Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên thực trạng ở huyễn vũng liêm tĩnh vĩnh long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.44 KB, 69 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT HÀNH CHÍNH

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 37
Đề tài:

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

CN. Võ Nguyễn Nam Trung

Đặng Văn Phước
MSSV: 5115923
Lớp: Luật thương mại 2 – K37

Cần Thơ 11/2014


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 2
5. Bố cục đề tài ..................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ............................................................................... 4
1.1. Khái quát về vi phạm hành chính ...................................................................... 4
1.1.1. Khái niệm hành vi vi phạm hành chính....................................................... 4
1.1.2. Đặc điểm của hành vi vi phạm hành chính.................................................. 5
1.1.3. Dấu hiệu của hành vi vi phạm hành chính .................................................. 7
1.2. Những vấn đề chung về người chưa thành niên ................................................ 7
1.2.1. Khái niệm người chưa thành niên ............................................................... 7
1.2.2. Đối tượng vi phạm hành chính là người chưa thành niên ............................ 9
1.2.3. Đặc điểm hành vi vi phạm hành chính của người chưa thành niên ............ 10
1.2.4. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với
người chưa thành niên ........................................................................................ 12
1.3. Khái quát về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên.............................................................................................................. 17
1.3.1. Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính .............................................. 17
1.3.2. Các biện pháp xử phạt áp dụng đối với người chưa thành niên. ................ 21

CHƯƠNG 2 CÁC BIỆN PHÁP XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ............................................................................. 25
2.1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên...... 25
2.1.1. Phạt cảnh cáo ........................................................................................... 26
2.1.2. Phạt tiền ................................................................................................... 28
2.1.3. Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính .................................. 31
2.2. Các biện pháp khắc phục hậu quả ................................................................... 33
2.2.1. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu ...................................................... 34
2.2.2. Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây
lan dịch bệnh ...................................................................................................... 35
2.2.3. Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật
nuôi, cây trồng và môi trường; văn hóa phẩm có nội dung độc hại. .................... 36


2.2.4. Buộc nộp lại khoản thu bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm
hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện đã bị tiêu thụ, tẩu tán,
tiêu hủy trái với quy định của pháp luật.............................................................. 39
2.3. Các biện pháp thay thế xử phạt vi phạm hành chính ....................................... 40
2.3.1. Nhắc nhở .................................................................................................. 42
2.3.2. Quản lý tại gia đình .................................................................................. 43
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VI PHẠM HÀNH
CHÍNH Ở HUYỆN VŨNG LIÊM – TỈNH VĨNH LONG, BẤT CẬP VÀ GIẢI
PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ................ 45
3.1. Tình hình thực tiễn về người chưa thành niên vi phạm hành chính ................. 45
3.1.1. Tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật ở huyện Vũng Liêm . 45
3.1.2. Tình hình người chưa thành niên vi phạm hành chính trên địa bàn huyện
Vũng Liêm ......................................................................................................... 46
3.2. Thực tiễn việc áp dụng các hình thức xử phạt đối với người chưa thành niên ở
huyện Vũng Liêm.................................................................................................. 48

3.3. Một số bất cập của pháp luật về quy định áp dụng các hình thức xử phạt vi
phạm hành chính đối với người chưa thành niên.................................................... 50
3.3.1. Vấn đề áp dụng hình thức phạt tiền đối với người chưa thành niên ........... 51
3.3.2. Vấn đề áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên
........................................................................................................................... 54
3.4.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về các biện pháp xử phạt vi phạm
hành chính đối với người chưa thành niên .......................................................... 56
3.4.2. Một số phương hướng để nâng cao hiệu quả trong công tác xử phạt vi phạm
hành chính đối với người chưa thành niên .......................................................... 57
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 61


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, do tác động của công cuộc đổi mới và quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước nền kinh tế của nước ta đang có sự chuyển biến
tích cực và đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực
cùng với những thành tựu nhất định thì vẫn còn một số hạn chế như là tình trạng tệ
nạn xã hội, vi phạm pháp luật diễn ra ngoài xã hội đang ngày một gia tăng theo những
con số đáng báo động. Điều đáng lưu ý hơn rằng là tình trạng tệ nạn xã hội, vi phạm
pháp luật diễn ra ngoài xã hội hiện nay có sự tham gia của các đối tượng là người
chưa thành niên, số lượng hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng này đang tăng
theo từng ngày, từng giờ với nhiều thủ đoạn, tính chất, mức độ tinh vi và đặc biệt là
ngày càng nguy hiểm hơn. Chính vì lý do này mà đòi hỏi pháp luật hiện hành cần phải
có những giải pháp cụ thể, những giải pháp này khi đưa ra phải phù hợp để vừa bảo
vệ được lợi ích cho người chưa thành niên, vừa phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh

với các hành vi vi phạm pháp luật do người chưa thành niên thực hiện.
Người chưa thành niên là thế hệ trẻ, chủ nhân tương lai của đất nước. Họ nắm
giữ vận mệnh của đất nước trong tay, hành động của họ quyết định định đến sự phát
triển hay suy thoái của một quốc gia. Để một quốc gia phát triển giàu mạnh với một
nền xã hội văn minh thì ngay từ lúc đầu họ phải được quan tâm, giáo dục một cách
đúng đắn nhất để tạo cho người chưa thành niên có sự nhận thức đúng đắn về vai trò
của mình đối với xã hội, đồng thời tạo cho họ có một ý thức tôn trọng và chấp hành
nghiêm các quy định của pháp luật.
Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực từ ngày 1/7/2013 do cơ
quan lập pháp của nước ta ban hành đã xác định tầm quan trọng của việc xử phạt khi
giáo dục đối với người chưa thành niên nên đã dành hẳn một phần riêng biệt để quy
định đối với người chưa thành niên. Chính vì các lý do nêu trên cùng với việc người
viết muốn tìm hiểu và phân tích tích thật sâu về vấn đề xử phạt đối với người chưa
thành niên và nghiên cứu thực trạng của việc xử phạt vi phạm hành chính người chưa
thành niên ở huyện Vũng Liêm nên người viết đã chọn đề tài “Các biện pháp xử phạt
vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên – Thực trạng ở huyện Vũng Liêm,
tỉnh Vĩnh Long”. Mặt khác, người viết muốn chuyển tải kiến thức một cách rõ nhất
đến người đọc đề từ đó họ hiều hơn về tính chất của việc xử phạt đối với người chưa
thành niên. Cùng với đó là người viết muốn tìm ra nhửng điểm hạn chế, bất cập để
góp phần hoàn thiện các biện pháp xử phạt đối với
GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

