Kiểm toán nhà nớc
Hội đồng khoa học
đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
C S Lí LUN V THC TIN
QUY NH BIN PHP X PHT VI PHM HNH
CHNH I VI T CHC, C NHN Cể HNH VI VI
PHM LUT KIM TON NH NC
Chủ nhiệm đề tài:
ThS. Đặng Văn Hải, Phó vụ trởng
Vụ Pháp chế
Th ký:
CN. Lan Hng, chuyờn viờn
Vụ Pháp chế
9409
Hà Nội, tháng 5 năm 2010
1
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động kiểm toán cũng nh trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào
khác của Nhà nớc, hệ thống pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh
nhất thiết phải bao gồm các quy định về chế tài để xử lý các vi phạm của các bên
tham gia trong các quan hệ pháp luật về kiểm toán nhà nớc. Các quy định về
chế tài có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng để tăng cờng pháp chế trong hoạt
động kiểm toán đảm bảo hoạt động kiểm toán diễn ra theo đúng pháp luật. Tuy
nhiên, trong hệ thống pháp luật hiện hành về kiểm toán nhà nớc hầu nh cha
có các quy định về chế tài trong các trờng hợp vi phạm của đơn vị đợc kiểm
toán, của Kiểm toán viên, đoàn kiểm toán, cơ quan kiểm toán, các tổ chức và cá
nhân có liên quan, trừ một loại quy định rất chung nh: chịu trách nhiệm trớc
pháp luật, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật .
Chính do cha có các quy định về chế tài một cách cụ thể và đầy đủ cho nên việc
chấp hành pháp luật về kiểm toán cha nghiêm, phần nào đã ảnh hởng đến chất
lợng và hiệu lực của hoạt động kiểm toán. Thực tế, qua gần 5 năm thực hiện Luật
Kiểm toán nhà nớc, nhiều trờng hợp vi phạm về nghĩa vụ của đơn vị đợc
kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan nh: không cung cấp đầy đủ, kịp thời
các thông tin, tài liệu; không thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị
kiểm toán; cản trở việc kiểm toán; che dấu các hành vi vi phạm pháp luật về tài
chính, ngân sách , song cha có quy định xử lý vi phạm đã làm giảm hiệu lực
của hoạt động kiểm toán nói riêng và tính nghiêm minh của pháp luật nói chung.
Do vậy, việc nghiên cứu Đề tài khoa học Cơ sở lý luận và thực tiễn quy định
biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm Luật Kiểm toán nhà nớc có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn,
nhất là trong điều kiện thực hiện Luật Kiểm toán nhà nớc, Luật Thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí và Luật Phòng, chống tham nhũng, góp phần thực hiện
nghiêm chỉnh Luật kiểm toán nhà nớc và nâng cao chất lợng, hiệu lực và hiệu
quả hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nớc.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về vi phạm hành chính và xử
phạt vi phạm hành chính.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật hiện hành về vi
phạm hành chính và thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực kiểm toán nhà nớc.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quy định biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính đối với đơn vị đợc kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan
có hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nớc.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Dựa trên phơng pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, luận văn đã sử dụng các phơng pháp nghiên cứu cụ thể nh:
lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh.
5. Đóng góp của đề tài
Đề xuất những giải pháp cơ bản bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực kiểm toán nhà nớc. Xác định rõ: hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực KTNN; đối tợng vi phạm, hình thức xử phạt, mức phạt, thẩm
quyền xử phạt và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KTNN.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài đợc trình bày thành 2 chơng:
Chơng 1: Tổng quan về vi phạm hành chính và thực trạng vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nớc.
Chơng 2: Những giải pháp bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực kiểm toán nhà nớc.
3
Chơng 1
Tổng quan về vi phạm hành chính và thực trạng vi
phạm hành chính trong lĩnh vực Kiểm toán nhà nớc
1.1. Vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính
1.1.1. Vi phạm hành chính
1.1.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến
trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với
tội phạm hình sự nhng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ
gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nớc, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng nh lợi
ích chung của toàn thể cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội
nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu nh không đợc ngăn chặn và
xử lý kịp thời. Chính vì lẽ đó, công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm hành
chính luôn là vấn đề đợc xã hội quan tâm. Từ trớc đến nay, nhà nớc ta đã ban
hành khá nhiều văn bản pháp luật quy định về vi phạm hành chính và các biện
pháp xử lý đối với loại vi phạm này, trong đó phải kể đến Nghị định 143/CP
ngày 27/5/1977 của Chính phủ ban hành Điều lệ xử phạt vi cảnh, pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 1995 và văn bản đang có hiệu lực pháp lý thi hành là Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 (đã đợc sửa đổi, bổ sung năm 2007, năm 2008).
Cùng với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Chính phủ đã ban hành hàng loạt
các nghị định quy định cụ thể về việc xử lý vi phạm hành chính trên các lĩnh vực
khác nhau của quản lý hành chính nhà nớc.
Để xác định rõ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của loại vi phạm
này đặc biệt là việc xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, tạo
cơ sở cần thiết để quy định, xử lý cũng nh đấu tranh phòng, chống một cách có
hiệu quả đối với các vi phạm hành chính, cần thiết phải đa ra một định nghĩa
chính thức về vi phạm hành chính.
Về phơng diện lý luận cũng nh thực tiễn, định nghĩa vi phạm hành
chính phải phản ánh đầy đủ những đặc trng của những loại vi phạm này,
4
trong đó thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của chúng, đồng thời cũng
phải thể hiện đợc sự khác biệt giữa loại vi phạm này với tội phạm về mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Định nghĩa vi phạm hành chính lần đầu tiên đợc nêu ra trong Pháp lệnh
xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989. Điều 1 của Pháp lệnh này đã chỉ
rõ: Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nớc mà không phải là tội phạm
hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 không trực tiếp đa ra định
nghĩa về vi phạm hành chính nhng khoản 2 Điều 1 của Pháp lệnh này đã định
nghĩa vi phạm hành chính một cách gián tiếp, theo đó xử phạt vi phạm hành
chính đợc áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm
các quy tắc quản lý nhà nớc mà cha đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Tại khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, vi
phạm hành chính cũng đợc định nghĩa một cách gián tiếp: Xử phạt vi phạm
hành chính đợc áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung
là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp
luật về quản lý nhà nớc mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt hành chính.
Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt, quan niệm về vi phạm hành chính
trong các văn bản pháp luật nêu trên đều thống nhất với nhau về những dấu hiệu,
bản chất của loại vi phạm pháp luật này. Trên cơ sở những nội dung đợc nêu ra
trong các văn bản pháp luật nêu trên, có thể đa ra định nghĩa về vi phạm hành
chính nh sau: Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với
lỗi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nớc mà
không phải là tội phạm và phải bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp
luật.
Với vị thế là cơ quan chuyên môn về kiểm tra tài chính nhà nớc do Quốc
hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Kiểm toán Nhà nớc
5
có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt
động đối với mọi cơ quan, đơn vị, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài
sản nhà nớc. Mục đích của hoạt động kiểm toán nhà nớc là nhằm phục vụ việc
kiểm tra, giám sát của Nhà nớc trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản
nhà nớc; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí,
phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nớc. Với bản chất là cơ quan kiểm tra tài
chính nhà nớc, hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nớc là một trong
những nội dung của quản lý nhà nớc về lĩnh vực kiểm toán nhà nớc. Trong quá
trình KTNN thực hiện nhiệm vụ kiểm toán đã làm phát sinh các mối quan hệ
giữa KTNN với các đơn vị đợc kiểm toán, giữa KTNN với các tổ chức, cá nhân
có liên quan mà nội dung của các quan hệ này là quyền và nghĩa vụ của các bên.
Tất cả các quan hệ đó đều đợc điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật đợc quy
định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau (chủ yếu là Luật Kiểm
toán nhà nớc) nhng có quan hệ chặt chẽ với nhau điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực hoạt động kiểm toán nhà nớc. Tổng thể các quy phạm đó tạo
thành hệ thống pháp luật về KTNN. Các quy phạm pháp luật về KTNN quy định
cho các bên tham gia quan hệ pháp luật về KTNN có các quyền và nghĩa vụ pháp
lý nhất định; đồng thời quy định trách nhiệm pháp lý của các bên nếu không
thực hiện đúng quy định của pháp luật hoặc vi phạm quyền của bên kia trong
quan hệ. ó chính l mt trong nhng ni dung ca qun lý nh nc v hot
ng kim toán nh nc. Do các quy phạm pháp luật về KTNN đ
ợc Nhà nớc
ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hôi phát sinh trong hoạt động kiểm
toán nhà nớc nên có tính bắt buộc chung và đợc Nhà nớc bảo đảm thực hiện.
Trong thực tế hoạt động kiểm toán luôn có những hành vi cố ý hay vô ý vi
phạm các quy định của Nhà nớc về hoạt động KTNN. Các hnh vi ó chính là
các hành vi vi phạm pháp luật kim toán nh nc xâm phm n trt t qun lý
nh nc v hot ng KTNN. Các hành vi vi phạm pháp luật này tuỳ theo tính
chất, mức độ vi phạm đều phải bị xử lý, có những hành vi bị xử lý hình sự khi
gây nguy hiểm lớn cho xã hội và có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nh các hành
vi tham nhũng. Tuy nhiên, đa số các hành vi vi phạm pháp luật KTNN không
phải là tội phạm m l vi phạm hành chính và cn phải bị xử lý theo quy định
6
của pháp lut về xử lý vi phạm hành chính.
Từ những phân tích nêu trên cho thấy: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực
KTNN là hành vi do cá nhân, tổ chức (bao gồm: đơn vị đợc kiểm toán, tổ chức,
cá nhân thuộc đơn vị đợc kiểm toán, tổ chức, cá nhân có liên quan) thực hiện
với lỗi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về qun lý nh nc
i vi hoạt động KTNN mà không phải là tội phạm và phải bị xử phạt hành
chính theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Các dấu hiệu của vi phạm hành chính
Để xác định một hành vi xảy ra có phải là vi phạm hành chính hay không,
cần xác định các dấu hiệu pháp lý của loại vi phạm pháp luật này. Những dấu
hiệu này đợc mô tả trong các văn bản pháp luật có quy định về vi phạm hành
chính, hình thức và biện pháp xử lý đối với loại vi phạm này. Cũng tơng tự nh
bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào, các dấu hiệu pháp lý của vi phạm hành chính
thể hiện ở 4 yếu tố: mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan và khách thể.
a. Dấu hiệu trong mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính là hành
vi vi phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân thực hiện là
hành vi vi phạm pháp luật của nhà nớc và bị pháp luật hành chính ngăn cấm.
Việc bị ngăn cấm thể hiện rõ ràng trong các văn bản pháp luật quy định về xử
phạt hành chính, theo đó, những hành vi này bao giờ cũng bị pháp luật quy định
là sẽ bị xử phạt bằng các hình thức, biện pháp xử phạt hành chính. Nh vậy, khi
xem xét để đi đến kết luận rằng vi phạm của cá nhân hay tổ chức có phải là vi
phạm hành chính hay không, bao giờ cũng phải có những căn cứ pháp lý rõ ràng
xác định hành vi đó phải đợc pháp luật quy định là sẽ bị xử phạt bằng các biện
pháp xử phạt hành chính. Cần tránh tình trạng áp dụng nguyên tắc suy đoán
hoặc áp dụng tơng tự pháp luật trong việc xác định vi phạm hành chính đối
với các tổ chức và cá nhân.
Đối với một số loại vi phạm hành chính cụ thể, dấu hiệu trong mặt khách
quan có tính chất phức tạp, không đơn thuần chỉ có một dấu hiệu nội dụng trái
pháp luật trong hành vi mà còn có thể có sự kết hợp với những yếu tố khác.
7
Những yếu tố khác, thông thờng có thể là: thời gian thực hiện hành vi vi phạm;
ịa điểm thực hiện hành vi vi phạm; công cụ, phơng tiện vi phạm; hậu quả và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm hành chính với thiệt hại cụ thể đã xảy
ra do chính hành vi vi phm hnh chớnh ú gõy ra.
b. Dấu hiệu trong mặt chủ quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính là dấu hiệu
lỗi của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi, thể hiện
dới hình thức vô ý hoặc cố ý, nói cách khác, ngời thực hiện hành vi này phải
trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức, và điều khiển hành vi của mình
nhng đã vô tình, hoặc thiếu thận trọng mà không nhận thức đợc điều đó hoặc
nhận thức đợc nhng vẫn cố tình thực hiện vi phạm. Nếu xác định rằng, chủ thể
thực hiện hành vi khi không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi thì chúng ta kết luận rằng không có vi phạm hành chính xảy ra.
