trên giác độ Marketing: Dịch vụ ngân hàng là những đặc điểm, tính
năng, công dụng do ngân hàng tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu và mong
muốn nhận được của khách hàng, tổ chức tài chính.
Theo tác giả Võ Kim Thanh trong bài báo “Đa dạng hoá nghiệp vụ dịch
vụ ngân hàng- xu thế phát triển tất yếu của các NHTM Việt Nam”(Tạp chí
ngân hàng số 3/2001) viết: “Dịch vụ ngân hàng là những dịch vụ thuộc lĩnh
vực tài chính, do ngân hàng cung cấp cho khách hàng của mình”.
Còn theo tác giả Đỗ Xuân Hồng trong bài báo “Dịch vụ ngân hàng trong
thời đại công nghệ thông tin và hội nhập kinh tế” (tạp chí ngân hàng số
8/03) viết: “Dịch vụ ngân hàng là các phương tiện, công cụ vô hình dùng

để chuyển tải các loại hình hoạt động kinh doanh ngân hàng bằng các
phương tiện công cụ hữu hình (các loại máy móc, thiết bị, công nghệ).
Do lịch sử phát triển lâu đời cũng như sự tăng giảm không ngừng về tổ
chức hoạt động theo thời gian của NHTM và sự thay đổi như vũ bão của
khoa học công nghệ ma dịch vụ ngân hàng có thể được chia thành hai loại:
dịch vụ ngân hàng truyền thống( DVNHTT) và dịch vụ ngân hàng hiện đại(
DVNHHĐ).
Dịch vụ ngân hàng truyền thống là những dịch vụ có lịch sử lâu đời, sự
ra đời và hoạt động của các dịch vụ này gắn liền với sự ra đời và phát triển
của ngân hàng. Đây là những dịch vụ cơ bản , là hoạt động chính đem lại
nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng , quyết định đến sự tồn tại của ngân
hàng. Các DVNHTT có thể kể đến là : dịch vụ nhận tiền gửi tiết kiệm, nhận
tiền gửi thanh toán, dịch vụ cho vay…
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề chỉ tập trung và những
DVNHHĐ mới phát triển gần đây, những dịch vụ dựa trên khoa học công
nghệ tiên tiến và những dịch vụ có tính chất tập trung hóa, đa dạng hoá cao
Vậy có thể hiểu: Dịch vụ ngân hàng hiện đại là những dịch vụ thuộc lĩnh
vực tài chính do ngân hàng cung cấp cho khách hàng của mình dựa trên sự
tiến bộ và phát triển của khoa học công nghệ thông tin hiện đại, có sự đa
dạng hoá cung cấp nhiều tiện ích cho khách hàng , thoả mãn ngỳa càng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng. Ví dụ: dịch vụ thanh toán điện tử, dịch vụ
ngân hàng điện tử( rút tiền tự động, ngân hàng tại nhà…)
Các tiêu chí để nhận biết một dịch vụ ngân hàng là DVNHHĐ như sau:
- Thời gian ra đời: DVNHHĐ chỉ ra đời khi nền kinh tế đã đạt được một
trình độ nhất định về khoa học công nghệ, do vậy sự ra đời của các
DVNHHĐ gắn liền với sự ra đời và phát triển của khoa học công nghệ
thông tin hiện đại, đặc biệt là công nghệ ngân hàng. Các dịch vụ này chủ
yếu ra đời vào những thập kỉ cuối của thế kỷ XX và những năm đầu của thế
kỷ XXI.
- DVNHHĐ chứa đựng hàm lượng công nghệ lớn, để có thể sử dụng