1

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long

người chưa thành niên trên cả nước nói chung và ở địa bàn huyện Vũng Liêm nói
riêng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn này là nhằm tìm hiểu về biện pháp xử phạt
vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên, từ đó tìm ra những điểm hạn chế,
bất cập trong các quy định của pháp luật. Đồng thời đưa ra các giải pháp để hoàn
thiện các quy định của pháp luật và nêu lên một số phương hướng để góp phần nâng
cao hiệu quả trong công tác xử phạt, góp phần hoàn thiện ngành luật hành chính nói
riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
3. Phạm vi nghiên cứu
Người chưa thành niên vi phạm hành chính là một đề tài khá rộng, đòi hỏi rất
nhiều kiến thức. Do đó, người viết tự giới hạn phạm vi nghiên cứu cho mình là chỉ
trong các biện pháp xử phạt, bao gồm các hình thức xử phạt, các biện pháp khắc phục
hậu quả và các biện pháp thay thế xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi để việc nghiên cứu đạt được hiệu quả tối ưu
nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này người viết sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
kết hợp lại với nhau như là phương pháp phân tích luật viết, phương pháp bình luận,
phương pháp suy luận, phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu và phương pháp
liệt kê.
5. Bố cục đề tài
Kết cấu của đề tài này gồm có ba phần chính: Lời mở đầu, phần nội dung và
phần kết luận, trong phần nội dung của đề tài gồm có ba chương sau:
Chương 1: Khái quát về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành
niên
Trong chương này thì người viết chủ yếu là tìm hiểu và nêu một cách khái quát
về vi phạm hành chính như là khái niệm, đặc điểm và dấu hiệu của hành vi vi phạm
hành chính, hay phần những vấn đề chung về người chưa thành niên vi phạm hành
chính thì người viết nêu được khái niệm, đặc điểm, đối tượng về người chưa thành

niên vi phạm hành chính và các nguyên tắc trong việc xử phạt vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên. Đặc biệt trong phần này thì người viết có nêu một cách
khái quát về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, đặc biệt là các biện pháp xử
phạt đối với người chưa thành niên.
GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

2

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
Chương 2: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên
Chương 2 là chương mà người viết nghiên cứu, phân tích và đưa ra các bình
luận các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên trong đó có các hình thức xử phạt, các biện pháp khắc phục hậu quả và các
biện pháp thay thế xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên đồng
thời người viết có nêu thêm các ví dụ cho từng trường hợp cụ thể đề người đọc có thể
hiểu rõ hơn. Căn cứ vào những phân tích trong chương này mà người viết tìm ra được
các bất cập của pháp luật đề trình bày ở chương 3.
Chương 3: Thực trạng người chưa thành niên vi phạm hành chính ở huyện
Vũng Liêm – tỉnh Vĩnh Long, bất cập và giải pháp để hoàn thiện các quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Chương này người viết cập nhật tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp
luật và vi phạm hành chính trên cả nước cùng với đó là người viết có nêu được, vi
phạm hành chính ở địa bàn huyện Vũng Liêm và thực trạng việc áp dụng các hình
thức xử phạt đối với người chưa thành niên ở huyện Vũng Liêm. Từ kết quả phân tích

ở chương 2 thì trong chương này thì người viết cũng nêu được các bất cập trong quy
định của pháp luật và giải pháp để hoàn thiện các bất cập này. Đồng thời người viết
cũng nêu một số phương hướng để nâng cao công tác xử phạt vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

3

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Khái quát về vi phạm hành chính
1.1.1. Khái niệm hành vi vi phạm hành chính
Hành vi vi phạm hành chính là một loại vi phạm phạm pháp luật xảy ra khá
phổ biến trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm mà nó gây ra cho xã hội thấp
hơn so với hành vi vi phạm được quy định trong Bộ luật hình sự (tội phạm) nhưng
hành vi vi phạm hành chính lại là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa sẽ gây thiệt hại
cho lợi ích của nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn
thể cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội phát sinh trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội nếu như nó không được ngăn chặn và có biện pháp xử lý kịp thời.
Chính vì lẽ đó mà công tác đấu tranh phòng và chống các hành vi vi phạm hành chính
luôn là vấn đề được Đảng, Nhà nước và xã hội ta đặc biệt quan tâm. Về văn bản quy
phạm pháp luật thì từ trước đến nay Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản quy

phạm pháp luật quy định về vi phạm hành chính để kịp thời phòng chống và xử lý các
hành vi vi phạm này. Trong đó phải kể đến các văn bản như là Nghị định 143/CP
ngày 27/5/1977 do Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ xử phạt vi cảnh, Pháp lệnh
xử phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
ngày 6/7/1995, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 2/7/2002 và văn bản đang
có hiệu lực pháp lý hiện hành là Luật xử lý vi phạm hành chính và hàng loạt các văn
bản như là Nghị định quy định cụ thể về việc xử lý các hành vi vi phạm hành chính
trên các lĩnh vực khác của quản lý hành chính nhà nước1.
Tuy nhiên, qua rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật nêu trên thì có thể thấy
các khái niệm về vi phạm hành chính chỉ được nêu ra cụ thể ở một số văn bản, các
văn bản còn lại chỉ nêu một cách khái quát, cụ thể : Trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm
hành chính năm 1989 thì lần đầu tiên định nghĩa vi phạm hành chính được ra đời và
nó được nêu ra tại Điều 1, được quy định như sau “Vi phạm hành chính là hành vi do
cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến các quy tắc quản lý
nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính”2. Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 chỉ định
nghĩa vi phạm hành chính một cách gián tiếp tại khoản 2 Điều 1 “Xử phạt vi phạm
1

Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, năm
2005, trang 273.
2
Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1989.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