Ngoài lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của mọi vi phạm hành
chính, ở một số trờng hợp cụ thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là
dấu hiệu bắt buộc của một số loại vi phạm hành chính. Chính vì thế, khi xử phạt
cá nhân, tổ chức về loại vi phạm hành chính này cần phải xác định rõ ràng hành
vi của họ có thoả mãn đầy đủ dấu hiệu mục đích hay không. Khi xác định dấu
hiệu lỗi trong mặt khách quan của vi phạm hành chính, vấn đề xác định dấu hiệu
lỗi trong vi phạm hành chính của tổ chức là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng, lỗi là trạng thái tâm lý cá nhân trong khi thực hiện hành vi vi
phạm hành chính nên không đặt ra vấn đề lỗi đối với tổ chức vi phạm hành
chính. Khi xử phạt hành chính đối với tổ chức, chỉ cần xác định tổ chức đó có
hành vi trái pháp luật hành chính và hành vi đó theo quy định của pháp luật bị xử
phạt bằng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính là đủ điều kiện để xử phạt
hành chính. Cũng có quan điểm cho rằng, cần xác định lỗi của tổ chức khi vi
phạm hành chính thì mới có đầy đủ cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính đối với tổ chức vi phạm. Theo quan điểm này, lỗi của tổ chức
đợc xác định thông qua lỗi của các thành viên trong tổ chức đó khi thực hiện
nhiệm vụ, công vụ đợc giao. Tuy nhiên, pháp luật xử lý vi phạm hành chính
hiện hành chỉ quy định chung rằng tổ chức phải chịu trách nhiệm về mọi vi phạm
8
hành chính do mình gây ra và có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính. Đồng thời, nó phải có trách nhiệm xác định lỗi của ngời thuộc tổ
chức của mình trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong khi thi hành nhiệm vụ,
công vụ đợc giao để truy cứu trách nhiệm, kỷ luật và để bồi thờng thiệt hại
theo quy định của pháp luật.
c. Dấu hiệu của chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là các tổ chức, cá nhân có
năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cá nhân là chủ thể của vi phạm
hành chính phải là ngời không mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do
pháp luật quy định, cụ thể là:
+ Ngời từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi là chủ thể của vi phạm hành chính
trong trờng hợp thực hiện với lỗi cố ý. Nh vậy, khi xác định ngời ở độ tuổi
này có vi phạm hành chính hay không, cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ
quan của họ. Pháp luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành không định nghĩa thế
nào là lỗi cố ý hoặc vô ý trong vi phạm hành chính. Tuy nhiên, trong thực tiễn,
ngời ta thờng quan niệm ngời thực hiện hành vi với lỗi cố ý là ngời nhận
thức đợc hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm đoán
nhng vẫn cố tình thực hiện.
+ Ngời từ đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính
trong mọi trờng hợp.
+ Tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan nhà nớc,
các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lợng vũ trang nhân
dân và các tổ chức khác có t cách pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Cá nhân, tổ chức nớc ngoài cũng là chủ thể vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật Việt Nam trừ trờng hợp điều ớc quốc tế mà Việt Nam ký
kết hoặc tham gia có quy định khác.
d. Dấu hiệu về khách thể
9
Vi phạm hành chính cũng nh mọi vi phạm pháp luật khác đều xâm hại
đến các quan hệ xã hội đợc pháp luật bảo vệ. Dấu hiệu khách thể để nhận biết
về vi phạm hành chính là hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lý
hành chính nhà nớc đã đợc pháp luật hành chính quy định và bảo vệ. Nói cách
khác, vi phạm hành chính là hành vi trái với các quy định của pháp luật về quản
lý nhà nớc trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội nh quy tắc về an
toàn giao thông, quy tắc về an ninh trật tự, an toàn xã hội Điều đó đã đợc quy
định trong các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền.
1.1.2. Trách nhiệm hành chính
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hành chính
Khi một tổ chức hay cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, về
nguyên tắc, nhà nớc sẽ buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định.
Việc làm này nhằm mục đích khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm phạm,
đồng thời giáo dục tổ chức, cá nhân vi phạm cũng nh toàn thể cộng đồng ý thức
tuân thủ pháp luật. Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ trách nhiệm pháp lý của
tổ chức, cá nhân thông thờng đợc hiểu là hậu quả pháp lý bất lợi mà Nhà nớc
buộc tổ chức, cá nhân phải gánh chịu khi họ thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Hậu quả pháp lý bất lợi mà tổ chức, cá nhân vi phạm phải gánh chịu thể hiện ở
việc họ bị buộc phải thực hiện các biện pháp chế tài đã đợc quy định trong pháp
luật. Tơng ứng với mỗi loại vi phạm pháp luật là một hình thức trách nhiệm
pháp lý nhất định. Trách nhiệm hành chính đợc đặt ra đối với tổ chức, cá nhân
thực hiện vi phạm hành chính. Vì vậy, nói khái quát, trách nhiệm hành chính là
hậu quả pháp lý bất lợi mà nhà nớc buộc các tổ chức, cá nhân phải gánh chịu
khi họ thực hiện vi phạm hành chính.
Trách nhiệm hành chính có đặc điểm sau đây:
* Trách nhiệm hành chính là hình thức trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với
tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
Trách nhiệm pháp lý chỉ đặt ra đối với những ngời thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật. Vì vậy, để tiến hành truy cứu trách nhiệm hành chính đối với
một tổ chức hoặc cá nhân, cần xác định tổ chức, cá nhân đó có thực hiện vi phạm
10
hành chính trên thực tế hay không. Các dấu hiệu pháp lý của vi phạm hành chính
là căn cứ cần thiết để xác định hành vi của tổ chức, cá nhân thực hiện có đủ yếu
tố cấu thành vi phạm hành chính hay không. Trách nhiệm hành chính không đặt
ra đối với các tổ chức, cá nhân không thực hiện vi phạm hành chính. Việc truy
cứu trách nhiệm hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính, về thực
chất là tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân này.
