BÙI ĐẶNG BĂNG CHÂU BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ BUỘC NỘP LẠI SỐ LỢI BẤT HỢP PHÁP…
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***------------
BÙI ĐẶNG BĂNG CHÂU
MSSV: 1753801014016
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ BUỘC NỘP LẠI
SỐ LỢI BẤT HỢP PHÁP CÓ ĐƯỢC DO THỰC HIỆN
VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2017 - 2021
Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Nhật Khanh
2021
TP.HCM – Năm 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***------------
BÙI ĐẶNG BĂNG CHÂU
MSSV: 1753801014016
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ BUỘC NỘP LẠI
SỐ LỢI BẤT HỢP PHÁP CÓ ĐƯỢC DO THỰC HIỆN
VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2017 - 2021
Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Nhật Khanh
TP.HCM – Năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Biện pháp khắc phục hậu
quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính”
là cơng trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
ThS. Nguyễn Nhật Khanh. Khóa luận đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy
định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm
về lời cam đoan này.
Tác giả
Bùi Đặng Băng Châu
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài....................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu.......................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 6
4. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu..................................................................... 7
4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 7
4.2. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................... 7
4.2.1. Mục tiêu tổng quát.................................................................................. 7
4.2.2. Mục tiêu cụ thể........................................................................................ 7
5. Phạm vi nghiên cứu............................................................................................. 7
6. Ý nghĩa khoa học của khóa luận........................................................................ 8
7. Kết cấu của khóa luận......................................................................................... 8
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BIỆN PHÁP
KHẮC PHỤC HẬU QUẢ BUỘC NỘP LẠI SỐ LỢI BẤT HỢP PHÁP CĨ
ĐƯỢC DO THỰC HIỆN VI PHẠM HÀNH CHÍNH...................................................... 9
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp
lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính............................9
1.1.1 Khái niệm biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính......................................................... 9
1.1.2 Đặc điểm của biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính............................................. 11
1.1.3 Ý nghĩa của biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính....................................................... 13
1.2 Các quy định của pháp luật về biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại
số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính................................ 14
1.2.1 Nguyên tắc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi
bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính..................................... 14
1.2.2 Xác định số lợi bất hợp pháp khi áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả................................................................................................................................................... 17
1.2.3 Thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính.............................. 18
1.2.4 Thời hiệu áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi
bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính..................................... 23
1.2.5 Thủ tục áp dụng và thi hành quyết định áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm
hành chính................................................................................................................................... 24
1.2.6 Cưỡng chế thi hành biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi
bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính..................................... 27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...................................................................................... 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ BUỘC NỘP LẠI SỐ LỢI BẤT HỢP
PHÁP CÓ ĐƯỢC DO THỰC HIỆN VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ KIẾN
NGHỊ HỒN THIỆN.................................................................................................................... 32
2.1 Thực trạng pháp luật về biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi
bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính và kiến nghị hồn
thiện........................................................................................................................................................ 32
2.1.1 Những điểm tích cực trong quy định pháp luật về biện pháp khắc
phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi
phạm hành................................................................................................................................... 32
2.1.2 Một số điểm hạn chế trong quy định pháp luật về biện pháp khắc
phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi
phạm hành chính và kiến nghị hoàn thiện.................................................................. 33
2.2 Thực trạng áp dụng pháp luật về biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp
lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính và kiến nghị
hồn thiện............................................................................................................................................ 47
2.2.1 Những điểm tích cực trong việc áp dụng pháp luật về biện pháp khắc
phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi
phạm hành chính...................................................................................................................... 47
2.2.2 Một số hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về biện pháp khắc phục
hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm
hành chính và kiến nghị hồn thiện................................................................................ 48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...................................................................................... 57
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................ 59
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước, tuy có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp
hơn so với tội phạm nhưng vi phạm hành chính xảy ra phổ biến ở rất nhiều lĩnh vực
khác nhau. Vi phạm hành chính làm phá vỡ trật tự xã hội đã được Nhà nước thiết
lập, xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân,
tổ chức, Nhà nước và xã hội. Để đấu tranh với vi phạm hành chính, Nhà nước đã
ban hành các văn bản pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành chính, đây được
xem là một giải pháp hữu hiệu mang tính răn đe và giáo dục những đối tượng vi
phạm, góp phần đấu tranh, ngăn chặn chủ thể thực hiện vi phạm hành chính. Vi
phạm hành chính ngồi xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước còn để lại những
hậu quả nhất định nên việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả bên cạnh áp
dụng các hình thức xử phạt sẽ góp phần giải quyết triệt để vi phạm, điều này phù
hợp với nguyên tắc “Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp
thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải
được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật” được quy định tại điểm a khoản
1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
Hiện nay, các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại khoản 1 Điều
28 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) bao gồm:
a) Buộc khơi phục lại tình trạng ban đầu;
b) Buộc tháo dỡ cơng trình, phần cơng trình xây dựng khơng có giấy phép
hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;
c) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ơ nhiễm mơi trường, lây
lan dịch bệnh;
d) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc
tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện;
đ) Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật
ni, cây trồng và mơi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại;
e) Buộc cải chính thơng tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn;
g) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hố, bao bì hàng hóa, phương tiện
kinh doanh, vật phẩm;
h) Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa khơng bảo đảm chất lượng;
i) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính
hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã
bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật;
2
k) Các biện pháp khắc phục hậu quả khác do Chính phủ quy định.
Trong số các biện pháp khắc phục hậu quả nói trên, “Buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính” là một biện pháp khắc phục
hậu quả đặc biệt lần đầu tiên được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Sự ra đời của biện pháp này tạo điều kiện
thuận lợi cho các chủ thể có thẩm quyền có thêm lựa chọn trong q trình xử phạt vi
phạm hành chính, nhất là trong bối cảnh các vi phạm hành chính diễn ra trong các
lĩnh vực ngày càng đa dạng và gây ra những thiệt hại nhất định 1. Tuy nhiên, nghiên
cứu các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này,
tác giả nhận thấy tồn tại những vướng mắc cần khắc phục như:
(i) Một số Nghị định của Chính phủ quy định khơng chính xác về tên gọi của
biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện
vi phạm hành chính;
(ii) Tồn tại Nghị định quy định về số lợi bất hợp pháp chưa phù hợp với quy
định về tài sản trong pháp luật dân sự;
(iii) Pháp luật hiện hành vẫn có sự nhầm lẫn giữa biện pháp buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính với hình thức xử phạt;
(iv) Bất cập về thẩm quyền áp dụng biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính;
(v) Một số lĩnh vực chưa có quy định về cách xác định số lợi bất hợp pháp có
được từ vi phạm hành chính;
(vi) Hạn chế trong kỹ thuật lập quy về biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính;
(vii) Việc áp dụng biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do
thực hiện vi phạm hành chính trong thực tiễn xử phạt vẫn còn tồn tại thiếu sót, chưa
thật sự nghiêm minh.