được các dịch vụ này cần phải có cơ sở hạ tầng thông tin , tin học và các
thiết bị điện tử hoặc kĩ thuật số tương ứng
- Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ mà không cần phải trực tiếp đến
ngân hàng , có thể giao dịch với ngân hàng tại bất cứ nơi đâu, bất cứ thời
điểm nào, chỉ cần khách hàng đáp ứng đủ các điều kiện do ngân hàng đưa
ra
Căn cứ vào các tiêu chí trên và căn cứ vào phạm vi chuyên đề nghiên
cứu bài viết sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu dịch vụ thanh toán trong nước(
chủ yếu là các công cụ và phương thức thanh toán hiện đại) và các dịch vụ
ngân hàng điện tử
2. Sự phân biệt giữa dịch vụ ngân hàng truyền thống và dịch vụ
ngân hàng hiện đại
DVNHTT và DVNHHĐ đều là những sản phẩm dịch vụ tài chính do
ngân hàng cung ứng cho khách hàng của mình, vì vậy chúng đều có đặc
điểm chung sau:
*Thứ nhất: Dịch vụ ngân hàng mang tính vô hình: Do dịch vụ của ngân
hàng không tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể vì vậy khi khách hàng muâ
dịch vụ không thể sờ nắm đựơc vật mình mua. Vì vậy khách hàng thường
gặp khó khăn trong việc đưa ra các quyết định lựa chọn, họ chỉ có thể kiểm
tra và xác định chất lượng sản phẩm dịch vụ trong khi sử dụng. Do đặc tính
vô hình nên trong kinh doanh ngân hàng phải lựa chọn trên cơ sở lòng tin.
Do đó để tăng lòng tin tưởng của khách hàng ngân hàng phải tạo và củng
cố niềm tin đối với khách hàng: cách nâng cao chất lượng dịch vụ cung
ứng, tăng tính hữu hình của sản phẩm, khuyếch trương hình ảnh uy tín tạo
điều kiện để khách hàng tham gia vào hoạt động tuyên tryền cho ngân
hàng
* Thứ 2: Tính không thể tách biệt: Do quá trình cung cấp và quá trình
tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng xảy ra đồng thời, đặc biệt có sự
tham gia trực tiếp của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phảm. Mặt
khác, quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng thường đựoc tiến

hành theo quy trình nhất định không thể chia cắt ra thành các thành phẩm
khác nhau Điều đó làm cho ngân hàng không có sản phẩm dở dang, dự trữ
lưu kho, mà sản phẩm được cung ứng trực tiếp cho người tiêu dùng khi và
chỉ khi khách hàng có nhu cầu. Quá trình cung ứng diễn ra đồng thời với
quá trình sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
* Thứ 3: Tính không ổn định và khó xác định: Sản phẩm dịch vụ ngân
hàng được cấu thành bởi nhiều yếu tố khác nhau như trình độ đội ngũ nhân
viên, kỹ thuật công nghệ và khoa học. Đồng thời sản phẩm dịch vụ ngân
hàng còn được thực hiện ở không gian và thời gian khác nhau nên đã tạo ra
tính không đồng nhất về thời gian, cách thức và điều kiện thực hiện.
Bên cạnh những đặc điểm chung đó, DVNHTT và DVNHHĐ còn được
phân biệt bởi các đặc điểm sau:
DVNHTT DVNHHĐ
Ra đời cùng với sự hình thành và
phát triển của ngân hàng. Ví dụ: Nhận
tiền gửi, cho vay, cung cấp các tìa
khoản giao dịch, bảo quản vật có giá

Là những dịch vụ mới ra đời khi khoa
học công nghệ thông tin bắt đầu phát
triển. Ví dụ: thanh toán điện tử, rút tiền
tự động qua ATM, Internet banking,
dịch vụ ngân hàng tại nhà
-Những dịch vụ này chiếm tỷ trọng
lớn trong hoạt động ngân hàng nên là
những dịch vụ mang lại thu nhập chính
cho ngân hàng.

-Dịch vụ ngân hàng hiện đại chiếm
tỷ trọng nhỏ, chủ yếu là các dịch vụ hỗ

trợ cho hoạt động tín dụng, bổ sung thu
nhập, thu hút thêm khách hàng cho
ngân hàng.

-Dịch vụ cần nhiều lao động, lao
động thủ công là chính


-Dịch vụ ngân hàng hiện đại chứa
đựng hàm lượng công nghệ cao nên đòi
hỏi phải có sự phát triển của công nghệ
thông tin một cách tương ứng. Cần
phải có máy móc thiết bị hiện đại hỗ
trợ.Lao động thủ công giảm bớt
-Hầu hết khách hàng muốn sử dụng
dịch vụ ngân hàng phải đến giao dịch
trực tiếp với ngân hàng.

-Rút ngắn thời gian giao dịch, thu
hẹp khoảng cách không gian, khách
hàng có thể không phải đến ngân hàng.

-Những dịch vụ này mang tính rủi ro
cao, ngân hàng phụ thuộc nhiều vào
khách hàng, nhất là sau khi cho vay.

-Những dịch vụ này đa dạng, phân
tán rủi ro, tăng cưòng khả năng cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường.


