Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Thiết bị chiếu sáng đô thị Hùng Cường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.05 KB, 42 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tiêu thụ sản phẩm không phải là một vấn đề xa lạ đối với các doanh nghiệp
sản xuất nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng làm tốt công tác tiêu thụ sản
phẩm. Nhất là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, công tác tiêu thụ sản
phẩm thực sự trở thành một chiến tuyến làm đau đầu các nhà kinh doanh.
Làm thế nào để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Đó là cả một quá trình
nghiên cứu, tìm tòi phân tích đánh giá tình hình mọi mặt của doanh nghiệp
mình, tình hình thị trường, tình hình của các đối thủ cạnh tranh, tình hình kinh tế
xã hội...kết hợp với sự quản lý sang suốt, linh hoạt nhạy bén của các nhà quản lý
doanh nghiệp để vạch ra những hướng đi đúng đắn.
Trả lời được câu hỏi trên và làm tốt những lời giải đáp đó cũng đồng nghĩa
với việc doanh nghiệp đã khẳng định được sự tồn tại và phát triển của mình.
Ngược lại nếu không tìm ra lời giải đáp nghĩa là doanh nghiệp đang dần tự đào
thải mình ra khỏi thị trường. Tuy nhiên để trả lời tốt câu hỏi đó trước hết mỗi
doanh nghiệp phải nắm bắt được những lý luận cơ bản về công tác tiêu thụ sản
phẩm.
Xuất phát từ quan điểm này, tôi đã cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu công tác
tiêu thụ sản phẩm của Công ty theo cách nhìn nhận của Quản trị doanh nghiệp
thông qua đề tài "Một số giải pháp chủ yếu đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản
phẩm ở Công ty Thiết bị chiếu sáng đô thị Hùng Cường".
Nội dung của đề tài được trình bày thành 3 chương:
Chương I : Những vấn đề lý luận chung về công tác tiêu thụ sản phẩm ở
các doanh nghiệp sản xuất.
Chương II : Phân tích tình hình và đánh giá chung tiêu thụ sản phẩm ở
Công ty Thiết bị chiếu sáng đô thị Hùng Cường.
Chương III : Những giải pháp và kiến nghị chủ yếu để đẩy nhanh tốc độ tiêu
thụ sản phẩm ở Công ty Thiết bị chiếu sáng đô thị Hùng Cường.
1
Với lượng kiến thức tích luý được còn ít ỏi, thời gian cũng như các điều
kiện nghiên cứu còn hạn chế nên mặc dù rất cố gắng nhưng bài viết này vẫn
không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của các


thầy cô giáo, các cô chú trong Phòng tài vụ của Công ty cũng như sự góp ý của
các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC TIÊU THỤ
SẢN PHẨM Ở CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1-/ KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM.
1.1-/ Khái niệm.
Những năm gần đây nước ta từ nền kinh tế bao cấp chuyển sang nền kinh
tế thị trường, trong môi trường kinh tế này các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ
ngày càng được mở rộng và phát triển. Với việc đa dạng hoá các thành phần
kinh tế, nền sản xuất ngày càng xuất hiện nhiều doanh nghiệp sản xuất thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau. Các doanh nghiệp này cùng sản xuất hàng hoá,
cùng tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy, nếu như
trước đây các doanh nghiệp chỉ lo sản xuất đủ kế hoạch giao nộp cho Nhà nước
thì ngày nay không chỉ có sản xuất mà vấn đề tiêu thụ sản phẩm còn trở thành
một nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp, quyết định sự thành bại của
các doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình đơn vị bán xuất giao hàng hoá, sản phẩm
cho đơn vị mua và dơn vị mua thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận việc thanh
toán tiền hàng theo giá thoả thuận giữa đơn vị bán và đơn vị mua.
2
Đứng trên giác độ luân chuyển vốn thì tiêu thụ sản phẩm là quá trình
chuyển hoá vốn từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ, làm cho vốn trở lại
hình thái ban đầu khi nó bước vào mỗi chu kỳ sản xuất. Thật vậy, quá trình tái
sản xuất được bắt đầu từ những đồng vốn mà nhà sản xuất bỏ ra để mua các yếu
tố đầu vào của sản xuất như: công cụ lao động, đối tượng lao động, sức lao
động.
Như vậy, tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh
doanh, thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá thông qua hai
hành vi: doanh nghiệp cung cấp sản phẩm cho khách hàng và khách hàng thanh