Do vậy, việc nghiên cứu về biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi
bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính từ góc độ lý luận, pháp lý
đến thực tiễn áp dụng là hết sức cấp thiết. Xuất phát từ lý do trên, tác giả lựa chọn
đề tài “Biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do
thực hiện vi phạm hành chính” làm Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua sự tìm hiểu của mình, tác giả nhận thấy đề tài này có một số nghiên cứu
liên quan của các tác giả sau:
1 Nguyễn Nhật Khanh (2018), “Biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do
thực hiện vi phạm hành chính”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 7.
3
Giáo trình “Luật Hành chính Việt Nam” của Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh do tác giả Nguyễn Cảnh Hợp làm chủ biên, Nxb. Hồng Đức năm
2017. Giáo trình cung cấp một kiến thức cơ bản về xử phạt vi phạm hành chính,
trong đó có giới thiệu về việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử
phạt vi phạm hành chính… Tuy nhiên, do được viết dưới hình thức giáo trình nên
cơng trình này chỉ giới thiệu các kiến thức cơ bản về các biện pháp khắc phục hậu
quả nói chung, chưa có sự phân tích chuyên sâu về biện pháp buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính. Trên cơ sở đó, tác giả tiếp thu
những kiến thức cơ bản về các biện pháp khắc phục hậu quả để củng cố và mở rộng
thêm những vấn đề có liên quan đến biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
được do thực hiện vi phạm hành chính.
Sách chun khảo “Bình luận khoa học Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012” do tác giả Nguyễn Cảnh Hợp làm chủ biên, Nxb. Hồng Đức năm 2017. Nội
dung cuốn sách đã bình luận chuyên sâu về các điều khoản của Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012, trong đó nội dung về biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp
lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính được các tác giả
phân tích ở phần bình luận Điều 28, Điều 37. Tuy nhiên, do chỉ dừng lại ở việc bình
luận các điều khoản của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 nên nội dung
cơng trình chưa có sự phân tích tồn diện các quy định pháp luật liên quan đến biện
pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi
phạm hành chính. Tuy nhiên, các nội dung bình luận trong cơng trình này được tác
giả tiếp thu để phân tích, bình luận các vấn đề pháp lý liên quan đến biện pháp được
nghiên cứu trong Khóa luận.
Sách chuyên khảo “Một số biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi
phạm hành chính - Thực trạng và hướng hoàn thiện” do tác giả Cao Vũ Minh làm
chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2019. Nội dung cuốn sách nghiên cứu quy
định và thực trạng áp dụng một số biện pháp khắc phục hậu quả trong đó có biện
pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi
phạm hành chính. Tuy nhiên, các tác giả nghiên cứu một cách bao quát nhiều biện
pháp khắc phục hậu quả nên chưa chuyên sâu về biện pháp buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính. Ngồi ra, một số quy định về
biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành
chính được các tác giả nghiên cứu đã được sửa đổi, bổ sung. Nghiên cứu tác phẩm,
tác giả tiếp thu những khía cạnh, góc nhìn của những nội dung liên quan đến biện
pháp được nghiên cứu trong Khóa luận.
4
Bên cạnh giáo trình và các sách chuyên khảo nêu trên, tác giả cũng đã tiếp
cận được khá nhiều bài tạp chí chuyên ngành nghiên cứu liên quan đến các biện
pháp khắc phục hậu quả nói chung và biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
được do thực hiện vi phạm hành chính nói riêng.
Bài viết “Biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính”
của tác giả Quách Tiên Phong đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 8 năm
2007 và bài viết “Bất cập của các quy định về biện pháp khắc phục hậu quả trong
xử lý vi phạm hành chính” của tác giả Trương Khánh Hồn đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 30-31 năm 2008. Các bài viết này nghiên cứu về các biện
pháp khắc phục hậu quả trong Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Tuy
nhiên, thời điểm các cơng trình này được cơng bố thì biện pháp buộc nộp lại số lợi
bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính chưa được pháp luật quy
định. Do đó, tác giả tiếp thu các nội dung nghiên cứu để so sánh về sự phát triển của
các biện pháp khắc phục hậu quả qua các thời kỳ để liên hệ đến sự ghi nhận của
biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành
chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Bài viết “Về biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính”
của tác giả Cao Vũ Minh và Nguyễn Nhật Khanh đăng trên Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 6 năm 2017. Bài viết đã đưa ra khái niệm và đặc điểm của các biện pháp
khắc phục hậu quả, bên cạnh đó có sự phân tích bất cập trong các quy định của pháp
luật về các biện pháp khắc phục hậu quả, trong đó có mục phân tích một số bất cập
của biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành
chính. Trên cơ sở đó, tác giả tiếp thu những nội dung phù hợp của bài viết này để
phân tích, làm sáng tỏ các nội dung liên quan đến biện pháp buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính trong Khóa luận.
Bài viết “Biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
được do thực hiện vi phạm hành chính” của tác giả Nguyễn Nhật Khanh đăng trên
Tạp chí Khoa học pháp lý số 7 năm 2018. Ở bài viết trên tác giả tìm hiểu khái quát
và nêu ra một số bất cập cũng như kiến nghị hoàn thiện về biện pháp khắc phục hậu
quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính. Tuy
nhiên, nội dung bài viết chỉ nghiên cứu ở góc độ hồn thiện pháp luật chứ chưa trình
bày một cách hồn chỉnh từ lý luận, pháp luật đến thực trạng áp dụng về biện pháp
khắc phục hậu quả này.
Bài viết “Nhận diện tính hợp pháp và tính hợp lý của các biện pháp khắc
phục hậu quả trong nghị định của Chính phủ” của tác giả Cao Vũ Minh đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17 năm 2018. Bài viết nêu lên một số biện pháp
5
khắc phục hậu quả trong các Nghị định của Chính phủ là chưa hợp pháp và hợp lý.
Tuy không trực tiếp nghiên cứu biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính nhưng từ cách nhận diện tác giả
có thể học hỏi và áp dụng vào biện pháp đang nghiên cứu.