-Dịch vụ ngân hàng hiện đại có tính
tập trung hoá cao thể hiện ở việc tập
trung hoá các tài khoản. Để sử dụng
đựơc nhiều dịch vụ ngân hàng khách
hàng chỉ phải mở một tài khoản tại
ngân hàng. Việc tập trung hoá tài
khoản giúp khách hàng sử dụng dịch
vụ ngân hàng hiện đại một cách tiện
lợi, có thể giao dịch tại nhiều địa điểm
khác nhau, giảm thời gian và chi phí
giao dịch.
3. Sự cần thiết phát triển DVNHHĐ của NHTM ở Việt Nam
3.1 Những lợi ích của việc phát triển DVNHHĐ
Như chúng ta đã biết dịch vụ ngân hàng là một dấu hiệu cho thấy trình
độ phát triển của một quốc gia. Do vậy việc phát triển dịch vụ ngân hàng và
đặc biệt trong xu thế quốc tế hoá hiện nay việc phát triển DVNHHĐ có ý
nghĩa cực kỳ to lớn, không những mang lại lợi ích cho ngân hàng mà còn
đem đến lợi ích to lớn cho nền kinh tế và mỗi khách hàng của ngân hàng.
Một là: đối với nền kinh tế và khách hàng:
Thông qua các dịch vụ tài chính mà ngân hàng cung cấp đã thực hiện
quá trình chu chuyển tiền tệ cho nền kinh tế, khai thác và sử dụng các
nghiệp vụ trở nên hiệu quả hơn. Tiền tệ được vận động luân chuyển trong
không gian và thời gian để sinh lời từ đó các khoản tiền nhàn rỗi trong dân
cư trở thành các khoản đầu tư di chuyển từ nơi này đến nơi khác, từ khách
hàng này sang khách hàng khác phục vụ sản xuất kinh doanh đầu tư, nhu
cầu vốn cho nền kinh tế xã hội, kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển
góp phần thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế đất nước.
Dịch vụ tài chính ngân hàng góp phần tích cực trong việc mang lại lợi
ích chung cho nền kinh tế, cho khách hàng và cho ngân hàng. Đặc biệt hiện
nay với sự phát triển của công nghệ thông tin hiện đại và sự phát triển

không ngừng của thương mại điện tử thì việc phát triển các DVNH càng
đem lại nhiều lợi ích to lớn cho nền kinh tế và khách hàng: khách hàng
được cung cấp các tiện ích, tiết kiệm được thời gian và chi phí giao dịch,
kiểm đếm,bảo quản vận chuyển tiền, tiết kiệm nhân lực đặc biệt làm tăng
khối lượng hàng hoá và giá trị giao dịch giữa các quốc gia nhờ sự phát triển
của các DVNH như: thanh toán điện tử, ngân hàng điện tử Qua đó khách
hàng càng có nhiều cơ hội lựa chọn sản phẩm dịch vụ có lợi nhất và hiệu
quả nhất.
Hai là: Đối với ngân hàng:
Hiện nay phần lớn các NHTM Việt Nam hoạt động chủ yếu dựa trện các
nghiệp vụ tín dụng là chính, điều đó khiến cho hoạt động ngân hàng gặp
nhiều rủi ro, bị động phụ thuộc vào khách hàng Với xu hướng ngày nay
việc phát triển dịchvụ ngân hàng hiện đại khiến cho danh mục dịch vụ của
ngân hàng trở nên đa dạng, thu hút được nhiều khách hàng, đem lại cho
ngân hàng một khoản thu lớn từ chi phí dịch vụ và hoa hồng từ đó giúp
cho ngân hàng phân tán đựơc rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
3.2 Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại là một xu thế tất yếu bởi quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hoá cũng như sự tăng giảm
môi truờng cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay
Cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21, kinh tế
Việt Nam có sự chuyển biến sâu sắc, đặc biệt được đánh dấu bởi sự gia
nhập kinh tế khu vực và toàn cầu: đó là việc gia nhập khối ASEAN,
APEC, kí kết hiệp định thương mại Việt Mĩ và sắp tới là tổ chức thương
mại thế giới WTO. Các cam kết trong quá trình hội nhập có ảnh hưởng và
tác động tới mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt
là lĩnh vực tài chính ngân hàng, một lĩnh vực nhạy cảm nhất.
Xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập đòi hỏi
đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ ngân hàng tài chính ngày càng phong phú
hơn, yêu cầu ngân hàng ngày càng phải cung cấp dịch vụ ngân hàng hiện