4

SVTH: Đặng Văn Phước



Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm
các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”3, còn ở khoản 2 Điều 1 của Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 được sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm
2008 thì vi phạm hành chính cũng được định nghĩa một cách gián tiếp “Xử phạt vi
phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung
là cá nhân tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính”4. Còn theo Luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành thì định
nghĩa về vi phạm hành chính được nêu ra một cách cụ thể hơn, tại khoản 1 Điều 2 quy
định “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”5.
Qua các văn bản trên có thể cho thấy tuy cách diễn đạt về vi phạm hành chính
là khác nhau nhưng chúng đều chúng đều thống nhất với nhau về dấu hiệu và bản chất
của loại vi phạm này. Trên cơ sở những nội dung về vi phạm hành chính được nêu
trên ra trong bốn văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa hành
vi vi phạm hành chính như sau “Hành vi vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ
chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước mà không phải là tội phạm và phải bị xử phạt hành chính theo quy định của
pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm của hành vi vi phạm hành chính
Hành vi vi phạm hành chính là hành vi xâm phạm trật tự quản lý hành chính nhà
nước do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý (đối với tổ chức yếu tố lỗi
phải được xác định ở từng con người cụ thể có liên quan). Điều này được hiểu là các
cá nhân, tổ chức thực hiện các vi phạm hành chính với lỗi cố ý hoặc vô ý có khả năng

làm thay đổi trật tự bình thường của quản lý hành chính nhà nước. Vi phạm hành
chính là loại vi phạm xâm phạm hoặc có nguy cơ xâm hại đến các quan hệ xã hội hình
thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Các quan hệ này được nhà nước
điều chỉnh bằng pháp luật. Mặc dù có nội dung đa dạng nhưng các quan hệ xã hội
trong quản lý nhà nước được sắp xếp, phân loại thành những nhóm nhất định do quy
phạm pháp luật hành chính điều chỉnh tạo nên trật tự quản lý nhà nước. Về mặt hình
3

Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995.
Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 sửa đổi, bổ sung năm 2007 và năm 2008.
5
Khoản 1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
4

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

5

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
thức pháp lý, các trật tự này được biểu hiện thành các quy tắc quản lý nhà nước. Các
cá nhân, tổ chức khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính xâm hại đến các quy tắc
quản lý nhà nước là khả năng làm tổn hại đến các quan hệ được xã hội quy định và
bảo vệ.
Khi xét một hành vi có vi pham hành chính hay không thì chỉ cần hành vi đó vi
phạm chứ không cần nhất thiết phải có hậu quả xảy ra. Hành vi ở đây được hiểu là

những biểu hiện của con người hoặc tổ chức tác động vào thế giới khách quan dưới
những hình thức bên ngoài. Đối với những hành vi này khi xác định có vi phạm hành
chính hay không thì cần xét đến những hành vi đó có xâm phạm đến trật tự quản lý
nhà nước hay không nếu như hành vi đó có xâm phạm thì coi như đã vi phạm chứ
không cần phải có hậu quả xảy ra. Ví dụ như là hành vi vượt đèn đỏ, khi xét hành vi
này có vi phạm hành chính hay không thì ta phải xem xét hành vi vượt đèn đỏ có
được pháp luật hành chính trong lĩnh vực giao thông, đường bộ quy định là vi phạm
hay không chứ không cần thiết phải gây tai nạn giao thông xảy ra mới vi phạm.
Hành vi vi phạm hành chính là hành vi được pháp luật quy định phải bị xử phạt
hành chính. Đây được xem như là một quy định có tính quy kết đối với người thực
hiện hành vi vi phạm hành chính bởi vì theo như đặc điểm này thì khi một chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm hành chính thì nhất định chủ thể đó phải chịu các biện pháp
xử phạt tương ứng với hành vi vi phạm do mình gây ra. Điều này cũng có nghĩa là
nếu các chủ thể thực hiện hành vi mà không bị xử lý vi phạm hành chính nói chung và
xử phạt vi phạm hành chính nói riêng thì hành vi đó không phải là hành vi vi phạm
hành chính. Điều đó không có nghĩa là có hành vi vi phạm hành chính thì đều áp dụng
các biện pháp xử phạt, mà cần cân nhắc kỹ lưỡng mọi tình tiết, để có thể áp dụng các
biện pháp tác động khác.
Hành vi vi phạm hành chính không đồng thời là tội phạm. Hành vi vi phạm hành
chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện:
+ Đối với cá nhân khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính thì mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi đó thấp hơn so với hành vi được luật hình sự quy
định là tội phạm . Đây được xem là dấu hiệu quan trọng để phân biệt vi phạm
hành chính với tội phạm.
+ Đối với hành vi do tổ chức thực hiện thì mức độ nguy hiểm của hành vi đó
không thể so sánh với mức độ nguy hiểm do luật hình sự quy định vì tổ chức
không là chủ thể trong quan hệ pháp luật hình sự.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung


6

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
1.1.3. Dấu hiệu của hành vi vi phạm hành chính
Để xác định một hành vi có vi phạm pháp luật không thì cần phải xét các dấu
hiệu của hành vi vi phạm đó để xác định nó có thỏa mãn các dấu hiệu của vi phạm
pháp luật không. Vi phạm hành chính cũng thế, khi xác định một hành vi có phải là vi
phạm hành chính không thì cần xác định các dấu hiệu của hành vi vi phạm đó xem nó
có thỏa mãn các dấu hiệu của hành vi vi phạm hành chính không, cụ thể các dấu hiệu
hành vi vi phạm hành chính bao gồm: Tính trái pháp luật của hành vi, tính có lỗi của
hành vi, hành vi đó bị xử phạt hành chính hoặc bị áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính khác
+ “Tính trái pháp luật là hành vi thể hiện ở chỗ hành vi đó được thực hiện
ngược lại với các quy định của pháp luật. Đó là hành động bị pháp luật hành chính
cấm thực hiện, hoặc không thực hiện hành động mà pháp luật hành chính buộc phải
thực hiện.
+ Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi. Những người bình thường đạt
tới độ tuổi nhất định đều có khả năng điều khiển, nhận thức được tính chất nguy hại
cho xã hội của hành vi, hậu quả của hành vi. Vì vậy lỗi là trạng thái tâm lý, thái độ
của người vi phạm đối với hành vi, hậu quả của hành vi đó, tại thời điểm thực hiện
hành vi, không có lỗi thì không coi là vi phạm hành chính.
+ Vi phạm hành chính – là hành vi bị xử phạt hành chính hoặc bị áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính khác. Đây là đặc điểm có tính quy kết, vì nhà làm luật quy
định những hành vi nào là vi phạm hành chính và định ra biện pháp, mức phạt đối với
hành vi đó. Một hành vi không bị xử phạt hành chính thì không phải là vi phạm hành