Ngời bị truy cứu trách nhiệm hành chính buộc phải thực hiện các biện
pháp chế tài hành chính do ngời có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành
chính quyết định. Các biện pháp chế tài hành chính áp dụng đối với ngời bị truy
cứu trách nhiệm hành chính là các biện pháp buộc ngời vi phạm phải chịu
những hạn chế về quyền, tài sản hoặc tự do. Cần phân biệt việc áp dụng chế tài
hành chính đối với ngời bị truy cứu trách nhiệm hành chính với việc áp dụng
các biện pháp cỡng chế hành chính trong một số trờng hợp khác dù việc áp
dụng các biện pháp này cũng làm hạn chế quyền, tài sản hoặc tự do của đối
tợng bị áp dụng. Chẳng hạn, việc cán bộ có thẩm quyền quyết định áp dụng các
biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử phạt hành chính không đồng nghĩa với
việc các đối tợng bị áp dụng các biện pháp này bị truy cứu trách nhiệm hành
chính. Một ngời chỉ bị truy cứu trách nhiệm hành chính khi có đầy đủ cơ sở để
xác định rằng ngời đó đã thực hiện vi phạm hành chính và chế tài hành chính áp
dụng đối với họ là nhằm vào mục đích phạt ngời vi phạm. Trong trờng hợp áp
dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc bảo đảm nh đã nêu trên, cha có đầy đủ
căn cứ để kết luận đối tợng bị áp dụng đã vi phạm hành chính và việc áp dụng
các biện pháp này đối với họ cũng không nhằm mục đích phạt nh khi truy cứu
trách nhiệm hành chính.
Cần lu ý rằng vi phạm hành chính chỉ là cơ sở chung để truy cứu trách
nhiệm hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm. Việc một tổ chức, cá nhân vi
phạm hành chính có bị truy cứu trách nhiệm hành chính trên thực tế hay không
còn phụ thuộc vào việc thực hiện nhiều quy định pháp luật khác có liên quan,
chẳng hạn các quy định về thời hạn và thời hiệu trong xử phạt vi phạm hành
chính. Ví dụ, tổ chức, cá nhân đã thực hiện vi phạm hành chính, nhng vi phạm
hành chính đó đã hết thời hiệu xử phạt theo quy định của pháp luật thì trách
11
nhiệm hành chính cũng sẽ không đặt ra đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành
chính trong trờng hợp này.
Trách nhiệm hành chính đặt ra đối với cả cá nhân và tổ chức bởi lẽ theo
quy định của pháp luật chủ thể vi phạm hành chính có thể là cá nhân hay tổ
chức. Đây là điểm khác biệt giữa trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự
vì trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá nhân thực hiện hành vi phạm tội.
* Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm pháp lý của tổ chức, cá nhân vi
phạm hành chính trớc Nhà nớc.
Tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính đã xâm hại đến trật tự quản lý hành
chính nhà nớc do Nhà nớc thiết lập. Nhà nớc buộc tổ chức, cá nhân vi phạm
hành chính phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi để bảo vệ trật tự quản
lý hành chính nhà nớc mà mình thiết lập ra. Do vậy, việc phải thực hiện biện
pháp chế tài của tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính là trách nhiệm của họ
trớc Nhà nớc chứ không phải trớc một tổ chức, cá nhân cụ thể nào trong xã
hội. Đây là điểm khác biệt giữa trách nhiệm hành chính và trách nhiệm dân sự.
Trong trách nhiệm dân sự việc thực hiện các biện pháp chế tài của tổ chức, cá
nhân bị truy cứu trách nhiệm dân sự là nghĩa vụ của họ trớc một tổ chức, cá
nhân cụ thể có các quyền, lợi ích dân sự bị xâm hại. Trong trờng hợp này, Nhà
nớc là ngời đảm bảo việc thực hiện đầy đủ các biện pháp chế tài dân sự của tổ
chức, cá nhân vi phạm đối với bên bị vi phạm.
* Việc truy cứu trách nhiệm hành chính đợc thực hiện trên cơ sở các quy
định của pháp luật hành chính
Đặc điểm này biểu hiện cụ thể ở những nội dung dới đây:
- Để tiến hành truy cứu trách nhiệm hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi
phạm hành chính, pháp luật hành chính đã xác định cụ thể những ngời có thẩm
quyền thực hiện hoạt động này. Đáp ứng nhu cầu xử lý nhanh chóng, khắc phục
kịp thời hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra, thẩm quyền truy cứu
trách nhiệm hành chính đợc trao cho nhiều cơ quan nhà nớc khác nhau. Những
ngời đợc trao thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính tr
ớc hết và chủ
yếu là những ngời có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nớc trong hệ thống
12
cơ quan quản lý hành chính nhà nớc. Ngoài ra, một số trờng hợp đặc biệt,
thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hành chính còn đợc trao cho thẩm phán toà án
nhân dân và chấp hành viên của cơ quan thi hành án dân sự
- Truy cứu trách nhiệm hành chính phải bảo đảm lựa chọn và áp dụng
đúng pháp luật các biện pháp chế tài hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi
phạm hành chính.
- Truy cứu trách nhiệm hành chính đợc tiến hành theo thủ tục hành chính
do pháp luật hành chính quy định.
Truy cứu trách nhiệm pháp lý nói chung và trách nhiệm hành chính nói
riêng đều tác động trực tiếp đến việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp của các đối
tợng có liên quan. Vì vậy, khi tiến hành truy cứu trách nhiệm hành chính của
các chủ thể có thẩm quyền phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy định về
thủ tục do pháp luật đặt ra. Nếu nh việc truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc dân
sự đòi hỏi phải tuân thủ các quy định về tố tụng t pháp thì thủ tục truy cứu trách
nhiệm hành chính đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính do pháp luật
hành chính quy định. Về căn bản, thủ tục này đòi hỏi ngời có thẩm quyền truy
cứu trách nhiệm hành chính phải thực hiện các công việc theo đúng trình tự về
thời gian, không gian nhằm đảm bảo có đầy đủ các căn cứ cần thiết để tiến hành
truy cứu trách nhiệm hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
một cách nhanh chóng, kịp thời trong thời hạn pháp luật quy định.
1.1.2.2. Xử phạt vi phạm hành chính
a. Khái niệm
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền,
căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính,
quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính và các biện pháp cỡng
chế hành chính khác (trong trờng hợp cần thiết, theo quy định của pháp luật)
đối với các t chức, cá nhân vi phạm hành chính.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính có đặc điểm sau đây:
- Xử phạt vi phạm hành chính đợc áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, vi phạm
13
hành chính là cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính. Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính và các nghị định của Chính phủ quy định hành vi
vi phạm hành chính, hình thức, biện pháp xử phạt hành chính áp dụng đối với tổ
chức, cá nhân vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý hành chính nhà
nớc cụ thể là những cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành hoạt động xử phạt vi
phạm hành chính;
- Xử phạt hành chính đợc tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các văn bản có
quy định về xử phạt vi phạm hành chính xác định cụ thể các chủ thể có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính, hình thức, mức độ xử phạt hành chính mà họ
đợc phép áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính;
- Xử phạt vi phạm hành chính đợc tiến hành theo những nguyên tắc, trình
tự, thủ tục đợc quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính do các cơ quan nhà nớc có thẩm quyền ban hành;
- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính thể hiện ở các quyết
định xử phạt vi phạm hành chính, trong đó ghi nhận các hình thức, biện pháp xử
phạt áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính. Việc quyết định áp
dụng biện pháp xử phạt đó thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của nhà nớc đối
với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính, qua đó giáo dục cho mọi ngời ý
thức tuân thủ pháp luật hành chính nói riêng và pháp luật nói chung.
b. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
Khi tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, ngời có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính phải tuân thủ những nguyên tắc xử phạt đã
đợc quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Theo tinh thần của
Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, hoạt động xử phạt vi phạm hành
chính phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Việc xử phạt vi phạm hành chính phải do ngời có thẩm quyền tiến hành
theo đúng quy định của pháp luật.
- Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt khi có hành vi vi phạm hành chính do
pháp luật quy định;
14
- Mọi vi phạm hành chính phải đợc phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ
ngay. Việc xử lý phải đợc tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu
quả do vi phạm hành chính gây ra phải đợc khắc phục theo đúng pháp luật;
- Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. Một ngời thực
hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi. Nhiều
ngời cùng thực hiện một hành vi thì mỗi ngời vi phạm đều bị xử phạt;
- Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi
phạm, nhân thân ngời vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết
định hình thức, biện pháp xử lý thích hợp;
- Không xử phạt vi phạm hành chính trong trờng hợp thuộc tính thế cấp
thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi
đang mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
c. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính đợc áp dụng đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật. Đây là các hình thức đợc
áp dụng, trớc hết là nhằm trừng phạt ngời vi phạm, thông qua đó giáo dục mọi
ngời ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng các quy tắc của đời sống cộng đồng,
phòng ngừa các vi phạm pháp luật có thể xảy ra. Đối với mỗi vi phạm hành
chính, tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính
là cảnh cáo hoặc phạt tiền.
* Cảnh cáo
Hình thức này đợc áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính
nhỏ, có tình tiết giảm nhẹ, hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do
ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi thực hiện. Khi xử phạt cảnh
cáo, ngời có thẩm quyền quyết định xử phạt bằng văn bản.
Nh vậy, hình thức xử phạt cảnh cáo chỉ đợc áp dụng đối với cá nhân từ
đủ 16 tuổi trở lên hoặc tổ chức vi phạn hành chính khi có đủ các điều kiện sau
đây:
15
- Hành vi vi phạm mà tổ chức, cá nhân thực hiện đợc văn bản pháp luật
quy định là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Điều này xác định rằng
loại hành vi mà tổ chức, cá nhân đã thực hiện là vi phạm nhỏ. Nếu loại vi phạm
mà tổ chức, cá nhân đó thực hiện mà pháp luật quy định chỉ bị áp dụng hình thức
phạt tiền thì không đợc phép áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo;
- Việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với tổ chức, cá nhân vi
phạm hành chỉ đợc thực hiện khi đó là vi phạm lần đầu và có tình tiết giảm nhẹ
theo quy định của Điều 8 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Hình thức xử phạt cảnh cáo khác với hình phạt cảnh cáo ở mức độ nghiêm
khắc của chế tài, cụ thể là: ngời bị toà án tuyên hình phạt cảnh cáo, theo thủ tục
tố tụng hình sự đợc coi là có án tích và bị ghi vào lý lịch t pháp; hình thức xử
phạt hành chính cảnh cáo là hình thức xử phạt mang tính giáo dục đối với tổ
chức, cá nhân vi phạm hành chính; đối tợng bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh
cáo không bị coi là có án tích và không bị ghi vào lý lịch t pháp.
Cũng cần phân biệt hình thức xử phạt cảnh cáo với hình thức kỷ luật cảnh
cáo áp dụng đối với cán bộ, công chức. Hai hình thức này khác nhau ở chỗ:
- Hình thức xử phạt cảnh cáo đợc áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có
hình vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; hình thức kỷ luật cảnh
cáo áp dụng đối với cán bộ, công chức có hành vi vi phạm các quy định của pháp
luật, thông thờng là các quy định có liên quan đến nghĩa vụ của cán bộ, công
chức, các quy định về các việc mà cán bộ công chức không đợc làm, các quy
định về nội quy làm việc trong cơ quan, đơn vị nhng cha đến mức phải truy
cứu trách nhiệm hình sự.
- Hình thức xử phạt cảnh cáo do ngời có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính quyết định áp dụng, theo thủ tục xử phạt vi phạm hành chính đã đợc
pháp luật quy định; hình thức kỷ luật cảnh cáo do thủ trởng cơ quan, đơn vị sử
dụng cán bộ, công chức áp dụng đối với cán bộ, công chức thuộc quyền theo thủ
tục xử lý kỷ luật do pháp luật quy định.
* Phạt tiền
Phạt tiền là hình thức xử phạt chính đợc quy định tại Điều 14 Pháp lệnh
16
xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Nhìn chung, các tổ chức, cá nhân vi phạm
hành chính nếu không thuộc trờng hợp bị xử phạt cảnh cáo thị bị xử phạt bằng
hình thức phạt tiền. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (đã đợc sửa
đổi, bổ sung năm 2007, năm 2008) quy định mức tiền phạt trong xử phạt vi
phạm hành chính là từ 10.000đ đến 500.000.000đ.
Căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, mức phạt tối đa trong các lĩnh vực
quản lý nhà nớc đợc quy định nh sau:
- Phạt tiền tối đa đến 20.000.000đ đợc áp dụng đối với hành vi vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực: Trật tự, an toàn xã hội, quản lý và bảo vệ các
công trình giao thông, quản lý và bảo vệ các công trình thuỷ lợi, lao động, đo
lờng và chất lợng hàng hoá, kế toán thống kê, t pháp, bảo hiểm xã hội.
- Phạt tiền tối đa đến 30.000.000đ đợc áp dụng đối với hành vi vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực: Trật tự, an toàn giao thông đờng bộ, đờng thuỷ,
văn hoá - thông tin, du lịch, phòng, chống tệ nạn xã hội, đất đai, đê điều và
phòng chống lụt, bão, y tế, giá, điện lực, bảo vệ và kiểm dịch thực vật, bảo vệ
nguồn lợi thuỷ sản, thú y, quản lý, bảo vệ rừng, lâm sản, quốc phòng, an ninh.