toán hoặc chấp nhận thanh toán cho doanh nghiệp.
1.2-/ Ý nghĩa.
Ta đã biết rằng tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng kết thúc một chu
kỳ sản xuất tiếp theo. Chỉ có thông qua tiêu thụ sản phẩm, đồng vốn của doanh
nghiệp mới trở về với trạng thái ban đầu của nó. Với doanh thu bán hàng này
của doanh nghiệp mới có thể trang trải các chi phí về nguyên vật liệu, về máy
móc thiết bị nhà xưởng, trả tiền lương cho công nhân viên...có như vậy quá trình
tái sản xuất kỳ sau mới tiếp tục. Nếu tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn doanh
nghiệp sẽ không có đủ nguồn vốn phục vụ cho quá trình tái sản xuất, tất yếu sản
xuất sẽ bị ngưng trệ.
Không chỉ có tái sản xuất giản đơn trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện
nay mà các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới hoàn thiện quy trình sản
xuất của mình, tăng cường đầu tư theo chiều sâu, mở rộng quy mô sản xuất theo
3
hướng đi mới...muốn vậy nhất thiết phải có nhiều lợi nhuận. Đẩy mạnh tiêu thụ
sản phẩm có lãi sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Như vậy tiêu thụ sản phẩm đã góp phần vào thực hiện tái sản xuất mở
rộng.
Tăng tiêu thụ sản phẩm sản phẩm có lãi làm tăng lợi nhuận và là điều kiện
để tăng thêm thu nhập cho cán bộ công nhân viên, tăng thêm các hoạt động phúc
lợi của doanh nghiệp nhằm cải thiện và nâng cao điều kiện làm việc, sinh hoạt
cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
Thực hiện công tác tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng kịp thời góp phần thúc
đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm các khoản chi phí bán hàng, chi phí
kho tàng bảo quản....góp phần hạ giá thành, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nếu công tác tiêu thụ sản phẩm chậm, yếu kém sẽ kéo dài chu kỳ sản xuất đồng
vốn bị ứ đọng chậm luân chuyển và gây ra những thiệt hại lớn trong kinh doanh
không thể lường trước được. Như C.Mác đã từng nói: “ ...Nếu ngay trong giai
đoạn cuối cùng H’ - T’ hàng hoá bị chất đống không bán được sẽ làm nghẽn
luồng lưu thông...”.

Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, sản xuất kinh doanh mà chỉ dựa vào
vốn tự có thì không thể đủ để tiến hành sản xuất kinh doanh bất kỳ một doanh
nghiệp nào cũng phải vay vốn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Khi tiêu
thụ sản phẩm có doanh thu các doanh nghiệp sẽ lập được quỹ trả nợ.
Doanh nghiệp càng trả nợ được nhanh chóng thì càng giảm được số tiền
lãi lại không phải chịu lãi suất vay quá hạn. Hơn nữa khi trả được nợ sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp sẽ an toàn, doanh nghiệp có thêm uy tín trong
thanh toán do đó các mối quan hệ tiếp theo của doanh nghiệp với ngân hàng và
các bạn hàng sẽ được thuận lợi hơn.
Thông qua tiêu thụ sản phẩm, có được doanh thu doanh nghiệp mới có thể
thực hiện các khoản thu nộp nghĩa vụ cho Nhà nước như các loại thuế, phí, lệ
phí...đây là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước để từ đó Nhà nước có
4
thể triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của mình làm cho đất nước
ngày càng chuyển biến mạnh mẽ theo kịp với thời đại.
Cũng từ công tác tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp có thể năm được nhu
cầu thị hiếu của khách hàng, tình hình cạnh tranh trên thị trường, vị trí của các
đối thủ và vị trí của mình trên thị trường cũng như năm bắt được thị trường nào
là chủ yếu, thị trường nào là thứ yếu, thị trường nào có tiềm năng cần khơi
dậy...Từ đó mà hoạch định nên những kế hoạch đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh cho phù hợp. Chẳng hạn như: đầu tư vào mở rộng mặt hàng nào cần
nhanh chóng loại bỏ để chuyển sang hướng sản xuất kinh doanh mới.
Qua tiêu thụ sản phẩm cũng là căn cứ để doanh nghiệp kiểm tra, đánh giá
về khối lượng, chất lượng sản phẩm sản xuất ra một cách chính xác, cũng như
đánh giá về trình độ tổ chức chỉ đạo sản xuất kinh doanh, tổ chức thanh
toán...của đơn vị mình. Bởi vì tiêu thụ sản phẩm, có được doanh thu chứng tỏ
doanh nghiệp đã tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sản phẩm sản xuất ra
có chất lượng tốt quy cách mẫu mã phù hợp thị hiếu tiêu dùng, giá cả phải
chăng...được thị trường chấp nhận.
Ngoài ra trong điều kiện “mở cửa” nền kinh tế hiện nay cùng với việc

