Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

LUẬN VĂN: Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam trong những năm gần đây potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.07 KB, 44 trang )














LUẬN VĂN:

Hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu xăng dầu của Việt Nam trong
những năm gần đây




Lời mở đầu

Với một nền khoa học phát triển như vũ bão, ngày nay con người hoàn toàn có
khả năng tìm kiếm những nguồn năng lượng khác thay thế xăng dầu như hạt nhân,
năng lượng mặt trời…. Tuy nhiên , trong một vài thập kỷ tới xăng dầu vẫn đóng vai
trò là nguồn năng lượng chính. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tằg ở
mức cao nhu cầu về nhiên liệu phục vụ cho sản xuất, an ninh quốc phòng và tiêu
dùng. Trong đó nhu cầu về xăng dầu và các sản phẩm dầu mỏ tăng nhanh cả về số
lượng, chất lượng và chủng loại. Xăng dầu đóng vai trò quan trọng trong công cuộc


phát triển kinh tế của đất nước.
Chúng ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, do đó
nhu cầu sử dụng xăng dầu là không thể thiếu được, đặc biệt là đối với các ngành như
giao thông vận tải , điện lực xây dựng, công nghiệp…. Mặt khác, nền kinh tế việt
nam trong những năm gần đây phát triển nhanh và ổn định. Đời sống kinh tế vật chất
của nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhu cầu về phương tiện giao thông ngày một tăng
nhanh. Do vậy nhu cầu về xăng dầu là rất lớn, khoảng từ 8-9 triệu tấn/năm. Cho
đến nay, Việt nam chưa có nhà máy hoá dầu nên các sản phẩm về dầu mỏ phục vụ
nhu cầu trong nước chủ yếu phải nhập khẩu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia thành ba chương với nội dung
như sau:
Chương I: Thị trường dầu mỏ thế giới và Việt nam.
Chương II: Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam trong
những năm gần đây.
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
xăng dầu của Việt Nam:




Chương I :
Thị trường dầu mỏ thế giới và hoạt động nhập khẩu xăng dầu ở Việt nam
I.Thị trường dầu mỏ thế giới
1.Những biến động trên thị trườg xăng dầu thế giới và ảnh hưởng của nó
tới nền kinh tế Việt Nam.
Trong những năm gần đây thị trường xăng dầu thế giới luôn có nhiều biến động.
Khi cuộc chiến tranh Iran, Irac nổ ra,giá dầu đã tăng lên. Đến cuối năm 1990, sản
lượng khai thác trên toàn thế giới đạt 4 triệu thùng/ngày với giá 40 USD/thùng. Đặc
biệt, sang năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra ở khu vực Châu á đã ảnh
hưởng nghiêm trọng tới giá dầu thế giới.

Năm 1998 giá dầu thô ở mức thấp nhất, chỉ đạt trung bình 13,35 USD/thùng.
Đây là thời kỳ đen tối của ngành công nghiệp dầu lửa. Giá dầu thô giảm trung bình
11-12 USD dưới giá thành sản xuất, điều đó buộc các công ty phải cắt giảm chi phí
qua các vụ hợp nhất, sa thải công nhân và giảm đầu tư.
Sang năm 1999, các thành viên của OPEC và các nước sản xuất dầu lửa khác đã
thoả thuận cắt giảm mức cung toàn cầu tới 3,7 triệu thùng mỗi ngày. Nhờ vậy giá dầu
thô đã tăng lên mạnh mẽ từ 10 USD/thùng tháng 12 năm 1998 lên mức 20-25
USD/thùng năm 1999. Có thể nói năm 1999 là năm căng thẳng nhất của thị trường
xăng dầu thế giới với sự gia tăng mạnh mẽ và liên tục giá dầu thô.
Năm 2000, cuộc khủng hoảng ở khu vực Trung Đông đã gia tăng áp lực đối với
thị trường dầu mỏ vốn đã bị căng thẳng, khi lượng dầu dự trữ ở mức thấp nhất trước
thời điểm mùa đông đến. Tháng 10 năm 2000, giá dầu đã tăng tới mức đỉnh cao trong
vòng 10 năm qua là 35 USD/thùng. Giá dầu tăng mạnh làm cho giá cả tại thị trường
Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản và ở nhiều nước Châu á tăng theo. Tại nhiều nước nổ ra các
cuộc biểu tình phản đối giá dầu tăng cao, gây ảnh hưởng tới nền kinh tế các nước.
Trước tình hình đó tháng 11 năm 2000 OPEC đã tăng hạn ngạch sản xuất dầu thêm
500.000 thùng/ngày lên 26,70 triệu thùng/ngày. Đây là nguyên nhân đưa giá dầu trên