đại mới có thể đáp ứng được nhu cầu vê tài chính của cá nhân, tổ chức kinh
tế trong và ngoài nước trong quá trình phát triển kinh tế. Mặt khác hiện nay
hầu như ngân hàng nào cũng cung cấp các DVNHTT với những tiện ích
khá giống nhau và sự chênh lệch giá cả là không đáng kể, hơn nữa mức độ
rủi ro ở lĩnh vực DVNHTT là rất cao. Vì vậy để tạo vị thế cạnh tranh trên
thị trường, phân tán rủi ro, tăng thu nhập trong hoàn cảnh hiện nay là rất
khó khăn. Với các DVNHHĐ của mình các ngân hàng có thể tạo ra được
sự khác biệt với đối thủ cạnh tranh từ đó có thể thu hút nhiều khách hàng,
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Hơn nữa cùng với quá trình hội nhập là sự tham gia ngày càng nhiều của
các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài. Trước đối thủ cạnh tranh vừa
mạnh vừa nhiều các ngân hàng thương mại Việt Nam buộc phải xác định
được chỗ đứng của mình đối với mỗi khách hàng bằng việc cung cấp ngày
càng nhiều các sản phẩm ngân hàng hiện đại nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của khách hàng.
Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu càng khiến cho môi
trường cạnh tranh của ngân hàng thương mại thay đổi. Đối thủ cạnh tranh
của mỗi ngân hàng không chỉ là ngân hàng trong nước mà còn các tổ chức
tài chính ngân hàng nước ngoài. Khi các tổ chức ngân hàng tài chính nước
ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam Nam sẽ không sử dụng các
DVNHTT để cạnh tranh với các ngân hàng Việt Nam mà sử dụng các
DVNHHĐ.Vì vậy không khí cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại
càng trở nên gay gắt để có được chỗ đứng trên thị trường. Do đó, để có
đựơc vị thế cạnh tranh trên thị trường không có gì tốt hơn là việc phát triển
các dịch vụ ngân hàng, nhất là các dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Tóm lại từ những lợi ích của việc phát triển dịch vụ ngân hàng đem lại
cho nền kinh tế, khách hàng và chính bản thân ngân hàng cũng như sự thay
đổi môi trường cạnh tranh do quá trình quốc tế hoá đem lại ta có thể thấy
việc phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại là cần thiết và tất yếu. Các
ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải chú trọng đến điều này để có thể

đạt được các mục đích sau khi đưa ra các chính sách phát triển dịch vụ.
Thứ nhất: xác định được vị thế cạnh tranh trên thị trường để xác định
được đâu là đoạn thị trường mình cần tham gia, xác định hình ảnh uy tín
với khách hàng và biết được đâu là đoạn thị trường cần phải từ bỏ nếu đối
thủ cạnh tranh mạnh hơn hẳn mình.
Thứ hai: Cung cấp nhiều tiện ích, thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng.
Thứ ba: Giảm chi phí, tăng doanh thu và thu nhập từ phí dịch vụ và hoa
hồng
Thứ tư: Tăng tiềm lực tài chính quốc gia cho nền kinh tế thông qua việc
đóng góp của ngân hàng vào ngân sách quốc gia (nộp thuế, trích lập các
quỹ tương trợ cho xã hội)
4. Các dịch vụ ngân hàng hiện đại
Căn cứ vào khái niệm , các tiêu chí để phân biệt đâu là DVNHHĐ và
phạm vi nghiên cứu của chuyên đề nên bài viết sẽ tập trung vào các
DVNHHĐ như: Nhóm dịch vụ thanh toán trong nước với các công cụ và
phương thức thanh toán hiện đại; Nhóm dịch vụ ngân hàng điện tử
4.1 Nhóm dịch vụ thanh toán
Thanh toán là một khâu trong quá trình chu chuyển vốn . Thanh toán
nhanh chóng, chính xác, an toàn sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chu
chuyển vốn tăng vòng quay của vốn, giảm lượng tiền cần thiết trong lưu
thông, tiết kiệm chi phí cho xã hội …Xét trên giác độ là khách hàng thì
khách hàng chỉ cần quan tâm đến việc ngân hàng cung cấp những dịch vụ
thanh toán gì? Các công cụ thanh toán nào? Chi phí cho một món thanh
toán cao hay thấp hoặc thời gian thanh toán nhanh hay chậm? Còn xét trên
giác độ là ngân hàng thì ngân hàng không chỉ quan tâm đến các vấn đề trên
mà còn phải quan tâm đến việc sẽ thực hiện thanh toán như thế nào để đạt
được hiệu quả cao nhất.
Do đó khi xem xét các dịch vụ thanh toán hiện đại chúng ta sẽ xem xét
trên cả phương diện là các công cụ thanh toán và các phương thức thanh
toán .Hiện nay một điều dễ nhận thấy là cùng với sự bùng nổ của cách