- Phạt tiền tối đa đến 70.00.000đ đợc áp dụng đối với hành vi vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực: Thơng mại, hải quan, bảo vệ môi trờng, an toàn
và kiểm soát bức xạ, trật tự, an toàn giao thông đờng sắt, xây dựng, bu chính,
viễn thông và tần số vô tuyến điện, chứng khoán, ngân hàng, chuyển giao công
nghệ.
- Phạt tiền tối đa đến 100.000.000đ đợc áp dụng đối với hành vi vi phạm
hành chính trong các lĩnh vực: Khoáng sản, sở hữu trí tuệ, hàng hải, hàng không
dân dụng, thuế (trừ các trờng hợp các luật về thuế có quy định khác).
- Phạt tiền tối đa đến 500.000.000đ đợc áp dụng đối với hành vi xâm
phạm vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm nghiên cứu, thăm dò,
khai thác nguồn lợi thuỷ sản, dầu khí, các tài nguyên thiên nhiên khác.
- Đối với các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà
nớc mà cha đợc quy định tại các lĩnh vực trên đây thì Chính phủ quy định
17
mức phạt tiền, nhng tối đa không vợt quá 100.000.000đ.
Việc lựa chọn, áp dụng mức tiền phạt đôi với ngời vi phạm phải trong
khung phạt cụ thể đợc văn bản pháp luật quy định cho loại vi phạm đã thực hiện
theo cách: khi phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành
chính là mức trung bình của khung tiền phạt đợc quy định đối với hành vi đó;
nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt có thể giảm xuống, nhng không đợc
giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức
phạt tiền có thể tăng lên nhng không đợc vợt quá mức tối đa của khung tiền
phạt.
Ngoài ra, Pháp lệnh hành chính năm 2002 quy định:
- Khi quyết định xử phạt một ngời thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính, thì ngời có thẩm quyền chỉ ra một quyết định xử phạt trong đó quyết
định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm, nếu các hình thức xử
phạt là phạt tiền thì đợc cộng lại thành mức phạt chung.
- Cá nhân, tổ chức vi phạm bị phạt tiền có thể nộp tiền phạt tại chỗ hoặc
tại Kho bạc nhà nớc theo đúng quy định pháp luật và đợc nhận biên lai thu
tiền phạt.
Ngoi các hình thức xử phạt chính nêu trên, tuỳ theo tính chất mức độ vi
phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các
hình thức xử phạt bổ sung là: tớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề; tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng để vi phạm hành chính.
d. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Khác với việc xét xử các hành vi phạm tội mà ở đó thẩm quyền thực hiện
công việc này đợc giao cho một cơ quan duy nhất là toà án thực hiện, việc xử
phạt vi phạm hành chính đợc giao cho nhiều cơ quan, cán bộ có thẩm quyền
khác nhau thực hiện. Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính thuộc về các cơ quan sau đây:
- Uỷ ban nhân dân các cấp;
- Cơ quan công an nhân dân;
18
- Bộ đội biên phòng;
- Cơ quan cảnh sát biển;
- Cơ quan hải quan;
- Cơ quan kiểm lâm;
- Cơ quan thuế;
- Cơ quan quản lý thị trờng;
- Cơ quan Thanh tra chuyên ngành;
- Giám đốc Cảng vụ hàng hải, Giám đốc Cảng vụ thuỷ nội địa, Giám đốc
cảng vụ hàng không;
- Toà án nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự.
Đồng thời, pháp luật cũng quy định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính cụ thể của mỗi cán bộ có thẩm quyền xử phạt trong các cơ quan này.
Cần lu ý rằng, mức phạt tiền mà pháp luật quy định cho những ngời có
thẩm quyền xử phạt nh trên là mức phạt cho một hành vi vi phạm hành chính.
Tuy nhiên, điều này không đợc quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật
trớc kia về xử phạt vi phạm hành chính nên trong nhiều trờng hợp đã xảy ra
những tranh luận xung quanh trờng hợp tổ chức, cá nhân thực hiện đồng thời
nhiều vi phạm hành chính một lúc và mức phạt tiền tổng hợp đối với các tổ chức,
cá nhân này vợt quá mức mà pháp luật quy định cho thẩm quyền của ngời xử
phạt. Về nguyên tắc, nếu tất cả các vi phạm đó đều thuộc thẩm quyền xử phạt
của ngời có thẩm quyền thì dù mức phạt tổng hợp có lớn hơn mức quy định cho
thẩm quyền của ngời xử phạt, vụ việc đó vẫn thuộc thẩm quyền xử phạt của
ngời này. Trờng hợp nếu có một vi phạm hành chính mà mức phạt tiền đợc
pháp luật quy định vợt quá thẩm quyền của ngời xử phạt thì vụ việc đó phải
chuyển cho ngời khác có thẩm quyền xử phạt.
Để khắc phục tình trạng quy định không rõ ràng trên và để đảm bảo cho
việc thực hiện đúng thẩm quyển xử phạt Điều 42 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính 2002 quy định quy tắc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành cụ thể
19
là:
- Chủ tịch Uỷ ban nhân các cấp có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nớc ở địa phơng.
- Ngời có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại các Điều
từ 31 đến Điều 40 của Pháp lệnh 2002 có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính thuộc lĩnh vực, ngành mình quản lý.
- Trong trờng hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của
nhiều ngời, thì việc xử phạt do ngời thụ lý đầu tiên thực hiện.
- Thẩm quyền xử phạt của những ngời quy định tại các Điều từ Điều 28
đến Điều 40 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 là thẩm quyền áp dụng
đối với một hành vi vi phạm hành chính. Trong trờng hợp phạt tiền, thẩm quyền
xử phạt đợc xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối
với từng hành vi vi phạm cụ thể.
- Trong trờng hợp xử phạt một ngời thực hiện nhiều hành vi vi phạm
hành chính thì thẩm quyền xử phạt đợc xác định theo nguyên tắc sau đây:
+ Nếu hình thức, mức xử phạt đợc quy định đối với từng hành vi đều
thuộc thẩm quyền của ngời xử phạt, thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc ngời
đó;
+ Nếu hình thc mức xử phạt đợc quy định đối với một trong các hành vi
vợt quá thẩm quyền của ngời xử phạt, thì ngời đó phải chuyển vụ vi phạm
đến cấp có thẩm quyền xử phạt;
+ Nếu các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều ngời thuộc các
ngành khác nhau, thì thẩm quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các
cấp có thẩm quyền xử phạt nơi xảy ra vi phạm;
đ. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính và một số vấn đề có liên quan
- Thủ tục ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính việc ra quyết định
xử phạt hành chính đợc tiến hành theo thủ tục dới đây:
20
Khi phát hiện ra vi phạm hành chính của các nhân, tổ chức ngời có thẩm
quyền xử phạt phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức.