các thị trường thế giới giảm mạnh xuống còn 23,75 USD/thùng vào tháng 12 năm
2000.
Sáu tháng đầu năm 2001 giá xăng dầu trên thị trường thế giới tiếp tục giảm. Đến
quý II năm 2001 giá dầu giảm xuống còn 20 USD/thùng. Tuy nhiên OPEC đã thực
hiện việc cắt giảm sản lượng 2 triệu thùng/ngày trong hai tháng đầu năm nay nhằm
kiềm chế sự tụt giảm nhanh của giá dầu.
Có thể nói, nhu cầu xăng dầu của Việt Nam trong những năm tới vẫn phụ thuộc
nhiều vào thị trường xăng dầu thiế giới. Nó một cách khác là mọi biến động của thị
trường xăng dầu thế giới đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với nền kinh
tế Viêt Nam cả ở tầm vĩ mô và vi mô.
ở tầm vĩ mô: giá dầu tăng cao đưa lại thu nhập cao cho các nước sản xuất dầu,

nhưng có lợi nhất vẫn là các tập đoàn, các công ty dầu khí xuyên quốc gia vì họ chi
phối toàn bộ quá trình sản xuất dầu. Không phải ngẫu nhiên trong năm 2000 có 10
tập đoàn dầu mỏ hàng đầu thế giới đã thu lãi gấp đôi, trong đó hãng BP 9 tháng đầu
năm 2000 lãi 8,6 triệu USD. Còn thiệt hại nhiều nhất vẫn là các nước phải nhập khẩu
dầu.
Với Việt Nam , để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước ( khoảng 8 triệu
tấn/năm), hàng năm Nhà nước phải bỏ ra khoảng hơn 1,4 tỷ USD cho nhập khẩu
xăng dầu. Vì vậy khi thị trường xăng dầu thế giới bấp bênh, không ổn định, giá cả lên
xuống phức tạp sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp chủ đạo trong kinh
doanh xăng dầu. Hệ quả là các doanh nghiệp rất khó hạch toán trong kinh doanh,
đảm bảo hiệu quả nhập khẩu xăng dầu, hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao. Ngoài
ra, để ổn định giá xăng dầu phục vụ tốt cho nhu cầu đời sống và sản xuất trong nước
nên Nhà nước đã phải chi một khoản tiền lớn để bù giá thông qua quỹ bình ổn của
Nhà nước do chính các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu đóng góp qua hình thức
phụ thu.
ở tầm vi mô: Sau hơn 10 năm thực hiện quá trình đổi mới, hiện nay đời sống
nhân dân đã được nâng lên rõ rệt. Số ngời sử dụng ô tô , xe máy , bếp ga ngày một


tăng lên , kéo theo nhu cầu xăng dầu tăng lên rất nhanh. Vì vậy, giá xăng dầu trên
thế giới tăng lên sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý, hành vi mua bán của người tiêu
dùng.
2. Tình hình sản xuất và cung ứng xăng dầu trên thế giới
2.1. Tình hình cung ứng xăng dầu trên thế giới
Bảng 1: Khối lượng xăng dầu sản xuất trên thế giới
Đơn vị: 1000 thùng/ngày
Tên khu vực 1996 1997 1998 1999 2000
Tỷ trọng năm
2000/thế giới
(%)