chính. Điều đó không có nghĩa là có vi phạm hành chính thì đều áp dụng biện pháp xử
phạt, mà cần cân nhắc kỹ lưỡng mọi tình tiết, để có thể áp dụng các biện pháp tác
động khác cho phù hợp với hành vi vi phạm”6.
1.2. Những vấn đề chung về người chưa thành niên
1.2.1. Khái niệm người chưa thành niên
Hiện nay, các định nghĩa đối với đối tượng là người chưa thành niên ở nước ta
được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Bên cạnh đó, trong
một số văn bản cũng có quy định về đối tượng “trẻ em”, đây là đối tượng mà theo
người viết cũng nằm trong nhóm đối tượng là người chưa thành niên.

6

PGS.TS Phạm Hồng Thái – PGS.TS Đinh Văn Mậu, Tìm hiểu pháp luật Luật hành chính Việt Nam, NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996, trang 240.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

7

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
Tuy nhiên, hai khái niệm này có điểm giống nhau và cũng có điểm khác nhau
mà cụ thể sự khác nhau và giống nhau ở đây đều là về độ tuổi. Thứ nhất, về khái niệm
đối tượng là “trẻ em” được quy định trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004 tại điều 1 quy định “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”7, còn trong
Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (20/11/1989) được Việt Nam phê

chuẩn năm 1990 lại xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật
được áp dụng đối với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn (Điều 1). Thứ hai,
khái niệm về người chưa thành niên cũng được quy định ở nhiều văn bản quy phạm
pháp luật khác nhau như là tại Điều 68 Bộ luật hình sự năm 1999 sữa đổi, bổ sung
năm 2009 thì xác định người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Còn trong Bộ luật lao động năm 2012 thì chỉ xác định người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi. Tại Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành
chính, tại khoản 2 Điều 15 quy định điều kiện để áp dụng biện pháp nhắc nhở đối với
người chưa thành niên. Theo đó người chưa thành niên sẽ được chia thành hai nhóm:
người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người chưa thành niên từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Từ quy định này mà có thể hiểu người chưa thành niên theo
Nghị định này là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Còn đối với Bộ luật dân sự
năm 2005 tại Điều 18 lại xác định “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành
niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên”8. Qua các khái niệm về
người chưa thành niên được nêu ở các văn bản phạm pháp luật nêu trên thì theo người
viết quy định về người chưa thành niên ở Bộ luật dân sự là quan trọng nhất đây được
xem là một văn bản gốc, quy định trong bộ luật này là quy định nền tảng để các nhà
làm luật khi xây dựng các nghành luật khác quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ đối
với người chưa thành niên. Và như cách diễn giải nêu trên còn có thể thấy điểm chung
giữa người “chưa thành niên” và “trẻ em” đều là những người chưa đủ 18 tuổi. Đối
với các đối tượng này thì tùy vào từng độ tuổi cụ thể mà họ có thể sẽ được hưởng các
quyền và thực hiện các nghĩa vụ khác nhau, đồng thời thì họ cũng sẽ không thực hiện
các nghĩa vụ và hưởng các quyền mà pháp luật không cho phép.
Chính vì vậy mà căn cứ vào đó người viết có thể đưa ra khái niệm về người
chưa thành niên, cụ thể như sau “Người chưa thành niên là người đã đạt đến một độ
tuổi nhất định, độ tuổi được pháp luật xác nhận có tư cách chủ thể khi tham gia vào
quan hệ pháp luật cho đến dưới 18 tuổi”.
7
8


Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

8

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
1.2.2. Đối tượng vi phạm hành chính là người chưa thành niên
Bất cứ ngành luật nào cũng cần xác định đối tượng nào là đối tượng nằm trong
phạm vi điều chỉnh của mình ngành luật hành chính cũng vậy. Đối tượng điều chỉnh
của ngành luật hành chính được quy định tại Điều 5 của Luật xử lý vi phạm hành
chính, cụ thể:
“Đối với đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính thì bao gồm các chủ thể sau:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý, người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính
về mọi vi phạm hành chính.
Người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vi phạm hành
chính thì bị xử lý như đối với công dân khác, trường hợp cần áp dụng hình thức phạt
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hoặc đình chỉ hoạt động có thời
hạn liên quan đến quốc phòng, an ninh thì người xử phạt đề nghị cơ quan, đơn vị
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân có thẩm quyền xử lý.
Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình
gây ra.

Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ, vùng
tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, trên tàu bay mang quốc tịch Việt Nam, tàu biển mang cờ quốc
tịch Việt Nam thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt
Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên có quy định khác.
Đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính: là các cá nhân được quy định tại các
điều 90, 92, 94 và 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, khi áp dụng biện
pháp này cần phải lưu ý rằng biện pháp này không áp dụng đối với cá nhân là người
nước ngoài”9.
Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu ở đây chỉ trong phạm vi xử phạt vi phạm
hành chính đối với người chưa thành niên nên đối tượng có năng lực trách nhiệm
hành chính của người chưa thành niên là những đối tượng từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi, theo Luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành thì đối tượng điều chỉnh là người
chưa thành niên khi bị xử phạt vi phạm hành chính được chia làm hai nhóm tuổi:

9

Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

9

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý.
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi
phạm hành chính do mình gây ra.
1.2.3. Đặc điểm hành vi vi phạm hành chính của người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người đang ở thời điểm bắt đầu hình thành
nên tư tưởng, suy nghĩ ban đầu của tuổi trưởng thành, trong giai đoạn này quá trình
phát triển về thể chất, cảm xúc và ý thức xã hội diễn ra rất mạnh mẽ ở mỗi cá nhân,
cùng với đó là sự phát triển của các nội tiết tố đã thúc đẩy sự phát triển của cơ thể.
Chính vì thế mà có thể nói đây là một giai đoạn mà sự phát triển về tâm lý của người
chưa thành niên rất phức tạp, mẫn cảm, dễ thay đổi và khó lường trước được vì vậy
mà đối tượng này dễ bị tác động bởi các yếu tố về môi trường bên ngoài. Chính vì
điều này mà vi phạm hành chính của người chưa thành niên khác với vi phạm hành
chính do người đã thành niên thực hiện, vi pham hành chính do người chưa thành niên
thực hiện có các đặc điểm riêng biệt sau:
+ Các vi phạm hành chính do người chưa thành niên thực hiện với động cơ, mục
đích thường là bộc phát nhất thời và không nghĩ đến những hậu quả do hành vi
mình đã gây ra.