Bài viết “Hoàn thiện quy định về biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế” của tác giả Nguyễn Nhật Khanh đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6 năm 2019. Trong bài viết trên tác giả có chỉ ra
một số hạn chế khi áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Tuy nhiên, bài
viết này nghiên cứu Nghị định số 176/2013/NĐ-CP đã hết hiệu lực thi hành, hiện
nay Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2020/NĐ-CP để quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế. Trên cơ sở tiếp thu những nội dung có giá
trị của bài viết, tác giả sẽ kham khảo để có thêm dẫn chứng trong Khóa luận này.
Bài viết “Hồn thiện các biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi
phạm hành chính về lao động” của tác giả Cao Vũ Minh và Nguyễn Tú Anh đăng
trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 9 năm 2019. Bài viết nêu ra một số bất cập liên
quan đến biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực lao động liên quan đến Nghị
định số 95/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 88/2015/NĐ-CP) và đề
xuất hướng giải quyết. Tác giả tiếp thu những nội dung hợp lý của bài viết để phân
tích các nội dung có liên quan trong Khóa luận.
Bài viết “Kỹ năng áp dụng hình thức xử phạt đối với hành vi vi phạm hành
chính và biện pháp khắc phục hậu quả” của tác giả Nguyễn Hồng Việt đăng trên
Tạp chí Thanh tra số 3 năm 2019. Bài viết nêu lên một số kỹ năng cần thiết để có
thể quyết định áp dụng hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đúng và
đầy đủ. Tác giả nghiên cứu và chọn lọc áp dụng cho phù hợp với biện pháp khắc
phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành
chính mà Khóa luận đang đề cập.
Bài viết “Biện pháp khắc phục hậu quả trong pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính về đất đai - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Nguyễn
Nhật Khanh đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9 năm 2019. Trong bài viết
có nêu lên những bất cập liên quan đến thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả và hướng dẫn thi hành biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp và đưa ra kiến nghị hoàn thiện. Tuy nhiên, bài viết áp dụng Nghị định số
102/2014/NĐ-CP nhưng hiện Nghị định này đã được thay thế bởi Nghị định số
91/2019/NĐ-CP nên có một số nội dung đã được sửa đổi, bổ sung. Tuy nhiên, tác
giả có thể dựa vào những vấn đề trong bài viết để nghiên cứu đề tài Khóa luận.
6
Bài viết “Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Nhật Khanh và Trần Quốc Minh đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 17 năm 2020. Trong phần “Một số vấn đề pháp lý
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự cần tiếp tục hồn
thiện” tác giả có nêu lên bất cập liên quan đến việc xác định số lợi bất hợp pháp khi
áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do
thực hiện vi phạm hành chính và có đề xuất giải pháp khắc phục. Trên cơ sở đó, tác
giả tiếp thu các nội dung phù hợp của bài viết để làm rõ các nội dung của Khóa luận.
Các cơng trình đã phân tích ở trên đã có những nghiên cứu liên quan đến biện
pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện
vi phạm hành chính, tuy nhiên cho đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu
một cách toàn diện các vấn đề từ lý luận, pháp lý đến thực trạng pháp luật và áp
dụng pháp luật về biện pháp này. Qua đó, có thể thấy rằng Khóa luận “Biện pháp
khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi
phạm hành chính” đáp ứng được yêu cầu về tính mới và tính thực tiễn.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau: Phương pháp phân tích; phương pháp so sánh; phương pháp tổng
hợp, thống kê. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích các vấn đề lý luận cũng
như quy định của pháp luật liên quan đến biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại
số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính, phương pháp này cịn
được sử dụng để phân tích các vấn đề pháp lý có liên quan từ thực tiễn áp dụng biện
pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để nghiên cứu đánh giá các quy định
về các biện pháp khắc phục hậu quả trong pháp luật xử phạt vi phạm hành chính qua
các thời kỳ để nhìn nhận sự thay đổi của pháp luật về biện pháp này. Ngồi ra,
phương pháp này cịn giúp tác giả so sánh quy định của các văn bản pháp luật trong
các lĩnh vực có quy định về biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính để tìm ra những điểm khác biệt,
chưa thống nhất để đề xuất kiến nghị hoàn thiện.
- Phương pháp tổng hợp, thống kê được sử dụng để thu thập các văn bản quy
phạm pháp luật về biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện
vi phạm hành chính cũng như các báo cáo thực tiễn, quyết định xử phạt vi phạm
7
hành chính liên quan đến biện pháp này để đưa ra đánh giá tổng qt và chi tiết góp
phần nhìn nhận vấn đề nghiên cứu chính xác hơn.
4. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng về biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc nộp lại số lợi
bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính”.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu
4.2.1 Mục tiêu tổng quát
Tác giả chọn thực hiện đề tài “Biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính” nhằm nghiên cứu một
số vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả nói trên. Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá, chỉ ra những thiếu sót và đề xuất
các giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về “Biện
pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi
phạm hành chính” để có sự thống nhất giữa các quy định pháp luật, tạo điều kiện
thuận lợi để các chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này
một cách thuận lợi và hiệu quả trong thực tế.
4.2.2 Mục tiêu cụ thể
Tác giả chọn thực hiện đề tài “Biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính” với mong muốn đạt
được những mục tiêu sau:
- Đi sâu vào tìm hiểu những quy định của pháp luật về biện pháp trên và chỉ
ra những hạn chế.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện pháp này để làm sáng tỏ các hạn chế, bất
cập, đồng thời chỉ ra nguyên nhân của các hạn chế, bất cập đó.
- Đưa ra những giải pháp khả thi nhằm khắc phục những bất cập trong quy
định của pháp luật để việc áp dụng biện pháp này được hiệu quả và khả thi.
5. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về biện pháp khắc
phục hậu quả “Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành
chính” tập trung chủ yếu giai đoạn từ năm 2012 đến nay vì khi Luật Xử lý vi phạm
hành chính 2012 được ban hành đánh dấu cột mốc pháp luật Việt Nam ghi nhận
biện pháp khắc phục hậu quả trên. Đồng thời, Khóa luận nghiên cứu tình hình áp
dụng thực tế của biện pháp trên vào việc xử phạt các vi phạm hành chính trên lãnh
thổ Việt Nam để tìm ra những hạn chế và đề xuất các giải pháp phù hợp.