Bắc Mỹ 17330 17795 18050 17925 18375 24,76
Châu á 15140 16490 16335 16515 17695 23,85
Châu âu 14685 14840 15315 14755 14765 19,90
Trung Đông 5490 5550 5710 5980 5660 7,62
Trung và
Nam Mỹ
5080 5305 5380 5460 5947 8,01
Liên Xô (cũ) 4625 4735 4480 4515 6998 9,43
Châu Phi 2305 2440 2335 2405 4750 6,40
Thế giới 64925 67155 67605 67735 74190 100,00
Nguồn: Tạp chí thống kê năng lượng thế giới PBA Moco 2000
Khối lượng xăng dầu sản xuất trên thế giới liên tục gia tăng, Trong đó ba khu
vực Bắc Mỹ, Châu á, Châu Âu riêng năm 2000 đã cung cấp 66,51% tổng khối lượng
xăng dầu toàn thế giới. Trong những năm gần đây nhất, hầu hết các khu vực đều nỗ
lực trong việc tăng sản lượng dầu. Thêm vào đó sản lượng khai thác dầu thô cũng
liên tục gia tăng và đang đi vào giai đoạn đỉnh.
Việc nắm giữ nguồn tài nguyên dầu mỏ trên toàn thế giới của OPEC (gồm 13
thành viên) đã chi phối được quan hệ cung cầu. Năm 1973, OPEC chuyển từ phòng
thủ sang phản công với những quyết định đơn phương như tăng giá dầu chuẩn lên 4


lần trong vòng một tháng (từ 1,8 USD/thùng lên 2,9 USD/thùng và 11,65 USD/thùng
cùng năm đó), giảm sản lượng để thay đổi cung cầu, cấm vận dầu mỏ từng phần để
thực hiện mục tiêu chính trị trong chiến tranh vùng vịnh….Cho đến nay OPEC điều
chỉnh chiến lược của mình và gần đây nhất vào cuối năm 2000 OPEC cố gắng giữ giá
dầu ở mức 25-28 USD/thùng, mặc dù trong thời gian đó có lúc giá dầu lên tới 38
USD/thùng. Đến quý II năm 2001 giá dầu chỉ còn 20 USD/thùng. Trong quý I năm
2000, OPEC giảm sản lượng 1 triệu thùng/ ngày nhằm ngăn chặn sự giảm nhanh của
giá dầu. Trong khi đó các nước sản xuất dầu nằm ngoài OPEC, tuy nắm giữ trữ lượng
dầu mỏ không nhiều nhưng sản lượng khai thác ngày một tăng, lại hoàn toàn bị chi

phối bởi cơ chế thị trường tự do và không quan hệ với OPEC. Mặt khác, áp lực của
các nước phương Tây là rất lớn. Tất cả các yếu tố trên làm cho cuộc chiến về cung
cầu dầu mỏ ngày một trở nên phức tạp, giá cả thay đổi thất thường gây điêu đứng cho
nhiều nước, nhất là những nước phải nhập khẩu dầu khí.
3.2.Tình hình nhập khẩu xăng dầu trên thế giới
Nhu cầu xăng dầu là rất lớn đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia trên toàn thế
giới, nhất là những nước phát triển có nền sản xất lớn nhất thế giới như Mỹ,
Nhật…Hàng năm họ phải nhập khẩu một trữ lượng xăng dầu lớn mới đủ đáp ứng nhu
cầu sử dụng trong nước. Hiện nay Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản là ba khu vực nhập khẩu
xăng dầu lớn nhất thế giới.
Bảng 2: Khối lượng xăng dầu tiêu thụ của các nước và các khu vực trên thế giới
trong những năm gần đây
Đơn vị: triệu tấn
Nước 1996 1997 1998 1999 2000
Tỷ trọng
2000/TG(%)