Động cơ, mục đích khi người chưa thành niên thực hiện vi phạm hành
chính thường là không được suy tính trước chỉ thực hiện để chứng tỏ mình hay
nge theo những lời xúi dục từ bạn bè, thiếu tự chủ và tính hiếu thắng trong việc
giải quyết các tình huống dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và
vi phạm hành chính nói riêng.

Suy nghĩ của người chưa thành niên rất đơn giản họ sẽ không lường
trước được các hậu quả do hành vi của mình gây ra. Ví dụ như là khi xảy ra
một vụ va quẹt giao thông khi được thực hiện bởi người chưa thành niên bằng
sự hiếu thắng của mình thì thông thường họ sẽ giải quyết bằng hành động
(đánh nhau) mà họ không cần nghĩ đến hậu quả là họ đã vi phạm phạm pháp

luật và họ có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi
mình đã thực hiện, còn đối với đối tượng là người đã thành niên khi gặp một
tình huống tương tự thì họ sẽ giải quyết bằng lời nói (sự thỏa thuận) bằng
chính suy nghĩ đúng đắn của mình.
+ Cách thức thực hiện một vi phạm của người chưa thành niên thường là một vi
phạm đơn giản, nhanh lẹ, vội vã và sẽ ít có quyết tâm thực hiện đến cùng nếu bị
GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

10

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
ngăn cản. Đây được xem là điểm khác biệt cơ bản giữa hành vi vi phạm hành
chính do người đã thành niên thực hiện và người chưa thành niên thực hiện. Ví
dụ như là khi người đã thành niện thực hiện hành vi trái pháp luật hành chính để
kiếm lợi bất chính thì cách thức, thủ đoạn tiến hành thường được chuẩn bị trước,
có khi rất tinh vi, phức tạp và quyết tâm hoàn thành hành vi dù có trở ngại
khách quan, còn đối với người chưa thành niên nhất là những em có hoàn cảnh
đặc biệt, như khuyết tật, mồ côi, không nơi nương tựa, bị bỏ rơi, bỏ nhà
sống lang thang, những em là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân
của nghiện ngập ma túy, những em có thói quen đua đòi mua sắm, tiêu xài sang
trọng thì cách thức thực hiện, hành vi vi phạm đơn giản hơn nhiều. Các em
này thường bị áp lực do lệ thuộc về vật chất, nghiện ngập, nên dễ bị
người lớn điều khiển, sai khiến hoặc tự mình tham gia những việc làm trái pháp
luật như trộm cắp, cướp giật và các em thường là không thực hiện hành vi đó
đến cùng nếu như bị ngăn cản.

+ Vi phạm hành chính của người chưa thành niên thực hiện chỉ được pháp luật
thừa nhận trong một số quan hệ xã hội nhất định. Do người chưa thành niên chỉ
được thừa nhận là chủ thể có quyền và nghĩa vụ trong một số quan hệ xã hội
nhất định nên trong thực tế đời sống, sinh hoạt người chưa thành niên chỉ có khả
năng, điều kiện tham gia trong một số môi trường xã hội nhất định, hay nói theo
quan điểm cấu thành vi phạm hành chính thì người chưa thành niên chỉ có thể
có điều kiện xâm hại một số khách thể nhất định được pháp luật hành chính bảo
vệ, ví dụ trong lĩnh vực hành chính mà cụ thể ở đây là trong lĩnh vực tố tụng
hành chính tại khoản 1 Điều 77 quy định “Trong quá trình Toà án giải quyết vụ
án hành chính, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án;
nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc
không nộp hoặc nộp không đầy đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”10, nhưng nếu trong cùng một trường hợp này đối với người chưa thành
niên thì phải tuân theo quy định tại khoản 4 Điều 48, là “Trường hợp đương sự
là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện quyền,
nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện theo
pháp luật”11.

10
11

Khoản 1 Điều 77 Luật tố tụng hành chính năm 2010.
Khoản 4 Điều 48 Luật tố tụng hành chính năm 2010.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

11

SVTH: Đặng Văn Phước



Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
1.2.4. Nguyên tắc áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên
Xử phạt vi phạm hành chính là một biện pháp chế tài được áp dụng đối với các
hành vi vi phạm hành chính, góp phần quan trọng trong công cuộc phòng và chống vi
phạm hành chính nói riêng và vi phạm pháp luật nói chung. Việc áp dụng các biện
pháp xử phạt này cần phải tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc xử phạt do pháp luật quy
định mà cụ thể ở đây là các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính nó giúp cho việc
xử phạt được thực hiện một cách khách quan, chính xác, đúng người, đúng hành vi vi
phạm và đúng với pháp luật. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu ở đây là nghiên cứu
về một chủ thể đặc biệt là người chưa thành niên nên vấn đề áp dụng các biện pháp xử
phạt phải tuân theo nguyên tắc đặc biệt đó là ngoài các nguyên tắc chung được quy
định tại Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính được áp dụng như đối với người đã
thành niên, người chưa thành niên còn có các nguyên tắc xử phạt riêng được quy định
tại khoản 3 Điều 134 Luật xử lý vi phạm hành chính mang nét đặc thù riêng.
Nguyên tắc chung:
Thứ nhất, mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và
phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc
phục theo đúng quy định của pháp luật12.
Đây được xem là một nguyên tắc chung mang tính chủ đạo trong xử lý vi
phạm hành chính. Hành vi vi phạm hành chính tuy không phải là tội phạm nhưng hậu
quả mà nó gây ra cho xã hội là đáng kể (do xảy ra với số lượng nhiều) và tác động
xấu đến hiệu lực quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực như lĩnh vực quản lý đất đai, về
bảo vệ môi trường. Chính vì vậy mà việc phát hiện và ngăn chặn kịp thời mọi vi phạm
hành chính cũng như phải xử lý nghiêm minh những vi phạm đó là một đòi hỏi khách
quan phải được đáp ứng một cách triệt để. Việc chậm trễ phát hiện, ngăn chặn hoặc
chậm xử lý hành vi vi phạm hành chính sẽ dẫn đến khả năng hành vi vi phạm gây ra