8
6. Ý nghĩa khoa học của khóa luận
Tác giả chọn đề tài “Biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính” để nghiên cứu những vấn đề
bất cập của quy định pháp luật về biện pháp trên và những vướng mắc khi áp dụng
biện pháp trên vào thực tế. Dựa trên nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn, đúc kết kinh
nghiệm của các tác giả trước đó để đưa ra những giải pháp mang tính mới, tính khả
thi cao nhằm giải quyết những bất cập, vướng mắc đã được nghiên cứu.
- Về mặt lý luận: Khóa luận có tính mới và tính ứng dụng cao, có thể đưa ra
những giải pháp đáp ứng tính ứng dụng vào thực tế. Ngồi ra, đề tài cịn là một
nguồn tham khảo cho sinh viên, nghiên cứu, mở rộng chủ đề này.
- Về mặt pháp luật: những kiến nghị của Khóa luận mong muốn đem lại kết
quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật để làm rõ các nội dung về
biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành
chính, qua đó tạo ra cách hiểu và áp dụng pháp luật thống nhất.
- Về thực tiễn áp dụng: những kiến nghị của Khóa luận sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng biện pháp trên của chủ thể có thẩm quyền, góp phần khắc phục
hậu quả do vi phạm hành chính gây ra.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có
hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về biện pháp khắc phục hậu quả
buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về biện pháp khắc
phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành
chính và kiến nghị hoàn thiện.
9
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
HẬU QUẢ BUỘC NỘP LẠI SỐ LỢI BẤT HỢP PHÁP CÓ ĐƯỢC
DO THỰC HIỆN VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của biện pháp khắc phục hậu quả buộc
nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính
1.1.1 Khái niệm biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính
Khái niệm biện pháp khắc phục hậu quả
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, vì thế mọi chủ thể trong xã hội đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh
thực hiện pháp luật. Tuy nhiên trong xã hội luôn tồn tại những hành vi trái pháp luật
dẫn đến vi phạm pháp luật. Nhằm mục đích giáo dục, răn đe để những hành vi trái
pháp luật không xảy ra thì việc xây dựng các quy định về xử phạt luôn được chú
trọng trong việc xây dựng pháp luật, điều này cũng không ngoại lệ đối với pháp luật
hành chính điều chỉnh về các vi phạm hành chính. Theo khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý
vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định về định nghĩa
của xử phạt vi phạm hành chính “là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành
vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.”.
Có thể lý giải theo như quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) thì xử phạt vi phạm hành chính
bao gồm áp dụng hình thức xử phạt được quy định trong luật và cả việc áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả.
Hiện nay, các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định cụ thể tại Điều 28
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) theo phương
pháp liệt kê. Pháp luật hiện hành khơng có một định nghĩa thống nhất về “biện pháp
khắc phục hậu quả”, tùy vào góc độ lý giải mà đưa ra những định nghĩa khác nhau.
Dưới góc độ từ ngữ thì “biện pháp” là “cách thức giải quyết một vấn đề hoặc
thực hiện một chủ trương”, “khắc phục” là “thắng được những khó khăn, trở ngại”,
“hậu quả” là “kết quả xấu do việc gì để lại về sau” 2. Vậy từ góc độ ngơn ngữ ta có
thể hiểu “biện pháp khắc phục hậu quả là cách thức giải quyết một vấn đề để những
kết quả xấu do một việc gây nên được giảm hoặc mất đi”.
2Nguyễn Lân (2006), Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.145, 935,
821.
10
Trong khoa học pháp lý, một số tác giả đã đưa ra khái niệm về biện pháp
khắc phục hậu quả. Có quan điểm cho rằng “Biện pháp khắc phục hậu quả được
xem là những cách thức, hoạt động được thực hiện để khơi phục một phần hoặc
tồn bộ thiệt hại, thiếu sót đã xảy ra trên thực tế do những nguyên nhân khách quan
như thiên tai, thảm họa hoặc các hành vi chủ quan gây ra như không thực hiện
đúng trách nhiệm, nghĩa vụ, quy định của những chủ thể nhất định” 3. Quan điểm
trên còn hạn chế trong việc thể hiện rõ bản chất cưỡng chế của Nhà nước khi áp
dụng biện pháp này, dễ dẫn đến hiểu sai rằng khắc phục hậu quả là tự nguyện và
không bị cưỡng chế nếu khơng thực hiện. Ngồi ra, quan điểm trên cịn chưa chính
xác khi cho rằng biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng khôi phục một phần
hoặc tồn bộ thiệt hại, thiếu sót đã xảy ra trên thực tế do “những nguyên nhân khách
quan như thiên tai, thảm họa” vì bản chất biện pháp khắc phục chỉ áp dụng đối với
các vi phạm hành chính (đó phải là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính). Có quan điểm cho
rằng “Biện pháp khắc phục hậu quả được hiểu là hình thức cưỡng chế do Nhà nước
tiến hành, buộc người có hành vi vi phạm hành chính phải thực hiện những nghĩa
vụ pháp lý nhất định nhằm hạn chế hoặc khơi phục lại tình trạng ban đầu do vi
phạm hành chính gây ra”4. Khái niệm trên đã khẳng định biện pháp khắc phục hậu
quả khi áp dụng mang tính cưỡng chế của nhà nước, tuy nhiên vẫn chưa làm rõ hết
mục đích của áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Từ những phân tích về những
hạn chế trong việc đưa ra khái niệm về biện pháp khắc phục hậu quả, có thể định
nghĩa khoa học về biện pháp khắc phục hậu quả như sau “Biện pháp khắc phục hậu
quả được hiểu là hình thức cưỡng chế do Nhà nước tiến hành, buộc người vi phạm
hành chính phải thực hiện những nghĩa vụ pháp lý nhất định nhằm khắc phục một
phần, toàn bộ thiệt hại hoặc khơi phục lại tình trạng ban đầu do vi phạm hành
chính gây ra”.
Khái niệm biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp
pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính
Biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do
thực hiện vi phạm hành chính được quy định là một biện pháp khắc phục hậu quả vì
những lý do thực tế sau đây:
3Quách Tiên Phong (2007), “Biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính”, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, số 8.
4Cao Vũ Minh, Nguyễn Nhật Khanh (2017), “Về biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành
chính”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6.