Mỹ 836,5 848,0 863,8 882,8 920,5 26,35
Nhật 269,9 266,3 254,9 258,8 260,7 7,46
Trung Quốc 174,4 185,6 190,3 200,0 214,3 6,13


c 137,4 136,5 136,6 132,4 135,6 3,88
Nga 130,1 129,11

123,7 162,2 132,3 3,78
Khu vc
Chõu M 1191,5 1220,3 1247,8 1265,9 1268,7 36,32
Chõu ỏ-
Thỏi

Bỡnh Dng
887,8 920,1 896,3 928,7 948,6 27,16
Chõu u 741,5 784,9 760,7 755,2 760,3 21,76
Liờn Xụ (c) 188/,4 186,7 182,1 182,0 189,65 5,42
Trung ụng 200,1 204,3 207,0 215,0 209,3 5,99
Chõu Phi 106,9 109,5 112,,7 115,6 116,0 3,32
Th gii 3316,2 3398,8 3406,,6 3462,4 3492,5 100
Ngun: Tp chớ thng kờ nng lng th gii PBA Moco nm 2000
Chỳng ta thy rng M l mt nc sn xut du ln nht th gii nhng cng l
nc nhp khu du thụ ln nht th gii. Nm 1999, khi lng xng du nhp khu
ca M 93,9 triu tn v nm 2000 l 97,54 triu tn, ngun cung cp ch yu l t
Trung ụng, Vờ-nờ-zuờ-la, Canada, Mexico v Tõy u.
ng th hai v nhp khu du thụ l Tõy u vi s lng 87,5 triu tn nm
1999 v nm 2000 l 89,3 triu tn. Cỏc vựng cung cp ch yu l Trung ụng, Liờn
Xụ (c), Bc Phi (Angờri, Libi, Nigeria).
Nht Bn l quc gia ng th ba trờn th gii v tiờu th xng du nhng li
khụng cú m du nờn lng xng du tiờu th trong nc u phi thụng qua nhp
khu. Nm1999 khi lng du thụ nhp khu ca Nht Bn l 214,9 triu tn, xng
du l 49,3 triu tn v nm 2000 l 50,1 triu tn. Cung cp xng du cho Nht Bn
ch yu l Trung ụng, cỏc nc Chõu ỏ-Thỏi Bỡnh Dng.
Ngoi ba nc nhp khu xng du ln nht th gii cũn phi k n Trung
Quc v mt s nc khỏc. Nm 1999 nhp khu xng du ca Trung Quc t 20,8
Biểu đồ 1: Tình hình nhập khẩu xăng dầu của một số n ớ c và khu
vực nă m 19992000
Đ ơn vị


triệu tấn và năm 2000 đạt 21,3 triệu tấn. Thị trường nhập khẩu của Trung Quốc là các
nước Châu á và Trung Đông. Trong đó Châu á chiếm tỷ trọng lớn hơn gồm các nước
như Indonesia, Thái Lan, Singapore, Việt Nam.











Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 1999-2000
3.3. Tình hình xuất khẩu xăng dầu trên thế giới
Trước tiên phải kể đến Trung Đông, đây là vùng xuất khẩu xăng dầu lớn nhất thế
giới. Năm 1999 xuất khẩu 114,5 triệu tấn, năm 2000 đạt 115,3 triệu tấn. Những nước
xuất khẩu chủ yếu là những nước trong khối OPEC như A-rập-xê-út, Iran, Irắc, Cô-
oét. Thị trường rộng nhất của Trung Đông là Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc,
Trung và Nam Mỹ, Châu á và Châu Phi. Ngoài ra còn một lượng nhỏ xuất khẩu sang
Canada, Mexico, Australia.
Liên Xô (cũ): Vùng này có đặc điểm xuất khẩu xăng dầu hầu như thuần tuý.
Năm 1999 xuất khẩu đạt 61,8 triệu tấn, năm 2000 lên tới 68,2 triệu tấn. Do sản lượng
khai thác cao mà nhu cầu trong nước lại thấp nên xuất khẩu dầu thô và xăng dầu rất
sôi động ở khu vực này.Các nước xuất khẩu chủ yếu là Nga, Kajactan, Ucraina,
Belarut. Thị trường chính là các nước Tây và Trung Âu.