mạng khoa học kĩ thuật- công nghệ và việc ứng dụng các thành tựu kĩ thuật
hiện đại vào lĩnh vực thanh toán mà giờ đây bên cạnh các công cụ,phương
thức thanh toán truyền thống đã xuất hiện thêm các công cụ và phương
thức mới hiện đại, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tiết kiệm thời gian và chi
phí cho cả khách hàng lẫn ngân hàng
4.1.1 Các công cụ thanh toán
4.1.1.1 Các công cụ thanh toán truyền thống
Đây là các công cụ thanh toán đã ra đời từ rất lâu, việc sử dụng các công
cụ này mang tính chất thủ công là chính, khách hàng khi muốn sử dụng
công cụ thanh toán nào đều phải đảm bảo những điều kiện do ngân hàng
đặt ra, đồng thời phải đến ngân hàng nơi khách hàng mở tài khoản giao
dịch để trực tiếp thực hiện giao dịch với ngân hàng . Các công cụ thanh
toán truyền thống có thể kể đến là:
Thanh toán bằng séc: Là lệnh của chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng trích
một số tiền nhất định trên tài khoản của mình để trả cho người thị hưởng
có tên trên séc hay ngươì cầm tờ séc đó. Séc là hình thức lâu đời và được
sử dụng rất phổ biến
Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi: Là lệnh chi của chủ tài khoản được lập
theo mẫu in sẵn của ngân hàng , yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài
khoản để trả cho người thụ hưởng có tài khoản ở cùng một ngân hàng hay
khác ngân hàng
Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu: Là hình thức mà người bán sau khi giao
hàng hoá dịch vụ cho người mua sẽ xuất trình cho ngân hàng phục vụ mình
những chứng từ được quy định trong hợp đồng để nhờ thu hộ. Căn cứ vào
nội dung các chứng từ gửi đến ngân hàng nhờ thu mà phân thành 2 loại:
nhờ thu phiếu trơn, nhờ thu kèm chứng từ
4.1.1.2 Công cụ thanh toán hiện đại
Một điểm khác biệt của công thanh toán hiện đại so với các công cụ
thanh toán truyền thống là các công cụ thanh toán này dựa trên trình độ
công nghệ hiện đại, để sử dụng được cần phải có các thiết bị điện tử hỗ trợ,

các thông tin đều phải được mã hoá.
Điển hình phải kể đến thẻ thanh toán :
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán
cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ,các khoản thanh toán
khác và rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý hay các quầy trả tiền tự động
Đây là một phương tiện hiện đại vì nó gắn với kĩ thuật tin học hiện đại
ứng dụng trong lĩnh vực ngân hàng. Nhờ sự phát triển của công nghệ tin
học mà các loại thẻ từ và thẻ điện tử ra đời:
Thẻ từ: là loại thẻ dùng kĩ thuật băng từ để ghi và đọc thông tin trên thẻ
Thẻ điện tử: là thẻ có gắn bộ nhớ vi điện tử trên thẻ, ghi và đọc thông
tin qua bộ nhớ vi điện tử
Thẻ thanh toán được trình bày dưới dạng “thẻ nhựa”. Các dữ liệu về
khách hàng đều được mã hoá, do vậy để có thể sử dụng được thẻ và thực
hiện được các giao dịch ngân hàng phải trang bị các loại máy điện tử như:
Máy rút tiền tự động( ATM), máy kiểm tra thẻ…
Căn cứ theo nguồn vốn để thanh toán có 3 loại thẻ:
*) Thẻ thanh toán không phải kí quỹ thanh toán
Người sử dụng thẻ không phải trích từ tài khoản tiền gửi hay nộp tiền
mặt để kí gửi vào tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán thẻ. Giữa ngân
hàng và người sử dụng thẻ thoả thuận với nhau để xây dựng hạn mức của
thẻ. Loại thẻ này được áp dụng cho những khách hàng có quan hệ tín dụng,
thanh toán tốt và thường xuyên có tín nhiệm với ngân hàng
*) Thẻ kí quỹ thanh toán: Là loại thẻ áp dụng rộng rãi cho khách hàng .
Khách hàng phải kí gửi tiền vào một tài khoản riêng tại ngân hàng và được
sử dụng thẻ có giá trị thanh toán bằng số tiền kí quỹ ghi trong thẻ đã lưu
ký.
*) Thẻ tín dụng: Là loại thẻ vừa được dùng để thanh toán vừa cho vay
trong phạm vi giới hạn thoả thuận giữa bên phát hành thẻ và bên sử dụng
thẻ. Đây là hình thức thanh toán hiện đại, thể hiện sự phát triển của 1 nền
khoa học tiên tiến. Vì vậy các loại thẻ phải được kí hiệu mật mã cẩn thận