11
Thứ nhất, khi thực hiện vi phạm hành chính, chủ thể vi phạm hướng đến việc
thu lợi bất hợp pháp. Đây là những khoản lợi không được pháp luật ghi nhận, chính
khoản lợi này là động lực để chủ thể thực hiện vi phạm, vì thế khi khoản lợi này
phát sinh nó được xem là hậu quả của vi phạm hành chính, việc tìm kiếm các khoản
lợi bất hợp pháp từ việc thực hiện vi phạm hành chính làm phá vỡ trật tự quản lý
của nhà nước.
Thứ hai, ở góc độ người vi phạm, khoản lợi bất hợp pháp là cái họ mong
muốn đạt được và hướng đến khi thực hiện vi phạm hành chính, nhưng ở góc độ của
nhà nước, các khoản lợi bất hợp pháp chính là hậu quả xảy ra từ việc thực hiện
vi phạm hành chính, nghĩa là khơng có vi phạm hành chính thì khơng có các khoản
lợi bất hợp pháp, vi phạm hành chính là nguyên nhân, các khoản lợi bất hợp pháp là
hậu quả từ việc thực hiện vi phạm hành chính và các hiện tượng này có mối liên hệ
với nhau. Do đó, để khắc phục hậu quả của vi phạm hành chính thì buộc người vi
phạm phải nộp lại khoản lợi bất hợp pháp có được từ thực hiện vi phạm hành chính
thì mới khơi phục lại trật tự quản lý nhà nước vốn có ban đầu.
Hiện nay, khơng có một định nghĩa cụ thể về biện pháp khắc phục hậu quả
buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính. Tuy
nhiên, xét đến nguyên nhân ra đời của biện pháp cũng như mục đích của biện pháp
hướng đến thì ta có thể rút ra định nghĩa về biện pháp này như sau: “biện pháp khắc
phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành
chính là hình thức cưỡng chế do nhà nước áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính để buộc họ phải nộp lại các khoản lợi bất hợp pháp có được do
thực hiện vi phạm hành chính nhằm khắc phục một phần hoặc toàn bộ thiệt hại do
vi phạm hành chính gây ra”.
1.1.2 Đặc điểm của biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính.
Biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do
thực hiện vi phạm hành chính là một trong các biện pháp khắc phục hậu quả, do vậy
biện pháp này cũng mang các đặc điểm của biện pháp khắc phục hậu quả nói chung
gồm:
Một là, mục đích của biện pháp là nhằm khơi phục một phần hoặc toàn bộ
thiệt hại do những vi phạm hành chính gây ra. Vì những vi phạm hành chính thường
sẽ gây ra những hậu quả nhất định cho chủ thể trong xã hội hoặc cho nhà nước thế
nên cần áp dụng biện pháp trên để góp phần khơi phục các quyền, lợi ích hợp pháp
bị xâm hại bởi vi phạm hành chính.
12
Hai là, biện pháp khắc phục hậu quả không chỉ được quy định trong Luật Xử
lý vi phạm hành chính mà còn được quy định trong các Nghị định của các lĩnh vực
khác nhau. Điều này xuất phát từ việc vi phạm hành chính có thể xuất hiện trong
nhiều lĩnh vực khác nhau và mỗi lĩnh vực có những đặc thù riêng nên cần được quy
định cụ thể trong các văn bản đặc thù để chi tiết và dễ áp dụng. Tuy nhiên, việc quy
định trên không được khác với bản chất chính của quy định về biện pháp này trong
Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Ba là, về thẩm quyền, đa số các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính sẽ có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, có một số
chủ thể tuy có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng khơng có thẩm quyền
áp dụng một số biện pháp khắc phục hậu quả, ví dụ như Chiến sĩ Cơng an nhân dân,
Chiến sĩ Bộ đội biên phịng, Cảnh sát viên Cảnh sát biển, v.v. Họ là những chủ thể
có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng không được áp dụng biện pháp
khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm
hành chính.
Bốn là, về thời hiệu và thời hạn, hiện nay Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) khơng quy định rõ về thời hiệu và thời hạn ra
quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 66
đạo luật này đã có quy định “Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d
khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm
lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt
tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành vi vi
phạm hành chính đó.”. Dựa vào điều khoản này có thể lý giải thời hạn và thời hiệu
của xử phạt vi phạm hành chính khơng ảnh hưởng đến thời hiệu ra quyết định áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả, dù hết thời hiệu hay thời hạn ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính thì chủ thể có thẩm quyền vẫn có thể ra quyết định áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả.
Ngoài các đặc điểm trên, biện pháp “buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
được do thực hiện vi phạm hành chính” cũng có một số đặc điểm riêng như:
Thứ nhất, biện pháp này chỉ áp dụng đối với các vi phạm hành chính có phát
sinh số lợi bất hợp pháp, nếu vi phạm hành chính khơng có khả năng làm phát sinh
số lợi bất hợp pháp thì pháp luật khơng quy định áp dụng biện pháp này.
Thứ hai, so với các biện pháp khắc phục hậu quả khác, số lượng chủ thể có
thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp
13
có được do thực hiện vi phạm hành chính ít hơn; chỉ có một số chủ thể được nêu ở
phần 1.2.2 mới có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này.
Thứ ba, mục đích của biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do
thực hiện vi phạm hành chính là thu lại số lợi bất hợp pháp mà chủ thể vi phạm
hành chính có được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Số lợi bất hợp pháp thu được
tùy vào tình huống mà có hai cách giải quyết sau đây:
Nếu số lợi bất hợp pháp có từ vi phạm hành chính mà khơng xuất phát từ cá
nhân, tổ chức cụ thể thì buộc nộp lại sung vào ngân sách nhà nước. Ví dụ tại Điều 4
Nghị định số 88/2019/NĐ-CP có quy định hành vi vi phạm quy định về giấy phép
do Ngân hàng nhà nước cấp, hành vi trên có số lợi bất hợp pháp không xuất phát từ
cá nhân, tổ chức cụ thể nên số lợi bất hợp pháp thu được phải nộp vào ngân sách
nhà nước.
Nếu số lợi bất hợp pháp có được từ đối tượng bị chiếm đoạt thì buộc nộp lại
để hoàn trả cho đối tượng bị chiếm đoạt. Ví dụ: Theo Nghị định số 117/2020/NĐCP quy định một số biện pháp khắc phục hậu quả mang bản chất của biện pháp
buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính như buộc
hoàn trả số tiền mà đối tượng tham gia bảo hiểm y tế bị thiệt hại… đối với biện
pháp này nêu rõ hoàn trả lại số tiền mà chủ thể vi phạm thu được từ đối tượng bị
chiếm đoạt như đối tượng tham gia bảo hiểm y tế.