Chõu ỏ-Thỏi Bỡnh Dng: (tr Nht Bn, Trung Quc, Australia) õy l khu vc
ng th ba th gii v xut khu xng du. Thun li ca khu vc ny l cú nhiu
b bin vi nhiu cng nc sõu cho phộp tu cú trng ti ln ra vo. ng u l
Singapore-hin l trung tõm lc du ln thờn th gii vi 65% xut khu. Singapore
ang tp trung sn xut xng du cú tr lng cao, ỏp ng c tiờu chun bo v

mụi trng ngt nghốo ca Nht Bn, M v mt s nc Tõy u. Ngoi ra cũn phi
k n cỏc nc xut khu khỏc nh Indonesia, Malaixia








Ngun: Thi bỏo kinh t Vit Nam 1999-2000
Cú th núi xng du úng mt vai trũ quan trng chin lc vi nn kinh t quc
dõn, nờn nhng bin ng ca xng du thờn th trng th gii u nh hng
khụng nh ti hot ng sn xut v tng trng kinh t ca mi quc gia trờn ton
th gii, nht l nhng nc phi nhp khu vi khi lng ln.
II. Tỡnh hỡnh nhp khu xng du hin nay ca Vit Nam
1. Tỡnh hỡnh nhp khu xng du
Hin nay, lng xng du tiờu th trong nc ca Vit Nam ph thuc gn nh
hon ton vo xng du nhp khu. Chỳng ta mi cú nh mỏy lc du mini l Petro
Si Gũn vi sn lng thp. Theo d kin n nm 2004 nh mỏy lc du Dung Qut
mi cho ra sn phm, nhng do nhu cu tiờu th trong nc ngy mt ln nờn Vit
Nam vn phi nhp khu xng du. Cho n nay Vit Nam ó cú 35 n v kinh
Biểu đố 2: Tình hình xuất khẩu xăng dầu của một số n ớ c và
khu vực nă m 19992000
114.5
61.8
58.7
115.3
68.2
65.3

0
20
40
60
80
100
120
140
Trung Đ ông Liên Xô(cũ) Châu á-Thái Bình
D- ơng
Đ ơn vị:triệu tấn
Năm 1999
Năm 2000


doanh nhập khẩu xăng dầu, nhưng Tổng công ty xăng dầu Việt Nam là đơn vị lớn
nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ cung ứng và điều tiết nguồn xăng dầu nhập khẩu
để phục vụ nhu cầu trong nước và một phần tái xuất khẩu thu ngoại tệ.
Hiện nay thị phần của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam là 61%, đứng thứ hai là
Petec với thị phần 12%, đứng thứ ba là Sài Gòn Petro 11%,tiếp đến là Vinapco 5%,
Petechim 35%, công ty Thương mại Dầu khí Đồng Tháp 3%, công ty xây dựng quân
đội 1,4%, Petro Mêkông 0,9, Công ty xuất nhập khẩu vật tư đường biển 0,5%, còn lại
2,7% là của PTSC, nhà máy điện Hiệp Phước và công ty bột ngọt Vê đan.

Năm 2000 giá xăng dầu trên thị trường thế giới đã tăng liên tục với tốc độ cao.
Tại Singapore, giá xăng nhiên liệu DO, dầu FO tăng từ 58-90% so với năm 1999.
Điều này đã tác động không nhỏ tới kim ngạch nhập khẩu xăng dầu của Việt Nam.
Theo Tổng cục Thống kê, 11 tháng đầu năm 2000 lượng xăng dầu nhập khẩu các loại
đã đạt 7,718 triệu tấn, tăng gần 13% so Với cùng kỳ năm 1999. Nhưng kim ngạch
nhập khẩu đã tăng tới 91,5% lên 1,8 tỷUSD. Giá vốn nhập khẩu xăng dầu tăng kỷ lục

dẫn đến giá xăng dầu trong nước cũng tăng theo.