Nếu xem xét và thấy rằng vi phạm đó của cá nhân, tổ chức chỉ bị phạt ở
mức cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 100.000đ thì ngời có thẩm quyền xử phạt ra
quyết định xử phạt tại chỗ mà không cần phải lập biên bản về hành vi vi phạm
hành chính. Đây là loại thủ tục xử phạt đơn giản.
Nếu thấy rằng vi phạm đó của tổ chức, cá nhân bị phạt tiền ở mức từ
100.000đ trở lên thì ngời có thẩm quyền xử phạt phải thực hiện việc xử phạt
nh sau:
+ Lập biên bản về hành vi vi phạm hành chính. Biên bản này phải có chữ
ký của ngời vi phạm hành chính và của ngời lập biên bản. Nếu có ngời làm
chứng hoặc ngời bị thiệt hại thì họ cùng ký vào biên bản, nếu họ không ký thì
phải ghi rõ lý do vào biên bản. Biên bản lập xong phải giao cho cá nhân, tổ chức
vi phạm một bản, nếu vụ vi phạm vợt quá thẩm quyền xử phạt của ngời lập
biên bản thì ngời đó phải gửi biên bản tới ngời có thẩm quyền xử phạt.
+ Thời hạn ra quyết định xử phạt là mời ngày kể từ ngày lập biên bản về
vi phạm hành chính, đối với vụ vi phạm hành chính có nhiều tình tiết phức tạp
thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 30 ngày. Trong trờng hợp xét cần thêm thời
gian để xác minh, thu thập chứng cứ thì ngời có thẩm quyền phải báo cáo thủ
trởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn, việc gia hạn phải bằng
văn bản. Thời hạn gia hạn không đợc quá 30 ngày.
Trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính, khi xét thấy hành vi vi phạm
có dấu hiệu tội phạm, ngời có thẩm quyền giải quyết phải chuyển hồ sơ vụ việc
đó tới cơ quan bảo vệ pháp luật có thẩm quyền để xem xét xử lý theo pháp luật.
Pháp luật nghiêm cấm việc giữ lại các vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử lý
hành chính.
- Thủ tục thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày ký, trừ trờng hợp trong quyết
định quy định ngày có hiệu lực khác. Quyết định này phải đợc gửi cho tổ chức,
cá nhân vi phạm hành chính và cơ quan thu tiền phạt trong thời hạn ba ngày kể
21
từ ngày ra quyết định. Tổ chức, cá nhân bị xử phạt phải tự nguyện thi hành quyết
định xử phạt trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày đợc giao quyết định xử phạt trừ
trờng hợp pháp luật có quy định khác. Cá nhân, tổ chức bị phạt tiền có thể nộp
tiền phạt tại chỗ cho ngời có thẩm quyền xử phạt (trờng hợp xử phạt theo thủ
tục đơn giản) hoặc nộp tại Kho bạc Nhà nớc. Điều quy định này đã tránh đợc
những khó khăn, phiền hà cho tổ chức, cá nhân bị xử phạt và cả ngời có thẩm
quyền xử phạt. Đồng thời, hạn chế đợc các tiêu cực có thể xảy ra trong xử phạt
vi phạm hành chính.
Hết thời hạn tự nguyên thi hành quyết định xử phạt mà tổ chức, cá nhân
không thi hành quyết định xử phạt thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng các
biện pháp cỡng chế thi hành quyết định xử phạt buộc tổ chức, cá nhân đó phải
thi hành, bao gồm:
+ Khấu trừ một phần lơng hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền tại tài
khoản tại ngân hàng;
+ Kê biên tài sản có giá trị tơng ứng với số tiền phạt để bán đấu giá;
+ áp dụng các biện pháp cỡng chế khác để thi hành quyết định xử phạt.
1.2. Thực trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà
nớc
1.2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kiểm toán nhà nớc
1.2.1.1. Khái lợc quá trình phát triển của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính
Cũng nh bất kỳ lĩnh vực pháp lut nào, pháp luật về vi phạm hành chính
và xử phạt vi phạm hành chính cũng có quá trình ra đời, phát triển và không
ngừng hoàn thiện, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nớc, quản lý xã hội.
Trớc năm 1989, pháp luật về vi phạm hành chính ở nớc ta chỉ dừng lại ở tầm
thấp, đáng kể nhất là Nghị định số 143/CP ngày 25/10/ 1997 của Chính phủ về
phạt vi cảnh. Khai niệm vi cảnh đợc hiểu tơng tự nh khái niệm vi phạm
hành chính sau này, nhng với tính chất nhẹ, mức độ thiệt hại nhỏ. Bớc ngoặt
cơ bản là Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989 đợc ban hành
22
và có hiệu lực từ ngày 01/01/1990 (Pháp lệnh 1989). Đây là văn bản đầu tiên có
tầm pháp lệnh quy định về trách nhiệm hành chính và quy định đầy đủ hơn, cụ
thể hơn, chặt chẽ hơn Nghị định số 143/CP của Chính phủ về nhiều vấn đề cơ
bản. Tuy nhiên, do sự biến đổi nhanh chóng của đời sống xã hội, nhất là về giá
trị đồng tiền, biến động về tổ chức bộ máy hành chính, Pháp lệnh năm 1989 và
các nghị định hớng dẫn thi hành đã sớm bộc lộ sự lạc hậu, cần phải đợc sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 (Pháp
lệnh 1995) ra đời, thay thế Pháp lệnh năm 1989. Ngoài việc quy định lại các loại
khung phạt tiền cho phù hợp, các chủ thể có thẩm quyền xử lý và thủ tục xử lý vi
phạm hành chính cụ thể hơn, Pháp lệnh 1995 có sửa đổi rất quan trọng là đã đa
vào pháp lệnh các biện pháp hành chính khác và điều chỉnh thủ tục áp dụng
các biện pháp này rất chi tiết, chiếm một số lợng rất lớn các điều của pháp lệnh.