nước ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức ASEAN, tiêu thụ sản
phẩm sẽ là chiếc cầu nối liên thị trường trong nước và thị trường quốc tế, thúc
đẩy thương mại quốc tế ngày càng mạnh mẽ. Hơn thế nữa việc tiêu thụ sản
phẩm ra nước ngoài sẽ làm cân bằng dần cán cân thương mại của nước ta hiện
nay vốn đang nghiêng hẳn vào tình trạng nhập siêu, điều hoà tiêu dùng, thúc đẩy
sản xuất trong nước ngày càng phát triển.
Tóm lại, thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ đem lại kết quả vô
cùng to lớn. Tuy nhiên tiêu thụ sản phẩm nhanh hay chậm, nhiều hay ít không
phải do ý muốn chủ quan của doanh nghiệp mà được việc tiêu thụ sản phẩm
diễn ra như thế nào còn chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau còn được
nghiên cứu rõ.
5
II-/ Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm.
Có thể nhận thấy rằng tiêu thụ sản phẩm chịu ảnh hưởng của rất nhiều
nhân tố sau.
1. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề, từng doanh
nghiệp.
Có thể thấy rõ đặc điểm sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ đến
công tác tiêu thụ sản phẩm trong ngành công nghiệp do sản xuất sản phẩm đa
dạng, dựa trên trình độ kỹ thuật cao, việc sản xuất rất ít phụ thuộc vào điều kiện
tự nhiên và thời vụ cho nên tiêu thụ sản phẩm được nhanh chóng, thường xuyên
và liên tục trong ngành nông nghiệp thì sản xuất theo thời vụ cho nên tiêu thụ
cũng theo thời vụ, tập trung chủ yếu vào mùa thu hoạch sản phẩm. Khác với hai
ngành trên, trong ngành xây dựng cơ bản, với các đặc trưng sản xuất đơn chiếc
theo kiểu đặt hàng thời gian thì không kéo dài nên việc tiêu thụ cũng chỉ là
những sản phẩm cá thể và tuỳ thuộc vào từng công trình cụ thể.
2. Nhu cầu.
Nhu cầu thị trường là một trong những vấn đề quan trọng. Để đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng doanh nghiệp phải đưa ra thị trường nhiều loại sản
phẩm khác nhau trong mỗi loại sản phẩm đó lại phải chia ra nhiều chủng loại,

kích cỡ, màu sắc, phẩm cấp mẫu mã khác nhau để đáp ứng các “cung bậc” nhu
cầu cao thấp khác nhau. Khi đưa ra tiêu thụ không phải mặt hàng nào cũng như
nhau mà có những mặt hàng tiêu thụ sản phẩm được nhiều do phù hợp với nhu
cầu tiêu dùng, giá cả hợp lý, chất lượng tốt, tìm đúng thị trường...Nhưng lại có
những mặt hàng tiêu thụ được ít do không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Ngược lại có những mặt hàng chất lượng tốt, giá cả phải chăng nhưng còn
6
không được ưa chuộng nữa nên tiêu thụ gặp khó khăn....Do dó, trên cơ sở nắm
vững nhu cầu thị trường doanh nghiệp đưa ra một kết cấu phù hợp thì sẽ đẩy
nhanh tiêu thụ sản phẩm. Ngược lại đưa ra thị trường những sản phẩm không
hợp lý, không đúng với tâm lý tiêu dùng thì hàng hoá sẽ bị ứ đọng. Điều này cho
thấy mỗi doanh nghiệp cần phải bám sát thị trường để định ra cho mình một kết
cấu, khối lượng hàng thích hợp, đánh đúng vào tâm lý người tiêu dùng, đồng
thời không ngừng nghiên cứu và tìm tòi, cho ra đời những sản phẩm mới ưu việt
hơn thay thế cho những sản phẩm đã bi lỗi thời lạc hậu.
1.3.3. Chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm cũng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy hay kìm hãm
công tác tiêu thụ sản phẩm trong nền kinh tế thị trường, chất lượng sản phẩm
cũng là một vũ khí cạnh tranh sắc bén có thể dễ dàng đè bẹp các đối thủ. Chẳng
vậy, trong các chương trình quảng cáo nhiều sản phẩm người ta đã đưa ra tiêu
chuẩn “chất lượng như vàng”, “ chất lượng hàng đầu”, “ chất lượng tuyệt hảo”.
Chất lượng sản phẩm tốt không chỉ thu hút khách hàng làm tăng khối
lượng sản phẩm tiêu thụ mà còn tạo cho doanh nghiệp nâng cao giá bán sản
phẩm một cách hợp lý mà vẫn thu hút được khách hàng. Ngược lại, chất lượng
sản phẩm thấp thì việc tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn, nếu chất lượng sản
phẩm quá thấp thì ngay cả khi giá bán rất rẻ vẫn không được người tiêu dùng
chấp nhận.
Đặc biệt trong ngành công nghiệp, nông nghiệp thực phẩm chế biến thuỷ
sản..chất lượng sản phẩm có ý nghĩa rất lớn. Sản phẩm của các ngành này nếu
được khai thác chế biến kịp thời đảm bảo tính chất tươi sống sẽ tăng được số