§ å thÞ 1: K hèi l î ng x¨ ng dÇu nhËp khÈu cña V iÖt Nam 19962001
5899
5958
6833
7403
8589
9200
0
2000
4000
6000
8000
10000
1996 1997 1998 1999 2000 DB2001
§ ¬n vÞ:1000 M T










Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 1999-2000



2. Tình hình giá cả xăng dầu trong nước
Trước tình hình trên, để đảm bảo hoạt động của các ngành kinh tế trong nước
diễn ra bình thường, không bị tác động đột ngột của giá xăng dầu thế giới tăng cao,
năm 2000 Thủ tướng Chính phủ đã cho phép bốn lần điều chỉnh giá bấn tối đa xăng
dầu theo nguyên tắc: Nhà nước gánh chịu một phần bằng cách giảm thuế thu nhập
đối với xăng dầu, còn lại doanh nghiệp chịu một phần và người tiêu dùng cùng chia
sẻ (tăng giá bán có mức độ). Kết quả là đến cuối năm 2000 giá bán lẻ xăng dầu tăng
800 đ/lit (tăng 118,6%) lên 5100đ/lit; dầu DO tăng 400đ/lit (11,1%) lên 4000 đ/lit;
dầu hoả tăng 100đ/lit (2,7%) lên 3800 đ/lit; dầu Mazut tăng 700 đ/kg (38,9%) lên
2500 đ/kg. Theo đánh giá của các nhà chuyên môn, năm 2001 cùng với sự phát triển
nhanh hơn của nền kinh tế, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu cũng tăng, nhập khẩu xăng dầu
sẽ tăng từ 7- 8% so với năm 2000. Mặc dù có nhiều dự kiến cho rằng giá xăng dầu
trên thị trường thế giới năm 2001 sẽ giảm so vvới mức cao kỷ lục của năm 2000
nhưng vẫn còn chứa đựng nhiều nhân tố bất ổn và sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao.
Để đảm bảo hoạt động bìnhn thường cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu
, đồng thời giảm bớt khó khăn cho ngân sách Nhà nước trong điều kiện giá xăng dầu
§ å thÞ 2: Kim ng¹ ch nhËp khÈu x¨ ng dÇu cña ViÖt Nam 1996
2001
70823
64312

68927
101306
158137
166700
0
50000
100000
150000
200000
1996 1997 1998 1999 2000 DB 2001
§ ¬n vÞ:1000
USD


duy trì ở mức cao, năm 2001 Nhà nước sẽ tiếp tục điều chỉnh tăng giá xăng dầu
khoảng 15% so với cuối năm 2000. Những bất ổn về xăng dầu trên thị trường thé giới
đã gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu cũng như sự
mất cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu, cuối cùng là đã ảnh hưởng lớn đến sự tăng
trưởng kinh tế của đất nước.
Chương II:
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Tổng công ty xăng dầu Việt
Nam trong những năm gần đây
I. Quy trình kinh doanh của Tổng công ty theo quy định của Nhà nước và
pháp luật
1. Xin giấy phép nhập khẩu
Xăng dầu là mặt hàng nhập khẩu có giấy phép, chịu sự quản lý của Bộ thương
mại. Cuối mỗi năm, Bộ thương mại cấp giấy phép nhập khẩu để tiêu thụ trong nước
cho Tổng công ty trong năm tới với một khối lượng nhất định gọi là kế hoạch định
hướng. Khối lượng này được thông báo cho hải quan ở tất cả các cảng khẩu trên cả
nước biết. Khi hàng nhập khẩu về, hải quan sẽ trừ vào khối lượng trong giấy phép đã

cho. Nếu nhập hết khối lượng cho phép mà Tổng công ty muốn nhập thêm thì Tổng
công ty phải làm đơn xin Bộ thương mại. Và nếu được sự đồng ý thì Tổng công ty
mới tiếp tục được nhập khẩu xăng dầu với khối lượng theo giấy cấp đó. Hồ sơ gửi lên
Bộ bao gồm:
-Đơn xin phép nhập khẩu: ghi rõ chủng loại nhập, số lượng, cửa khẩu nhập,
thời gian thực hiện hợp đồng.
-Phiếu hạn ngạch
-Bản sao L/C
-Hợp đồng nhập khẩu xăng dầu
Tất cả những hồ sơ trên gửi lên Bộ thương mại. Bộ thương mại cấp giấy phép
nhập khẩu trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận được đơn đúng thủ tục quy định.