1.1.3 Ý nghĩa của biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính
Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
được do thực hiện vi phạm hành chính mang một số ý nghĩa trong xử phạt vi phạm
hành chính.
Thứ nhất, biện pháp khắc phục hậu quả “buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
được do thực hiện vi phạm hành chính” có ý nghĩa như các biện pháp khắc phục hậu
quả nói chung. Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả nhằm nâng cao hiệu quả giải
quyết vi phạm. Ngoài mang tính giáo dục, răn đe các chủ thể vi phạm và cá nhân, tổ
chức khác trong xã hội thì biện pháp khắc phục hậu quả cịn góp phần giải quyết các
hậu quả mà vi phạm hành chính đã gây ra, góp phần ổn định xã hội, duy trì trật tự
và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của các chủ thể có thẩm quyền. Qua đó có
thể thấy biện pháp khắc phục hậu quả được sử dụng như là một giải pháp hữu hiệu
để đấu tranh, ngăn chặn các vi phạm hành chính.
Thứ hai, việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất
hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính để thực hiện nguyên tắc “ mọi
hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định
của
14
pháp luật”. Đây là một nguyên tắc rất quan trọng trong việc xử phạt vi phạm hành
chính, buộc chủ thể vi phạm phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả để
khắc phục thiệt hại do vi phạm của họ gây ra. Đối với biện pháp khắc phục hậu quả
buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính, người có
thẩm quyền sẽ buộc chủ thể vi phạm nộp lại số lợi bất hợp pháp mà họ có được để
sung vào ngân sách nhà nước hoặc hoàn trả cho đối tượng bị chiếm đoạt. Qua đó
góp phần giải quyết hậu quả do vi phạm hành chính gây ra cho nhà nước hoặc đối
tượng bị chiếm đoạt.
Thứ ba, vi phạm hành chính làm phá vỡ trật tự xã hội đã được nhà nước thiết
lập, xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân,
tổ chức, nhà nước và xã hội. Khi áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả “buộc nộp
lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính”, nhà nước làm
“phá sản” mục đích của chủ thể vi phạm đó là tìm kiếm các khoản lợi bất hợp pháp,
qua đó xem như là một sự giáo dục, răn đe để chính họ và những chủ thể có ý định
vi phạm hành chính ý thức hơn về việc họ có vi phạm, có đạt được lợi ích từ vi
phạm thì lợi ích đó vẫn sẽ bị buộc nộp lại. Do vậy, việc áp dụng biện pháp này
hướng đến mục đích xóa bỏ tư duy “cố tình vi phạm để hưởng lợi” từ chủ thể vi
phạm hành chính, qua đó góp phần hữu hiệu trong việc giảm thiểu các vi phạm hành
chính trong tương lai.
1.2 Các quy định của pháp luật về biện pháp khắc phục hậu quả buộc
nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính
1.2.1 Nguyên tắc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính
Ngun tắc thứ nhất, việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại
số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính phải được tiến hành
nhanh chóng, cơng khai, khách quan5. Vi phạm hành chính có thể làm ảnh hưởng rất
lớn đến trật tự xã hội đã được nhà nước thiết lập, xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Vì thế, để kịp thời ngăn chặn và
khắc phục hậu quả để trật tự xã hội được duy trì một cách tốt nhất thì việc áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả cần nhanh chóng. Để các chủ thể vi phạm hành chính
chấp hành biện pháp trên tự nguyện và khơng có khiếu nại về sau thì các chủ thể có
thẩm quyền cần áp dụng biện pháp trên với ý chí khách quan và áp dụng công khai.
Từ những yếu tố trên và nguyên tắc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả nói chung
và biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
5Cao Vũ Minh (chủ biên) (2019), Một số biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính Thực trạng và hướng hồn thiện, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 59.
15
được do thực hiện vi phạm hành chính cần các điều kiện nhanh chóng, cơng khai và
khách quan khi áp dụng.
Nguyên tắc thứ hai, việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại
số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính phải được áp dụng bởi
chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp trên và phải áp dụng đúng pháp luật. Các
chủ thể có thẩm quyền là con người, mà con người thì có nhiều yếu tố chi phối đến
ý chí của họ. Cần áp dụng biện pháp trên đúng thẩm quyền và đúng pháp luật vì
điều này sẽ góp phần duy trì trật tự quản lý nhà nước và tránh tình trạng lạm quyền
của các chủ thể có thẩm quyền. Ngồi ra, việc áp dụng biện pháp trên cịn cần phải
đúng pháp luật và phải được xem xét toàn diện nhiều yếu tố quy định tại Luật Xử lý
vi phạm hành chính và các văn bản pháp luật chuyên ngành để áp dụng chính xác,
tránh sai sót khiếu nại về sau.
Nguyên tắc thứ ba, có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại
số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính với một hoặc nhiều
biện pháp khắc phục hậu quả khác được quy định trong luật cùng lúc. Điều này là
phù hợp vì biện pháp khắc phục hậu quả với mục đích chính là khắc phục chính
những thiệt hại về tài sản, mơi trường do chủ thể vi phạm hành chính gây ra. Để
khắc phục tồn bộ thiệt hại đơi khi chỉ áp dụng một biện pháp khắc phục hậu quả là
không đủ nên việc áp dụng đồng thời nhiều biện pháp khắc phục hậu quả là hợp lý
hợp tình và không trái với bất kỳ nguyên tắc nào.
Nguyên tắc thứ tư, biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng độc lập trong
các trường hợp cụ thể sau: (i) không xác định được đối tượng vi phạm hành chính;
(ii) hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính và thời hạn ra quyết định xử phạt; (iii)
cá nhân vi phạm hành chính chết, mất tích, tổ chức vi phạm hành chính đã giải thể,
phá sản trong thời gian xem xét ra quyết định xử phạt6.
Đối với việc không xác định được đối tượng vi phạm hành chính nhưng vẫn
có vi phạm hành chính xảy ra và vi phạm này có thể gây hậu quả cho xã hội nên vẫn
cần được khắc phục kịp thời để trật tự xã hội được đảm bảo. Vì thế trong trường
hợp này vẫn cần áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, biện pháp khắc
phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành
chính cần xác định rõ chủ thể để áp dụng biện pháp trên nên trong trường hợp
không xác định được chủ thể vi phạm hành chính thì khơng thể áp dụng biện pháp
này.
6Cao Vũ Minh (chủ biên) (2019), Một số biện pháp khắc phục hậu quả trong xử phạt vi phạm hành chính Thực trạng và hướng hồn thiện, Nxb. Chính trị quốc gia, tr. 55, 56.