và khi thanh toán cũng đòi hỏi kiểm tra mật mã và quy định về an toàn kĩ
thuật của ngân hàng
Hiện nay ở Việt Nam đáng chú ý là thẻ ATM, một loại thẻ được sử dụng
để rút tiền tự động và thực hiện một số giao dịch khác tại các máy ATM.
Trên thẻ có ghi tên khách hàng, số hiệu thẻ và một bộ nhớ vi điện tử.
Khách hàng được cung cấp một số PIN riêng. Đây là một công cụ thanh
toán hiện đại đem lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng và ngân hàng
Sử dụng các loại thẻ trong thanh toán vừa tiết giảm chi phí, công sức
thời gian cho người bán, người mua, giảm được tỉ lệ thanh toán bằng tiền
mặt trong dân cư, đồng thời nó cũng đòi hỏi công nghệ ngân hàng phải
luôn hoàn thiện, trình độ quản lý cao hơn và phức tạp hơn cũng như quản
lý phải chặt chẽ linh hoạt vừa đảm bảo cho ngân hàng vừa đảm bảo cho
khách hàng.
4.1.2. Các phương thức thanh toán
Cùng với sự ra đời của các công cụ thanh toán và trình độ phát triển
công nghệ tin học hiện đại mà các phương thức thanh toán cũng ngày càng
trở nên hiện đại và hoàn thiện hơn, làm tăng quy mô thanh toán và phạm vi
thanh toán giữa các ngân hàng
Tuỳ theo trình độ phát triển và đặc điểm tổ chức của các ngân hàng trong
từng thời kỳ mà người tăng quy định và thực hiện các phương thức thanh
toán khác nhau. Hiện nay có các phương thức sau:
1) Thanh toán liên hàng tại các ngân hàng thương mại
2) Thanh toán bù trừ
3) Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nuớc
4) Hai chi nhánh mở tài khoản tiền gửi cho nhau để thanh toán
5) Phương thức thanh toán uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ giữa 2 ngân hàng
6) Thanh toán điện tử liên ngân hàng
Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết sẽ tập trung vào phương thức 1),
6) bởi lẽ đây là những phương thức rõ nét nhất thể hiện sự tiến bộ trong
lĩnh vực thanh toán của ngân hàng . Nhờ đó ngân hàng ngày càng cung cấp

cho khách hàng nhiều dịch vụ thanh toán và các DVNHHĐ khác trên cơ sở
ứng dụng những tiến bộ của công nghệ tin học trong lĩnh vực thanh toán;
qua đó tăng tốc độ , quy mô thanh toán;giảm thiểu chi phí, thời gian ; tăng
tỉ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư…
a) Thanh toán liên hàng tại các ngân hàng thương mại( TTLH)
Là phương thức thanh toán vốn giữa các chi nhánh ngân hàng trong cùng
hệ thống. Thực chất của TTLH là việc chuyển tiền từ ngân hàng này đến
ngân hàng kia để phục vụ thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ khi cả hai khách
hàng này không cùng mở tài khoản ở một ngân hàng, hoặc chuyển cấp vốn,
điều hoà vốn trong nội bộ một hệ thống ngân hàng
Tham gia vào quá trình TTLH gồm toàn bộ các đơn vị ngân hàng được
NHTMTW hoặc ngân hàng tỉnh chỉ định. Mỗi đơn vị này được coi là một
đơn vị liên hàng có tên riêng và được kí hiệu bằng một số hiệu riêng
TTLH gồm hai nghiệp vụ cơ bản: liên hàng đi và liên hàng đến. liên
hàng đi là khâu mở đầu phát sinh nghiệp vụ thanh toán do ngân hàng khởi
tạo thực hiện( ngân hàng A) ; liên hàng đến là khâu kết thúc nghiệp vụ
thanh toán do ngân hàng thực hiện nghiệp vụ thực hiện( ngân hàng B)
Việc kiểm soát đối chiếu liên hàng của NHTMTW theo phương pháp: tổ
chức kiểm soát tập trung đối chiếu phân tán . Tức là ngân hàng A chuyển 1
liên giấy báo liên hàng cho ngân hàng B đồng thời ngân hàng A chuyển 1
liên giấy báo liên hàng cho trung tâm kiểm soát, lập sổ đối chiếu và trung
tâm kiểm soát đối chiếu gửi sổ đối chiếu cho ngân hàng B
Do sự phát triển của kĩ thuật công nghệ tin học ngày càng hiện đại nên
phương thức thanh toán liên hàng truyền thống đã được phát triển thành
thanh toán liên hàng điện tử. Đây là phương thức mới ở Việt Nam đang
được một số ngân hàng thực hiện như: Ngân hàng Ngoại thương, Ngân
hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và phát triển( ở NHĐT&PT gọi là
thanh toán tập trung)…Thanh toán liên hàng điện tử đáp ứng yêu cầu thanh
toán nhanh giữa các Ngân hàng trong cùng hệ thống ở các địa phương khác
nhau