lượng sản phẩm cao, hạ thấp số lượng sản phẩm thấp từ đó có thể tiêu thụ dễ
dàng và nâng cao doanh thu bán hàng. Ngược lại nếu bị ôi thiu, héo úa sẽ làm
7
tăng số lượng cấp thấp gây khó khăn cho tiêu thụ, giảm doanh thu có khi phải
loại bỏ cả lô hàng đó không tiêu thụ được.
Việc đảm bảo chất lượng lâu dài với phương châm “trước sau như một”
còn có ý nghĩa là lòng tin của khách hàng đối với khách hàng. Nó như là một
dây vô hình thắt chặt khách hàng với doanh nghiệp làm cho công tác tiêu thụ
diễn ra thuận lợi.
1.3.4. Giá cả sản phẩm.
Giá cả sản phẩm tác động rất lớn tới quá trình tiêu thụ sản phẩm về
nguyên tắc, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá và giá cả xoay
quanh giá trị của hàng hoá. Với cơ chế thị trường hiện nay, giá cả được hình
thành tự phát triển trên thị trường theo sự thoả thuận giữa người mua và người
bán do đó doanh nghiệp có thể sử dụng giá cả như một công cụ sắc bén để đẩy
mạnh tiêu thụ sản phẩm. Nếu doanh nghiệp đưa ra một mức giá cả phù hợp với
chất lượng sản phẩm được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận doanh nghiệp sẽ
dễ dang tiêu thụ sản phẩm của mình. Ngược lại nếu định giá quá cao, người tiêu
dùng không chấp nhận thì doanh nghiệp chỉ có thể ngồi nhình sản phẩm chất
đống trong kho của mình mà thôi. Mặt khác, nếu xí nghiệp quản lý kinh doanh
tốt, làm cho giá thành sản phẩm thấp, doanh nghiệp có thể bán hàng với giá thấp
hơn mặt bằng giá cả của sản phẩm cùng loại trên thị trường. Đây là một lợi thế
trong cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp có thể thu hút được cả khách hàng của
đối thủ cạnh tranh, từ đó dẫn đến sự thành công của doanh nghiệp trên thị
trường.
Đối với thị trường sức mua có hạn, trình độ tiêu thụ ở mức thấp thì giá có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiêu thụ sản phẩm. Với mức giá chỉ thấp hơn
một chút đã có thể tạo ra một sức tiêu thụ lớn nhưng với mức giá chỉ nhích hơn
đã có thể làm sức tiêu thụ giảm đi rất nhiều. Điều này dễ dàng nhận thấy ở các
thị trường nông thôn miền núi nơi có mức thu nhập hay nói rộng hơn là thị