16
Đối với việc hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính và thời hạn ra quyết
định xử phạt tại khoản 2 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi,
bổ sung năm 2020) đã có quy định rõ là khi đó khơng thể ra quyết định xử phạt
nhưng vẫn quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả để đảm bảo nguyên tắc
“mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy
định của pháp luật”7.
Đối với trường hợp cá nhân vi phạm hành chính chết, mất tích, tổ chức vi
phạm hành chính đã giải thể, phá sản trong thời gian xem xét ra quyết định xử phạt.
Trong trường hợp trên, việc ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là
khơng có ý nghĩa nên theo quy định tại Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) khơng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
là hợp lý. Tuy nhiên, vẫn áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả để giải quyết triệt để
hậu quả do vi phạm hành chính gây ra và duy trì trật tự xã hội.
Nguyên tắc thứ năm: Việc xác định số lợi bất hợp pháp do người có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính thực hiện và ghi trong quyết định xử phạt vi
phạm hành chính hoặc quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Việc áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực
hiện vi phạm hành chính là một hoạt động áp dụng pháp luật của người có thẩm
quyền, là một hình thức sử dụng quyền lực nhà nước và có khả năng tác động đến
quyền lợi hợp pháp của đối tượng bị áp dụng. Do vậy, khi áp dụng biện pháp này,
người có thẩm quyền phải thể hiện dưới các hình thức pháp lý cụ thể theo quy định
của pháp luật đó là quyết định xử phạt vi phạm hành chính (trong trường hợp thơng
thường) hoặc quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả (trong trường hợp áp
dụng độc lập) để bảo đảm tính hợp pháp của việc áp dụng biện pháp này.
Nguyên tắc thứ sáu: Số lợi bất hợp pháp được xác định từ khi tổ chức, cá
nhân có hành vi vi phạm hành chính đến thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm hoặc
có quyết định xử phạt vi phạm hành chính hoặc quyết định áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả. Nguyên tắc này chú trọng đến mối liên hệ giữa vi phạm hành chính
với hậu quả gây ra cho xã hội. Cần lưu ý rằng số lợi bất hợp pháp phải gắn liền với
vi phạm hành chính, do vậy khi xác định số lợi bất hợp pháp để áp dụng biện pháp
khắc phục hậu quả này, người có thẩm quyền phải xác định chính xác thời điểm chủ
thể vi phạm bắt đầu thực hiện vi phạm hành chính để xác định các khoản lợi bất hợp
pháp phát sinh cho đến khi thời điểm áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này để
xác định chính xác, đầy đủ số lợi bất hợp pháp mà chủ thể vi phạm hành chính đã có
được từ q trình thực hiện vi phạm hành chính.
7Điểm a khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
17
Nguyên tắc thứ bảy: Trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện nhiều hành vi vi
phạm hành chính thì xác định số lợi bất hợp pháp có được theo từng hành vi vi
phạm hành chính. Trường hợp tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành
chính nhiều lần thì xác định số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi
phạm hành chính theo từng lần. Việc áp dụng nguyên tắc này hướng đến mục đích
xử lý triệt để hậu quả do vi phạm hành chính gây ra và đấu tranh nghiêm khắc với
chủ thể vi phạm hành chính theo đúng nguyên tắc nền tảng trong hoạt động xử phạt
vi phạm hành chính là “mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc
phục theo đúng quy định pháp luật”.
1.2.2 Xác định số lợi bất hợp pháp khi áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020)
không quy định cụ thể về cách xác định số lợi bất hợp pháp mà chỉ quy định chung
tại Điều 37 số lợi bất hợp pháp bao gồm tiền, tài sản, giấy tờ và vật có giá.
Trong các Nghị định của Chính phủ có quy định biện pháp khắc phục hậu
quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính có
một số Nghị định có hướng dẫn xác định số lợi bất hợp pháp trong Nghị định. Nghị
định có hướng dẫn cụ thể cách xác định số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi
phạm hành chính có thể kể đến như Điều 7 của Nghị định số 91/2019/NĐ-CP về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Đất đai.
Ngồi ra, tại nhiều lĩnh vực việc xác định số lợi bất hợp pháp được quy định
trong những Thông tư hướng dẫn các Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành
chính có áp dụng biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện
vi phạm hành chính. Chẳng hạn, Thơng tư số 149/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính
quy định về số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính
để sung vào ngân sách nhà nước (Điều 4 - Điều 7); Thông tư số 11/2015/TTBKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn Nghị định số 99/2013/NĐ-CP
về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu cơng nghiệp (Điều
6); Thơng tư số 31/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý giá tại Nghị định số 109/2013/NĐ-CP quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn (khoản 3
Điều 7); Thơng tư số 03/2018/TT-BXD của Bộ Xây dựng quy định chi tiết một số
điều của Nghị định số 139/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến, kinh doanh
khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý
18
cơng trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển nhà ở, quản lý sử
dụng nhà và công sở (khoản 3 Điều 6).
Tuy nhiên, trong nhiều lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính hiện nay mặc dù
có quy định về biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có
được do thực hiện vi phạm hành chính nhưng chưa có quy định hướng dẫn cách xác
định cụ thể “số lợi bất hợp pháp”, do vậy việc giải quyết bài toán này là điều không
hề đơn giản, dẫn đến việc áp dụng biện pháp này gặp nhiều khó khăn, gây lúng túng
cho người có thẩm quyền xử phạt8.
1.2.3 Thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính
Thẩm quyền là một hệ thống các yếu tố cấu thành bao gồm hai nhóm: (i) các
quyền và nghĩa vụ chung để thực hiện các chức năng nhất định; (ii) các quyền hạn
cụ thể để thực hiện các quyền và nghĩa vụ chung nói trên 9. Từ các yếu tố cấu thành
ta có thể khái quát định nghĩa về thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả
như sau: “Thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là phạm vi thực hiện
quyền và nghĩa vụ của những chức danh có thẩm quyền xử phạt trong việc áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả được pháp luật quy định theo thủ tục hành chính”10.
Hiện nay, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định từ Điều 38
đến Điều 51 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
Nghiên cứu các điều khoản này có thể thấy rằng các chủ thể có thẩm quyền áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả đều có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng
khơng phải tất cả các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đều có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Đối với biện pháp khắc phục
hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính,
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định
thẩm quyền áp dụng cho các chức danh sau:
Đối với thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân: Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện, cấp tỉnh có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc
nộp lại số lợi bất hơp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính (điểm đ khoản
2, điểm đ khoản 3 Điều 38). Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã khơng có thẩm quyền
áp dụng biện pháp này.