Thanh toán liên hàng điện tử khác so với thanh toán liên hàng truyền
thống ở chỗ:
+ Về tài khoản sử dụng: ở thanh toán liên hàng truyền thống mở nhiều
tài khoản dùng trong thanh toán , nhưng ở thanh toán liên hàng điện tử chỉ
mở một tài khoản hạch toán cả bảng kê đi và bảng kê đến
+ Về phương thức kiểm soát đối chiếu: Liên hàng truyền thống thực hiện
kiểm soát tập trung đối chiếu phân tán, phản ánh và thực hiện quyết toán
liên hàng hàng năm. Còn ở thanh toán liên hàng điện tử như thanh toán tập
trung ở ngân hàng ĐT&PT thì tổ chức kiểm soát tập trung, đối chiếu tập
trung và đối chiếu đúng tất cả các bảng kê đi và đến trong ngày
Thanh toán tập trung qua ngân hàng trung ương thực chất là chuyển tiền
điện tử qua tài khoản tiền gửi của chi nhánh tại trung tâm thanh toán. Trình
tự thủ tục hạch toán kế toán trong thanh toán điện tử giao dịch qua mạng vi
tính. Các chi nhánh tham gia thanh toán phải mở tài khoản tiền gửi tại trung
ương để phản ánh các khỏn chuyển tiền đi và nhận đến qua thanh toán
Chứng từ gốc làm căn cứ để chuyển đổi sang chứng từ điện tử như uỷ
nhiệm chi, uỷ nhiệm thu được lưu lại ngân hàng gửi lệnh. Chứng từ hạch
toán trong thanh toán tập trung được lập bằng máy theo mẫu thống nhất
phải có đủ 2 điều kiện là có tính kí hiệu mật hoặc kiểm tra ký hiệu mật và
được mã hoá hoặc giải mã qua đường truyền.
Muốn thực hiện được thanh toán điện tử đòi hỏi chi nhánh tham gia phải
có đầy đủ các điều kiện về kỹ thuật nghiệp vụ như mạng máy vi tính cục
bộ, điện dự phòng, khả năng truyền thông, cán bộ kĩ thuật, cán bộ nghiệp
vụ thì qua trình thanh toán mới được thực hiện
Phương thức này có nhiều ưu điểm là nhanh chóng chính xác, tài khoản
hạch toán giản đơn, quy trình thanh toán chặt chẽ . Mọi khoản chuyển tiền
được thực hiện và đối chiếu ngay trong ngày nên hạn chế tối đa những sai
sót xảy ra
b) Thanh toán điện tử liên ngân hàng( TTĐTLNH)
Ngày 1/4/1997 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 196/TTg về việc cho

phép ngân hàng và các tổ chức tín dụng được sử dụng dữ liệu thông tin trên
vật mang tin để làm chứng từ kế toán
Ngày 22/10/1997 Thống đốc Ngân hàng Nhà nuớc đã ban hành Quyết
định số 353/1997/QĐ NHNN về quy chế chuyển tiền điện tử
Ngày 21/3/2002 Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số
44/2002/qđ- TTg cho phép các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được
sử dụng chứng từ làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn
Chứng từ điện tử là những chứng từ kế toán mà các yếu tố của nó được
thực hiện dưới dạng dữ liệu điện tử đã được mã hoá mà không có sự thay
đổi trong quá trình truyền qua mạng máy tính hoặc trên vật mang tin như
băng từ, đĩa từ, các loại thẻ thanh toán. chứng từ điện tử phải có đủ các yếu
tố quy định cho chứng từ kế toán, đảm bảo tính pháp lý của chứng từ kế
toán, phải được mã hoá bảo đảm an toàn trong qua trình xử lý truyền tin và
lưu trữ. Trên chứng từ phải có đủ các chữ ký điện tử của những người có
liên quan theo quy định
Từ cơ sở pháp lý trên hệ thống chuyển tiền điện tử ra đời và đến
2/05/2002 hệ thống “Thanh toán điện tử liên ngân hàng” chính thức đi vào
hoạt động đưa lĩnh vực dịch vụ của ngân hàng sang một bước phát triển mới
Đây là hệ thống hiện đại được thiết kế theo chuẩn mực quốc tế, là hệ
thống tổng thể bao gồm 2 phân hệ:
+ Hệ thống TTĐTLNH : Hệ thống này xử lý thanh toán những khoản
thuộc luồng có giá trị cao ( là những khoản có giá trị từ 500 triệu đồng trở
lên và những lệnh chuyển tiền khẩn). Lệnh thanh toán thuộc luồng giá trị
cao được thực hiện quyết toán tổng tức thời tại Trung tâm thanh toán quốc
gia. Sau khi người phê duyệt thực hiển duyệt lệnh , nếu tài khoản tại Trung
tâm thanh toán quốc gia đủ số dư, hệ thống sẽ tự động xử lý và hạch toán
ghi Nợ TK đơn vị trả đồng thời ghi Có TK đơn vị nhận. Việc thực hiện
hạch toán rất nhanh chóng chính xác trong khoảng 10 giây. Nếu lệnh thanh
toán quá số dư sẽ được thực hiện thấu chi theo quy định của Thống đốc
+ Hệ thống TTBT điện tử liên ngân hàng : Đây là hệ thống xử lý các