hậu quả lớn hơn vì vậy tính kịp thời trong việc phát hiện, ngăn chặn vi phạm hành
chính là một yêu cầu quan trọng. Theo đó, người xử lý hành vi vi phạm đó phải nêu
cao tinh thần trách nhiệm, không được lơ là để các tình trạng về vi phạm hành chính
kéo dài mà không được ngăn chặn và xử lý.
Việc xử lý nghiêm minh mọi vi phạm hành chính là thể hiện sự kiên quyết và
minh bạch giải quyết các vấn đề về vi phạm hành chính. Chỉ có việc xử lý nghiêm đối

12

Điểm a khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

12

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
với các hành vi vi phạm này thì mới đảm bảo được tính răn đe cùng với đó là đảm bảo
tính pháp chế và nâng cao được hiệu quả quản lý nhà nước.
Đồng thời, cùng với việc xử lý nghiêm thì các vấn đề về khắc phục hậu quả
cũng cần được khắc phục một cách nhanh chóng, hiệu quả và đúng với pháp luật.
Nghĩa là phải buộc đối tượng vi phạm hành chính mà cụ thể ở đây là người chưa
thành niên phải khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm hành chính mình gây ra theo
những biện pháp được luật quy định.
Thứ hai, việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành nhanh chóng, công
khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp

luật13.
Từ nguyên tắc trên có thể cho ta thấy những yêu cầu cơ bản nhất của nguyên
tắc này khi xử phạt một hành vi vi phạm hành chính này là:
+ Phải đảm bảo sự nhanh chóng.
+ Phải đảm bảo sự công khai.
+ Phải đảm bảo sự khách quan.
+ Phải đảm bảo đúng thẩm quyền.
+ Phải đảm bảo sự công bằng.
+ Phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Các yêu cầu trên được đưa ra chủ yếu là nhằm để hạn chế sự tùy tiện trong việc
xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên.
Thứ ba, việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu
quả vi phạm, đối tượng vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.14
Do mỗi vi phạm có nét riêng biệt về bản chất và mức độ vi phạm chính vì thế
mà các vi phạm hành chính thường là không giống nhau. Chính vì vậy mà việc xử
phạt vi phạm hành chính đòi hỏi phải được thực hiện một cách chính xác dựa vào
từng trường hợp cụ thể, có như vậy mới đảm bảo được tính giáo dục và nghiêm minh
trong việc xử phạt vi phạm hành chính.
Để đáp ứng được yêu cầu trên thì việc xử phạt vi phạm hành chính phải dựa
vào các căn cứ nhất định, đó là:
+ Căn cứ vào tính chất và mức độ của hành vi. Theo đó, hành vi vi phạm càng
phức tạp, càng tinh vi thì càng nguy hiểm; hành vi vi phạm càng nhiều (vi phạm
13
14

Điểm b khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Điểm c khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung


13

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
nhiều lần), với quy mô càng lớn thì càng nguy hiểm. Do vậy hình thức và mức
xử phạt sẽ càng nặng.
+ Căn cứ vào hậu quả của hành vi vi phạm để xem xét đánh giá tính chất hành vi
này từ đó để có thể đưa ra biện pháp xử lý cho phù hợp.
+ Căn cứ vào đối tượng vi phạm. Căn cứ vào đây mà ta có thể đưa ra từng biện
pháp xử phạt cụ thể cho từng loại đối tượng khác nhau, đối tượng nào cần được
giáo dục để trở thành một người công dân tốt đối tượng nào cần bị xử phạt để
dảm bảo tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật. Từ đó mà có thể thấy được
tính hiệu quả của pháp luật khi xử phạt các hành vi vi phạm hành chính.
+ Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Đây là một căn cứ vô
cùng quan trọng giúp cho người có thẩm quyền đưa ra các biện pháp xử phạt
cũng như là mức phạt cụ thể cho từng hành vi vi phạm.
Thứ tư, chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do
pháp luật quy định. Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. Nhiều
người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm đều bị
xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó. Một người thực hiện nhiều hành vi vi
phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm15.
Nếu một hành vi vi phạm đã bị một người có thẩm quyền lập biên bản xử phạt
hoặc ra quyết định xử phạt thì không được lập biên bản hoặc ra quyết định xử phạt lần
thứ hai đối với cùng một hành vi đó nữa. Khái niệm xử phạt lần thứ hai và khái niệm
xử phạt khi tái phạm tuy là có nhiều điểm giống nhau nhưng nó không cùng loại. Tái

phạm là một hành vi vi phạm khác có tính chất cùng loại với hành vi vi phạm mà chủ
thể đã từng bị xử lý, trong khi đó thì khái niệm kia chỉ có một hành vi vi phạm tồn tại.
Một hành vi vi phạm hành chính đã được người có thẩm quyền ra quyết định
xử phạt thì không đồng thời áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác đối với
người thực hiện hành vi vi phạm này. Một hành vi vi phạm hành chính đã bị ra quyết
định xử phạt, nếu sau này phát hiện hành vi đó có các dấu hiệu của tội phạm phải truy
cứu trách nhiệm hình sự thì phải hủy quyết định xử phạt hành chính trước đây, rồi
mới chuyển hồ sơ vi phạm cho cơ quan tố tụng có thẩm quyền để truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Đối với một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm, thì người đó sẽ bị xử phạt
về từng hành vi, sau đó tổng hợp lại thành hình phạt chung.
15