8Nguyễn Nhật Khanh, Trần Quốc Minh (2020), “Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thi hành án dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17.
9Nguyễn Cửu Việt (2005), “Cải cách hành chính: về khái niệm thẩm quyền”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 8.
10
Mai Thị Lâm (2016), Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.18.
19
Đối với thẩm quyền của Công an nhân dân: Giám đốc Cơng an cấp Tỉnh,
Cục trưởng Cục An ninh chính trị nội bộ, Cục trưởng Cục An ninh kinh tế, Cục
trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Cục trưởng Cục Cảnh sát
điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về
tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma
túy, Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông, Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng cháy,
chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Cục trưởng Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về
môi trường, Cục trưởng Cục An ninh mạng và phịng, chống tội phạm sử dụng cơng
nghệ cao, Cục trưởng Cục An ninh nội địa, Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý tạm
giữ, tạm giam và thi hành án hình sự tại cộng đồng, Tư lệnh Cảnh sát cơ động, Cục
trưởng Cục Quản lý xuất nhập cảnh (khoản 5, 6, 7 Điều 39).
Đối với thẩm quyền của Bộ đội biên phịng: Đồn trưởng Đồn đặc nhiệm
phịng chống ma túy và tội phạm thuộc Cục Phòng chống ma túy và tội phạm thuộc
Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phịng cấp tỉnh; Hải
đồn trưởng Hải đồn biên phịng, Cục trưởng Cục Phịng chống ma túy và tội
phạm thuộc Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng (khoản 3a, khoản 4 Điều 40).
Đối với thẩm quyền của Hải quan: Chi cục trưởng Chi cục Hải quan; Chi cục
trưởng Chi cục Kiểm tra sau thông quan, Đội trưởng Đội kiểm soát thuộc Cục Hải
quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Đội trưởng Đội Điều tra hình
sự, Đội trưởng Đội kiểm sốt chống bn lậu, Hải đội trưởng Hải đội kiểm soát trên
biển và Đội trưởng Đội kiểm sốt chống bn lậu hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu
trí tuệ thuộc Cục Điều tra chống buôn lậu; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm tra sau
thông quan thuộc Cục Kiểm tra sau thông quan, Cục trưởng Cục Điều tra chống
buôn lậu, Cục trưởng Cục Kiểm tra sau thông quan thuộc Tổng cục Hải quan, Cục
trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tổng cục
trưởng Tổng cục Hải quan (khoản 3, 4, 5 Điều 42).
Đối với thẩm quyền của Kiểm lâm: Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm, Đội trưởng
Đội Kiểm lâm cơ động và phòng cháy, chữa cháy rừng, Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm lâm; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm vùng, Đội trưởng Đội Kiểm lâm đặc
nhiệm thuộc Cục Kiểm lâm, Cục trưởng Cục Kiểm lâm (khoản 3, 4, 5 Điều 43).
Đối với thẩm quyền của Kiểm ngư: Trạm trưởng Trạm Kiểm ngư thuộc Chi
cục Kiểm ngư vùng, Cục trưởng Cục Kiểm ngư (khoản 2, 4 Điều 43a).
Đối với thẩm quyền của Cơ quan Thuế: Chi cục trưởng Chi cục Thuế, Cục
trưởng Cục Thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế (khoản 3, 4, 5 Điều 44).
Đối với thẩm quyền của Quản lý thị trường: Đội trưởng Đội Quản lý thị
trường, Trưởng phòng Nghiệp vụ thuộc Cục Nghiệp vụ quản lý thị trường, Cục
20
trưởng Cục Quản lý thị trường cấp tỉnh, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ quản lý thị
trường thuộc Tổng cục Quản lý thị trường, Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý thị
trường (khoản 2, 3, 4 Điều 45).
Đối với thẩm quyền Ủy ban cạnh tranh quốc gia: Chủ tịch Ủy ban cạnh tranh
quốc gia (Điều 45a).
Đối với thẩm quyền của Thanh tra: Chánh Thanh tra sở; Chánh Thanh tra
Cục Hàng không Việt Nam; Chánh Thanh tra Cục Hàng hải Việt Nam; Chánh
Thanh tra Cục An toàn bức xạ và hạt nhân; Chánh Thanh tra Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước; Chánh Thanh tra quốc phòng quân khu; Chánh Thanh tra Cơ yếu thuộc
Ban Cơ yếu Chính phủ; Chi cục trưởng Chi cục Thú y vùng, Chi cục trưởng Chi cục
Kiểm dịch động vật vùng thuộc Cục Thú y; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm dịch thực
vật vùng thuộc Cục Bảo vệ thực vật; Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng
nông lâm sản và thủy sản Trung Bộ, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng
nông lâm sản và thủy sản Nam Bộ thuộc Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và
thủy sản; Chi cục trưởng Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Chi cục trưởng Chi
cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình thuộc Sở Y tế; Chi cục trưởng Chi cục về trồng
trọt và bảo vệ thực vật, chăn nuôi, thú y, thủy sản, quản lý chất lượng nông lâm và
thủy sản, thủy lợi, đê điều, phịng, chống thiên tai, lâm nghiệp, phát triển nơng thôn
thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Chi cục trưởng Chi cục Tiêu chuẩn
Đo lường Chất lượng thuộc Sở Khoa học và Công nghệ; Chi cục trưởng Chi cục
Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa miền Trung, Chi cục trưởng Chi cục Quản
lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa miền Nam thuộc Cục Quản lý chất lượng sản
phẩm, hàng hóa; Giám đốc Trung tâm Tần số vơ tuyến điện khu vực, Giám đốc Bảo
hiểm xã hội cấp tỉnh; các chức danh tương đương của cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành được Chính phủ quy định thẩm quyền xử phạt,
Cục trưởng Cục Thống kê, Giám đốc Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh, Cục trưởng Cục
Quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất
lượng; các chức danh tương đương của cơ quan được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành được Chính phủ quy định thẩm quyền xử phạt, Chánh
Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, Tổng cục trưởng Tổng cục Đường bộ Việt Nam,
Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Tổng cục trưởng Tổng
cục Giáo dục nghề nghiệp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi, Tổng cục trưởng
Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, Tổng cục trưởng Tổng
cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường,
Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình, Tổng giám đốc Kho bạc Nhà nước, Chủ tịch Ủy ban