Thời kỳ này, Chính phủ ban hành khoảng 50 nghị định để hớng dẫn thi hành
Pháp lệnh 1995. Nhng rồi cũng vì những lý do tơng tự khi ban hành Pháp lệnh
1995 mà Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (Pháp lệnh 2002) đợc
ban hành, thay thế Pháp lệnh 1995, trong đó các biện pháp hành chính khác
đợc giữ nguyên với những sửa đổi không đáng kể. Tiếp đến là Pháp lệnh ban
hành năm 2007 (Pháp lệnh 2007) bãi bỏ biện pháp quản chế hành chính và
những điều liên quan của Pháp lệnh 2002. Lại cũng vì những lý do tơng tự nh
trớc mà Pháp lệnh ban hành 02/4/2008 (Pháp lệnh 2008) sửa đổi, bổ sung một
lần nữa một số điều của Pháp lệnh 2002 (có hiệu lực từ 01/8/2008). Các biện
pháp hành chính khác đợc giữ nguyên nh Pháp lệnh 2007. Từ khi ban hành
Pháp lệnh 2002, Chính phủ ban hành khoảng 70 nghị định để hớng dẫn thi hành
Pháp lệnh này, cha kể Nghị định số 134/2003/NĐ-CP hớng dẫn thi hành Pháp
lệnh 2002 và Nghị định số 37/2005/NĐ-CP quy định thủ tục áp dụng các biện
pháp cỡng chế thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời, để thi
hành pháp lệnh 2008, Chính phủ sẽ phải ban hành một loạt các nghị định mới để
thay thế các nghị định cũ đợc ban hành trên cơ sở Pháp lệnh 2002.
Nh vậy, có thể hình dung hệ thống pháp luật về vi phạm hành chính nớc
ta đồ sộ và thay đổi nhanh, khó theo dõi nh thế nào, không chỉ đối với ngời áp
dụng, ngời bị áp dụng, mà cả đối với ngời nghiên cứu. Tuy các pháp lệnh và
nghị định liên tục sửa đổi kế tiếp nhau, thay đổi nhanh, nhng với kiểu chắp vá,
23
đa ra các giải pháp tình thế nên vẫn không thể theo kịp biến động của thực tiễn,
nhất là dới tác động của các yếu tố kinh tế thị trờng và hội nhập quốc tế, lạm
phát, đồng tiền mất giá Mặt khác, khi có quá nhiều nghị định thì không chỉ
trong ban hành dễ bị chồng chéo, mâu thuẫn mà khi thực hiện cũng rất khó theo
dõi và do đó lại dễ xảy ra vi phạm. Hơn nữa, các nghị định này cũng giống nh
các nghị định trong các lĩnh vực khác, đều mắc một chứng tật chung là rất nhiều
chỗ copy lại pháp lệnh, luật và copy lẫn nhau nên rất khó theo dõi.
Quá trình ban hành, sửa đổi, bổ sung các pháp lệnh và kéo theo là các
nghị định là một quá trình hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính làm
cho nó thích ứng với cuộc sống. Vì vậy, không thể phủ nhận rằng các pháp lệnh
và nghị định đã đem lại kết quả đáng kể trong lĩnh vực phòng và xử lý vi phạm
hành chính, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Mỗi pháp lệnh mới đợc ban hành là
một bớc tiến mới của công tác lập pháp, có những kinh nghiệm không thể xem
nhẹ cần kế thừa, phát huy.
Tuy nhiên, trong nội dung hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
vẫn còn không ít những tồn tại cơ bản. Một nguyên nhân lớn của tình trạng này
là do sự thiếu hụt về lý luận, dẫn đến hậu quả là phơng pháp điều chỉnh pháp
luật còn nhiều bất cập với thực tiễn.
1.2.1.2. Thực trạng quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực kiểm toán nhà nớc
Đối với lĩnh vực hoạt động kiểm toán nhà nớc, mặc dù đã có quá trình ra
đời và phát triển gần 15 năm, hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nớc không
ngừng hoàn thiện, đặc biệt là việc ban hành Luật Kiểm toán nhà nớc (có hiệu
lực từ ngày 01/01/2006). Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về kiểm toán nhà nớc hiện
hành cha cú cỏc quy định c th về chế tài đối với các hành vi vi phạm pháp luật
kiểm toán nhà nớc. Trong hoạt động kiểm toán cũng nh trong bất cứ lĩnh vực
hoạt động nào khác, hệ thống pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh
nhất thiết phải bao gồm các quy định về chế tài để xử lý các vi phạm của các bên
tham gia trong các quan hệ đó. Các quy định về chế tài có ý nghĩa thực tiễn rất
quan trọng để tăng c
ờng pháp chế trong hoạt động kiểm toán đảm bảo hoạt
động kiểm toán diễn ra theo đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật
hiện hành về kiểm toán hầu nh cha có các quy định về chế tài trong các trờng
24
hợp vi phạm của n v đợc kiểm toán, của kiểm toán viên, doanh nghip kiểm
toán, các tổ chức và cá nhân có liên quan (trừ một số quy định rất chung nh:
chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm trớc pháp luật; tuỳ
theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật ).
Hệ thống pháp luật về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính của
nớc ta mặc dù liên tục đợc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cho phù hợp thực tiễn
quản lý nhà nớc, song cũng cha có quy định nào đề cập đến các hành vi vi
phạm pháp luật kiểm toán nhà nớc và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có
hành vi vi phạm đó. Trong khi đó hầu hết các lĩnh vực của quản lý nhà nớc,
trong đó có những lĩnh vực rất mới nh chứng khoán và thị trờng chứng khoán,
hoặc có những lĩnh vực đặc thù nh t pháp (xét xử, thi hành án dân sự) đều đã
có nghị định của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng
lĩnh vực đó.
Chính do cha có các quy định về chế tài một cách cụ thể và đầy đủ cho nên
việc chấp hành pháp luật về kiểm toán cha nghiêm, phần nào đã ảnh hởng đến chất
lợng và hiệu qa hoạt động ca Kiểm toán Nhà nớc v hiu lc phỏp lut v kiểm
toán nhà nớc.
1.2.2. Thực trạng vi phạm hành chính trong hoạt động kiểm toán nhà
nớc
Thực tế, qua gần 5 năm thực hiện Luật Kiểm toán nhà nớc, nhiều trờng
hợp vi phạm pháp luật của đơn vị đợc kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên
quan nh: không cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu; không thực
hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận, kiến nghị kiểm toán; cản trở việc kiểm toán;
che dấu các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, ngân sách , song cha có
quy định xử lý vi phạm đã làm giảm hiệu lực của hoạt động kiểm toán nói riêng
và tính nghiêm minh của pháp luật nói chung.
Vi phạm hành chính trong hoạt động KTNN có thể khái quát theo 03
nhóm hành vi sau đây:
Thứ nhất, trong quá trình thực hiện hoạt động kiểm toán hnh vi vi phm
hnh chớnh trong lnh vc kim toỏn nh nc ca đơn vị đợc kiểm toán và tổ