trường của các nước chậm phát triển. Điều chứng minh rõ nét nhất là sự chiếm
8
lĩnh của hàng Trung Quốc trên thị trường nước ta hiện nay. Giá cả của Trung
Quốc rẻ hơn mẫu mã lại đẹp đã chiếm được cảm tình của những người dân với
thu nhập thấp.
Tóm lại, công tác tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề sống còn đối với mỗi
doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Tiêu thụ sản phẩm sản phẩm tốt sẽ mang
lại hiệu quả vô cùng to lớn, ngược lại công tác tiêu thụ sản phẩm kém sẽ mang
lại hiệu quả xấu, có thể dẫn doanh nghiệp tới bờ phá sản. Chỉ trên cơ sở coi
trọng và nhận thức đúng đắn vấn đề tiêu thụ sản phẩm mới có thể tổ chức được
công tác tiêu thụ sản phẩm một cách khoa học, hiệu quả. Những năm đầu của
thế kỷ đổi mới này là những năm đầy thử thách giúp cho các doanh nghiệp thực
sự khẳng định mình. Trong những năm này, bức tranh toàn cảnh về tiêu thụ sản
phẩm doanh nghiệp nước ta nổi bật lên hai mảng đối lập. Đó là những mảng rực
rỡ của các doanh nghiệp tổ chức kinh doanh đang vươn lên mạnh mẽ. Bên cạnh
đó là một mạng lưới của các doanh nghiệp làm ăn yếu kém, hàng hoá tồn đọng
không bán được, thậm chí nhiều doanh nghiệp phải giải thể. Mảng này chủ yếu
là các doanh nghiệp quốc doanh với nếp làm ăn cũ, nay không thể trụ nổi với
nếp làm ăn mới.
Tuy không phải là doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ nhưng ở đây là một
doanh nghiệp khá vững vàng và tự tin trong bước đi của mình đó là Công ty
Thiết bị chiếu sáng đô thị Hùng Cường. Ta hãy tìm hiểu xem công tác tiêu thụ
sản phẩm ở Công ty này xem Công ty đã làm được gì, chưa làm được những gì
xung quanh vấn đề tiêu thụ sản phẩm để từ đó có thể góp thêm tiếng nói của bản
thân, giúp cho Công ty ngày càng ổn định và phát triển mạnh mẽ.
9
CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG
VỀ CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM CÔNG TY THIẾT BỊ
CHIẾU SÁNG ĐÔ THỊ HÙNG CƯỜNG

I-/ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÔNG TY THIẾT BỊ CHIẾU SÁNG ĐÔ THỊ
HÙNG CƯỜNG.
1.1-/ Quá trình hình thành và phát triển.
Trụ sở công ty: 306 Đê La Thành - Đống Đa - Hà Nội.
Công ty Thiết bị chiếu sáng đô thị Hùng Cường là một Công ty sản xuất
bàn ghế với quy trình công nghệ gần như khép kín từ việc chế tạo đến việc lắp
ráp hoàn chỉnh. Hàng năm trung bình Công ty sản xuất và tiêu thụ hơn 10.000
bộ bàn ghế các loại.
Trong lịch sử phát triển của mình Công ty đã trải qua nhiều thời kỳ khó
khăn, trước đây Công ty chỉ lấy những sản phẩm của nơi khác về tiêu thụ, nhưng
bây giờ doanh nghiệp mở rộng quy mô về sản xuất. Thành lập từ năm 1990 sao
gần 10 năm hoạt động doanh nghiệp cũng gặp những khó khăn trong công tác
tiêu thụ sản phẩm. Nhưng được sự quan tâm của Nhà nước, bạn bè cho vay vốn
sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp đã thoát khỏi thời kỳ khó khăn. Hiện nay để
phù hợp với cơ chế thị trường Công ty không chỉ có nhiệm vụ sản xuất bàn ghế
và còn có những nhiệm vụ quyền hạn mới. Đó là:
- Sản xuất và lắp ráp bàn ghế các loại.
- Kinh doanh tổng hợp.
Một Công ty sản xuất đồ dùng thuộc loại hình sản xuất hàng loạt.
10
Hiện nay Công ty có 60 người, nhân viên phục vụ gián tiếp của Công ty là
10 người, số lao động trực tiếp là 30 người;10 người chịu trách nhiệm
Marketing. Đội ngũ cán bộ kinh tế, khoa học là 5 người.
Quy mô vốn của Công ty năm 2000 là: tổng số vốn kinh doanh
1.949.002.041 đồng.
Với diện tích mặt bằng hiện tại là 300m2, 3 phòng ban và 2 phân xưởng
sản xuất Công ty đã gần như khép kín quy trình sản xuất bàn ghế.
Hiện nay Công ty đang dự kiến một số dự án liên doanh với nước ngoài
như Trung Quốc, Đài Loan....để mở rộng hơn nữa hoạt động sản xuất kinh
doanh.