Điểm d khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

14

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
Trường hợp nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì
mỗi người đều phải bị xử phạt vì vi phạm hành chính tương ứng với mức độ lỗi của
mình.
Thứ năm, người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm
hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại

diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính16.
Người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính,
điều này có nghĩa là chỉ khi người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chứng
minh được có hành vi vi phạm hành chính thì mới được tiến hành xử phạt vi phạm
hành chính. Đồng thời, ngoài người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thì
không ai được thực hiện trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Như vậy,
chứng minh là các hoạt động của người có thẩm quyền trong xử phạt vi phạm hành
chính theo một trình tự do pháp luật quy định để xác định chính xác các đối tượng cần
được chứng minh làm cơ sở để giải quyết đúng đắn các vụ việc vi phạm hành chính.
Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện
hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính: nếu như trách nhiệm chứng
minh vi phạm hành chính là của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
mang tính chất pháp lý bắt buộc thì trách nhiệm này đối với người vi phạm là quyền
của họ, họ có thể chứng minh hoặc không cần phải chứng minh mình có thực hiện
hành vi vi phạm.
Đây là một nguyên tắc xử phạt vi phạm quan trọng nó nâng cao tính hiệu quả
cho việc xử phạt vi phạm hành chính, bảo đảm tính khách quan đồng thời cũng đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người vi phạm.
Thứ sáu, đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối
với tổ chức bằng 2 lần mức phạt tiền đối với cá nhân17.
Theo nguyên tắc này nếu áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính bằng
hình thức phạt tiền với cùng hành vi như nhau, với tính chất, mức độ, hậu quả gây ra
cũng như nhau thì mức phạt tiền đối với tổ chức bao giờ cũng gấp đôi so với cá nhân.
Điều này có nghĩa là trách nhiệm hành chính của tổ chức khi xảy ra hành vi vi phạm
hành chính cao hơn trách nhiệm của cá nhân khi vi phạm và khi xử phạt không được
đánh đồng, cào bằng họ với nhau.

16
17


Điểm đ khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Điểm e khoản 1 Điều 3 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

15

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
Nguyên tắc riêng:
“Việc áp dụng hình thức xử phạt, quyết định mức xử phạt đối với người chưa
thành niên vi phạm hành chính phải nhẹ hơn so với người thành niên có cùng hành vi
vi phạm hành chính.
Trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính thì
không áp dụng hình thức phạt tiền.
Trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính bị phạt
tiền thì mức tiền phạt không người giám hộ quá 1/2 mức tiền phạt áp dụng đối với
người thành niên; trường hợp không có tiền nộp phạt hoặc không có khả năng thực
hiện biện pháp khắc phục hậu quả thì cha mẹ hoặc phải thực hiện thay”18.
Đây là một nguyên tắc thấy được rõ nhất sự khác nhau trong xử phạt vi phạm
hành chính giữa người đã thành niên và người chưa thành niên khi thực hiện hành vi
vi phạm hành chính. Khi xây dựng nguyên tắc này các nhà làm luật căn cứ vào sự
nhận thức, tính hợp lí khi áp dụng đối với từng đối tượng.
+ Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không áp dụng hình thức phạt
tiền vì đây là đối tượng có sự hạn chế về mặt nhận thức nhất định, mặt khác các
đối tượng trong trường hợp này đa số là đối tượng chưa có thu nhập nên khi áp

dụng hình thức phạt tiền đối với đối tượng này thì sẽ không đảm bảo tính khả
thi khi thực hiện.
+ Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì đây là đối tượng đã bắt đầu
hình thành những suy nghĩ nhất định trong tư duy của mình, tuy nhiên vẫn còn
một số hạn chế nhất định trong sự nhận thức đó chính vì thế mà theo Luật xử lý
vi phạm hành chính hiện hành ở nước ta quy định đây là đối tượng phải chịu
mọi hình thức xử phạt với lỗi cố ý do hành vi mình gây ra. Tuy nhiên vấn đề
cần lưu ý khi áp dụng hình thức phạt tiền đối với đối tượng này là do trong độ
tuổi này thì phần lớn họ vẫn chưa có thu nhập hoặc nếu có thu nhập chỉ là rất ít
nên khi áp dụng hình thức phạt tiền đối với họ chỉ bằng 1/2 mức phạt tiền được
áp dụng đối với người đã thành niên.
Nguyên tắc trên còn cho ta thấy được trách nhiệm của cha, mẹ đối với con
chưa thành niên hay trách nhiệm của người giám hộ đối với người được giám hộ là
nếu trong trường hợp mà người chưa thành niên không có khả năng nộp tiền phạt thì
cha, mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay.

18

Khoản 3 Điều 134 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

16

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long

1.3. Khái quát về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa
thành niên
1.3.1. Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều là hành vi trái
với pháp luật gây nguy hiểm cho xã hội. Vi phạm hành chính trực tiếp xâm hại đến
các quy tắc quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính
vì vậy mà để phòng ngừa và ngăn chặn thì Nhà nước ta đã ban hành Luật xử lý vi
phạm hành chính quy định cụ thể từng biện pháp chế tài tương ứng với từng hành vi
cụ thể do các chủ thể khi thực hiện hành vi vi pham, cụ thể là tại Điều 21 quy định
các hình thức xử phạt hành vi vi phạm hành chính và Điều 28 quy định cụ thể đối với
các biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra.
Các hình thức xử phạt:
+ Cảnh cáo: Đây là hình thức xử phạt mang ý nghĩa giáo dục nhiều hơn trừng
phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính mang tính chất
không nghiêm trọng, có các tình tiết giảm nhẹ mà chưa gây thiệt hại về vật chất,
do không hiểu biết hoặc do tác động của nguyên nhân khách quan và theo quy
định của pháp luật thì bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Cảnh cáo do
người có thẩm quyền xử phạt quyết định và được thể hiện bằng văn bản19.
+ Phạt tiền: Đây là xử phạt được áp dụng đối với vi phạm hành chính từ vi phạm
hành chính nhỏ chưa gây thiệt hại hoặc gây thịt hại không lớn về tài sản cho đến
hành vi vi phạm hành chính có nhiều tình tiết tăng nặng trong lĩnh vực quản lý
nhà nước. Mức phạt tối đa và tối thiếu được quy định đối với từng đối tượng.
• Đối với cá nhân có thể sẽ bị phạt từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng.
• Đối với tổ chức có thể sẽ bị phạt từ 100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng.
• Trừ những trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 24 của Luật xử lý vi phạm
hành chính.
+ Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ
hoạt động có thời hạn được quy định tại các khoản 1,2 Điều 25 Luật xử lý vi
phạm hành chính. “Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được
áp dụng đối với cá nhân tổ chức vi phạm nghiêm trọng các hoạt động ghi trong

giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyển sử dụng giấy

19

Phan Minh Phụng, Bài giảng Luật hành chính Việt Nam, Trường Đại học Cần Thơ, năm 2000, trang 52.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