luồng thanh toán giá trị thấp( dưới 500 triệu đồng và lệnh thanh toán
thường) và được thực hiện theo phương thức quyết toán bù trừ theo
phiên.Mỗi đơn vị thanh toán phải có đủ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh
toán hoặc phải đảm bảo hạn mức nợ ròng theo quy định của Ngân hàng
Nhà nuớc . Những lệnh thanh toán có đủ số dư hoặc đủ hạn mức nợ ròng
được thực hiện và chuyển ngay cho đơn vị thụ hưởng. Việc quyết toán vốn
giữa các ngân hàng thành viên không diễn ra đồng thời cùng lúc lệnh thanh
toán, mà nó được thực hiện vào những thời điểm nhất định bằng phương
thức bù trừ để tổng hợp số phải thu hoặc phải trả cho từng thành viên. Kết
quả bù trừ sẽ được hạch toán vào tài khoản tiền gửi thanh toán của các
thành viên tương ứng mở tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nuớc
Như vậy với sự ra đời của TTĐTLNH thời gian thanh toán được rút ngắn
gấp trăm lần so với thanh toán thủ công. Về phía khách hàng được hưởng
rất nhiều lợi ích từ dịch vụ này, trong đó có phí dịch vụ thanh toán .Tuy
nhiên để cung cấp cho khách hàng nhiều tiện ích hơn nữa từ dịch vụ thanh
toán thì vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra đối với ngành ngân hàng và các
ngành hữu quan cần giải quyết: đầu tư cơ sở vật chất đồng bộ, hoàn thiện
cơ chế chính sách trong thanh toán ….
4.2 Nhóm dịch vụ ngân hàng điện tử( DVNHĐT)
Ngân hàng điện tử được hiểu là mô hình cho phép khách hàng truy cập
từ xa đến ngân hàng nhằm thu thập thông tin; thực hiện các giao dịch thanh
toán, sử dụng các dịch vụ dựa trên các tài khoản lưu kí tại ngân hàng thông
qua các phương tiện điện tử và kĩ thuật số. Ngân hàng điện tử là dịch vụ
ngân hàng dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào tổ
chức cung ứng dịch vụ ngân hàng . Cơ chế hoạt động của ngân hàng điện
tử mang tính độc lập . ở Việt Nam hiện nay các dịch vụ ngân hàng điện tử
mới xuất hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm, tuy nhiên cũng đã có một
số những kết quả nhất định, cho thấy xu hướng phát triển rộng rãi dịch vụ
ngân hàng điện tử trong tương lai. Có thể kể đến 1 số dịch vụ ngân hàng
điện tử sau:

4.2.1 DVNHĐT qua hệ thống máy rút tiền tự động( ATM- Automatic
Teller Machine)
Đối với các nước phát triển đây không còn là dịch vụ mới nhưng ở Việt
Nam dịch vụ này vẫn còn rất xa lạ với công chúng. Có thể hiểu dịch vụ
ATM là các dịch vụ ngân hàng cá nhân mà ngân hàng cung cấp cho khách
hàng thông qua thẻ ATM tại các máy rút tiền tự động ATM. Khi sử dụng dịch
vụ này khách hàng sẽ tự thực hiện các giao dịch ngân hàng tại máy ATM.
Các ngân hàng khi cung cấp dịch vụ này đòi hỏi phải có sự đầu tư trang
thiết bị kĩ thuật hiện đại: đó là hệ thống máy, hệ thống mạng cục bộ tốc độ
cao, từ đó cung cấp cho khách hàng các tiện ích như:
- Phát hành nhanh, phát hành thông thường
- Phát hành các loại thẻ với những phí và hạn mức giao dịch rút tiền từ
ATM khác nhau
- Vấn tin, in sao kê tài khoản tiền gửi
- Rút tiền mặt, chuyển khoản, chuyển tiền cá nhân, nộp tiền vào tài khoản
- Xem thông tin ngân hàng , thanh toán hoá đơn
- Yêu cầu in sao kê tài khoản , yêu cầu phát hành séc
Ưu, nhược điểm khi sử dụng dịch vụ ATM như sau:

×