1.2-/ Đặc điểm tổ chức quản lý, quy trình công nghệ của Công ty Thiết
bị chiếu sáng đô thị Hùng Cường.
1.2.1. Đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất của Công ty.
Cùng với quá trình phát triển, Công ty đã không ngừng hoàn thiện bộ máy
tổ chức quản lý của mình. Đến nay Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo hệ trực
tuyến gồm 3 phòng ban, 2 phân xưởng:
- Phòng kế toán. - Phân xưởng sản xuất.
- Phòng kinh doanh - Tổng hợp. - Phân xưởng gia công.
- Phòng bán hàng.
Đứng đầu Công ty là Ban giám đốc.
Tại các phòng ban đều có trưởng phòng và phó phòng phụ trách công tác
hoạt động của phòng ban mình.
Tại các phân xưởng có quản đốc và phó quản đốc chịu trách nhiệm quản
lý, điều hành sản xuất trong phân xưởng.
11
Bộ máy quản lý sản xuất của Công ty có thể biểu diễn bằng sử dụngơ đồ
sau.
SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC QUẢN LÝ SẢN XUẤT
CỦA CÔNG TY THIẾT BỊ CHIẾU SÁNG ĐÔ THỊ HÙNG CƯỜNG
II-/ TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÔNG TY THIẾT BỊ CHIẾU SÁNG ĐÔ
THỊ HÙNG CƯỜNG TRONG MẤY NĂM QUA.
2.1-/ Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở trong nước.
Ở nước ta hiện nay nhu cầu về đồ dùng ngày càng cao ở các thành phố lớn
nhịp độ bàn ghế không thể bán kịp với “nhịp độ khẩn trương” của cuộc sống nên
nó không phải đồ dùng chủ yếu. Nhưng còn ở các vùng nông thôn miền núi thì
sao ? Nước ta là một trong những nước nghèo nhất thế giới, ở các vùng nông
thôn và tỉnh lẻ điều đó lại càng thể hiện rõ. Ở những vùng này đời sống còn
thấp kém. Với đặc điểm nước ta hơn 75% là dân số sản xuất nông nghiệp cho
thấy thị trường tiêu thụ bàn ghế nước ta là rất lớn.
Đối với Công ty Thiết bị chiếu sáng đô thị Hùng Cường thị trường hiện

nay của Công ty là hầu hết các tỉnh phía Bắc trong đó thị trường chủ yếu là Hà
12
Ban giám đốc
Phòng kế toán
Phòng kinh
doanh tổng hợp
Phòng bán hàng
Phân xưởng sản xuất
Phân xưởng gia công
Nội. Một số các thị trường hiện nay đang tiêu thụ mạnh là Hải Phòng, Quảng
Ninh, Ninh Bình...
Đối tượng chính sử dụng bàn ghế là các Công ty và một số người dân. Do
đó việc tiêu thụ sản phẩm mang tính chất thời vụ tập trung chủ yếu vào chuẩn bị
khai trương Công ty thanh lý các đồ dùng đã cũ.
Trước đây việc tiêu thụ sản phẩm chỉ bó hẹp trong phạm vi đối tượng là
hộ gia đình, trong khi mà các Công ty chưa phát triển mạnh. Ngày nay việc tiêu
thụ theo đơn đặt hàng của mọi đối tượng và được rộng rãi trên thị trường phục
vụ tiêu dùng cho mọi tầng lớp dân cư.
Khách hàng mua bàn ghế có thể đến mua hàng trực tiếp tại cửa hàng của
Công ty với số lượng tuỳ ý. Mọi phương thức thanh toán đều được Công ty chấp
thuận theo sự thoả thuận giữa Công ty với khách hàng đã được ghi trong hợp
đồng.
Để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm với sự cạnh tranh của các loại sản phẩm
trên thị trường hiện nay bàn ghế Thiên Phong cũng đã phần nào chiếm lĩnh được
trên thị trường. Chúng ta xem xét việc tiêu thụ của Công ty Thiết bị chiếu sáng
đô thị Hùng Cường đã được kết quả gì và chưa được kết quả gì qua các năm.
Ta xem tình hình tiêu thụ sản phẩm qua các quý năm 1999 qua bảng sau:
13
BIỂU 1 - TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM QUA CÁC QUÝ NĂM 1999
Tên sản phẩm ĐV