17

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
phép, chứng chỉ hành nghề thì cá nhân không được tiến hành các hoạt động ghi
trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
+ Đình chỉ có thời hạn được áp dụng đối với cá nhân tồ chức vi phạm hành chính
trong các trường hợp sau:
• Đình chỉ một phần hoạt động gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng
thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người,
môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà theo quy định của
pháp luật phải có giấy phép.
• Đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
hoặc hoạt động khác mà theo quy định của pháp luật không phải có giấy phép
và hoạt động đó gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu
quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường và trật
tự, an toàn xã hội”20.
Thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và thời hạn đình

chỉ là từ 1 đến 24 tháng.
+ “Tịch thu tang vật phương tiện vi phạm hành chính là hình thức xử phạt mà
các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền,
hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính, hình thức
xử phạt này chỉ được áp dụng đối với những hành vi do lỗi cố ý của cá nhân, tổ
chức thực hiện”21. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức xử phạt này người có thẩm
quyền ra quyết định cần phải xem xét thật kĩ nếu phương tiện vi phạm bị cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính chiếm đoạt, sử dụng trái phép thì phương tiện
đó không bị tịch thu mà phải được trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý,
người sử dụng hợp pháp.
+ Trục xuất đây là hình thức chỉ áp dung đối với chủ thể là người nước ngoài có
hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam buộc phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính ngoài việc phải chịu các biện pháp
xử phạt trên chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính còn phải thực hiện các biện
pháp khắc phục hậu quả sau đây nếu như hậu quả đó xảy ra là do tác động của hành vi
vi phạm hành chính đó. Về mặt bản chất, biện pháp cưỡng chế vi phạm hành chính
này không có tính chất trừng phạt người vi phạm hành chính mà chỉ nhằm mục đích
20
21

Điều 25 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Điều 26 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

18

SVTH: Đặng Văn Phước



Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
khắc phục những hậu quả do vi phạm hành chính đã để lại trên thực tế. Theo khoản 1
Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính có các biện pháp khắc phục hậu quả sau:
+ Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu. Khi cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành
chính của mình gây ra nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự
nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện, điều này có nghĩa là những hành vi
vi phạm hành chính thường gây ra những hậu quả nhất định làm thay đổi hiện
trạng ban đầu của đối tượng bị vi phạm. Ví dụ như là hành vi đào đường đặt
đường ống dẫn nước trái phép đã làm cho mặt đường thay đổi tạo nên những “ổ
gà”.
+ Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc
xây dựng không đúng với giấy phép. Là khi các chủ vi phạm hành chính phải
tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây
dựng không đúng với giấy phép, nếu các chủ thể này không tự nguyện thực hiện
thì bị cưỡng chế thực hiện.
+ Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan
dịch bệnh. Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải thực hiện biện pháp để
khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh. Nếu các cá nhân, tổ
chức này vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực
hiện. Đây là biện pháp được áp dụng đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực
vệ sinh môi trường và phòng dịch, đối tượng vi phạm ở đây làm ảnh hưởng xấu
đến môi trường, lây lan dịch bệnh, làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người và
gây thiệt hai về kinh tế.
+ Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái
xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện.
• Các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải đưa khỏi lãnh thổ nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương
tiện được đưa vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhập
khẩu trái với các quy định của pháp luật hoặc được tạm nhập, tái xuất nhưng
không tái xuất theo đúng quy định của pháp luật.
• Biện pháp khắc phục hậu quả này cũng được áp dụng đối với hàng hóa nhập
khẩu, quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở
hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ
yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã
GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

19

SVTH: Đặng Văn Phước


Đề tài: Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên –

Thực trạng ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
loại bỏ yếu tố vi phạm; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự
nguyện thực hiện thì họ sẽ bị cưỡng chế thực hiện.
+ Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi,
cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại. Cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính phải tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con
người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hoá phẩm có nội dung độc hại
hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật; nếu
cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng
chế thực hiện.
+ Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn. Cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính phải cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn đã được
công bố, đưa tin trên chính phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện

tử đã công bố, đưa tin; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự
nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện. Biện pháp này được áp dụng trong
lĩnh vực báo chí, xuất bản, thông tin và truyền thông. Các vi phạm trong lĩnh
vực này thường xâm phạm đến danh dự của cá nhân, tổ chức chính vì thế mà
ngoài phải chịu các hình thức xử phạt đối tượng vi phạm trong lĩnh vực này còn
phải khắc phục hậu quả do luật định.
+ Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh
doanh, vật phẩm. Cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa hoặc sử dụng
phương tiện kinh doanh, vật phẩm chứa yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì
hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm thì phải loại bỏ các yếu tố vi phạm
đó; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị
cưỡng chế thực hiện. Đối tượng vi phạm trong trường hợp này là xâm phạm đến
quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại về kinh tế cho các chủ sở hữu của đối tượng
sở hữu trí tuệ.
+ Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng. Các chủ thể sản
xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng đã đăng ký
hoặc công bố và hàng hóa khác không bảo đảm chất lượng, điều kiện lưu thông
thì phải thu hồi các sản phẩm, hàng hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường;
nếu những chủ thể vi phạm hành chính này không tự nguyện thực hiện thì bị
cưỡng chế thực hiện. Biện pháp này được áp dụng đối với các vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý chất lượng hàng hóa. Vi phạm trong trường hợp

GVHD: CN. Võ Nguyễn Nam Trung

20

SVTH: Đặng Văn Phước



×