Quý I Quý II Quý III Quý Iv
Số
lượng
Giá bán
(1000đ)
Dthu
tiêu thụ
(1000đ)
Số
lượng
Giá bán
(1000đ)
Dthu
tiêu thụ
(1000đ)
Số
lượng
Giá bán
(1000đ)
Dthu
tiêu thụ
(1000đ)
Số
lượng
Giá bán
(1000đ)
Dthu tiêu
thụ
(1000đ)
1. Bàn ghế hoàn chỉnh Bộ 20.000 1335000 2500 1628800 2300 1470500 3000 1954500

- Ghế xoay kiểu Đài Loan Cái 1300 650 845000 1100 600 660000 1300 625 812500 1700 645 1096500
- Bàn gỗ ép kiểu Malaysia Cái 700 750 490000 1400 692 968800 100 658 658000 1300 660 858000
2. Tủ kiểu Malaysia Cái 500 565 282500 548 565 309620 565 548 309620 579 585 338715
3. Tủ Thái Lan Cái 750 585 438750 759 600 455400 600 768 460800 645 752 485040
Cộng 2056250 2393820 2240920 2778255
Bảng trích từ số liệu Phòng Kế toán
14
Tình hình tiêu thụ qua các quý của năm 1999 cho ta thấy số lượng bán ra
qua các quý là khá cao, nhưng giá bán của các quý cũng chênh lệch khá nhiều về
giá bán của bàn ghế hoàn chỉnh quý I ghế xoay kiểu Đài Loan là 650.000 đồng
nhưng sang quý II thì giá bán lại giảm nhưng số lượng của quý II lại tăng hơn so
với quý I. Về doanh thu qua các quý Quý I so với quý II . Quý II tăng 337.500
đồng còn Quý II so với quý III thì Quý III lại giảm 152.000 đồng. Quý III so với
Quý IV: Quý IV tăng so với Quý III là 537.335 đồng.
Nguyên nhân: do số lượng bán ra là không đồng đều vì số lượng của mỗi
mặt hàng không đảm bảo được chất lượng sản phẩm mẫu mã của các sản phẩm
đưa ra chưa đủ sức thuyết phục. Giá bán của sản phẩm còn cao so với các mặt
hàng trên thị trường dẫn đến doanh thu của tiêu thụ sản phẩm không cao, việc
tăng giảm giá cũng dẫn đến sự giảm sút đến số lượng tiêu thụ qua các quý.
Về năm 1999 doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm là không cao cũng do nhiều
nhân tố doanh thu cũng đạt được mức 9.469.245 đồng.
Ta xem tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 2000 có khá hơn không ở bảng 2.
* Nhận xét về tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 2000.
Trong biểu này số lượng bàn ghế bằng 95,23% kế hoạch giảm 500 bàn
ghế so với kế hoạch trong đó ghế xoay kiểu Đài Loan kế hoạch 6000, thực tế
6500 vượt 500 bộ đạt 108,33%, bàn gỗ ép kiểu Đài Loan kế hoạch năm 4500,
thực tế 3500 giảm 1000 bộ bằng 77,77%.
- Giá bình quân của một bộ bàn ghế xoay kiểu Đài Loan kế hoạch 792
đồng thực tế 800 đạt 101% giá bình quân bàn ghỗ ép kiểu Malaysia. Thực tế đạt
95,64% kế hoạch. Doanh thu các loại sản phẩm chỉ đạt 88,67% kế hoạch mức

giảm so với kế hoạch 1.423.000 đồng. Riêng doanh thu sản phẩm bàn ghế hoàn
chỉnh năm 2000 chỉ đạt 96,21% kế hoạch giảm 31.100 đồng do với kế hoạch.
Qua kết quả trên cho thấy tình hình thực tế về công tác lập kế hoạch tiêu
thụ sản phẩm có thể thấy Công ty đã lập khá cao kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
15
nhưng thực tế thực hiện lại giảm so với kế hoạch đặt ra làm cho kế hoạch không
khả thi. Qua đó chứng tỏ rằng Công ty chưa thực sự coi trọng công tác lập kế
hoạch tiêu thụ sản phẩm.
Xét về quá trình tiêu thụ sản phẩm thì việc không hoàn chỉnh kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm còn nhiều nguyên nhân như chất lượng sản phẩm, giá cả, thị
trường...
16

×