2. Mở L/C
Việc viết đơn mở L/C do phòng tài chính của Tổng công ty chịu trách nhiệm và
căn cứ theo mẫu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Thông thường Tổng công
ty mở L/C sau ngày ký hợp đồng một ngày để bên bán kịp thời sắp xếp hàng hoá.
Loại L/C thường là L/C không huỷ ngang (Irrivocable L/C), trả chậm 30 ngày. Trên
đơn ghi rõ: tên người mở L/C là Petrolimex; tên người hưởng lợi (tức người bán), trị
giá L/C là 100% trị giá hợp đồng. Chứng từ xuất trình gồm:
+Hoá đơn thương mại
+Hối phiếu
+Vận đơn sạch đã bốc hàng
+Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O)
+Giấy chứng nhận số lượng và trọng lượng của cơ quan giám định độc lập
+Giấy chứng nhận bảo hiểm (nếu có)
Mua bán xăng dầu quốc tế, trong quá trình vận chuyển người chuyên chở có thể
mua bán xăng dầu dọc đường. Vì vậy, nếu không xuất trình vận đơn gốc và các
chứng từ giao hàng khác thì người bán phải phát hành và xuất trình thư bảo lãnh của
mình: LOI (Sell’s letter of Indeminity), đồng thời cũng xuất trình LOI cho ngân hàng

để thay thế tạm thời vận đơn gốc hoặc các chứng từ khác. Trong thư này người bán
phải ghi rõ bảo đảm quyền sở hữu đó cho người mua là Tổng công ty và cam kết họ
sẽ cố gắng cung cấp hàng. Thời gian xuất trình chứng từ trong vòng 21 ngày sau
ngày vận đơn nhưng trong thời hạn hiệu lực của L/C. Việc mở L/C chỉ áp dụng trong
trường hợp thanh toán bằng L/C.
2. Thuê tàu chở hàng
Do nhập khẩu theo điều kiện FOB nên Tổng công ty luôn giành quyền vận tải.
Phần lớn Tổng công ty dùng tầu của mình để vận chuyển dầu nhập khẩu. Hiện nay
Tổng công ty đã có một tầu vận tải 30.000 DWT, một tầu 7.000 DWT, ba tầu trọng
tải 23.000 DWT. Ngoài ra Tổng công ty còn thuê tầu chuyến thông qua môi giới theo


hình thức thuê ướt nhưng trường hợp này rất ít do hiệu quả rất thấp. Thực tế cho thấy
Tổng công ty chỉ nhập FOB với khối lượng mà tầu của mình có thẻ chuyên chở khi
huy động tối đa công suất, khối lượng còn lại Tổng công ty nhập theo điều kiện CIF
hặc CFR, nhường quyền vận tải cho người bán. Bên bán xăng dầu cho Tổng công ty
thường là hãng xăng dầu lớn, có tên tuổi. Những hãng này thường có đội tầu biển
chuyên chở với công suất lớn, không phải thuê tầu thông qua môi giới nên việc thuê
tầu của Tổng công ty có chi phí thấp hơn. Hặc các hãng này thuê tầu định hạn để chở
hàng với khối lượng lớn cho nhiều nước trong cùng một hành trình nên cước phí rẻ
hơn rất nhiều so với Tổng công ty đi thuê.
3. Mua bảo hiểm
Việc mua bảo hiểm của Tổng công ty căn cứ vào giá nhập khẩu xăng dầu taụi
thời điểm đầu quý, căn cứ vào lượng nhập FOB, CFR và tỷ lệ phí bảo hiểm. Tổng
công ty ước tính phí bảo hiểm cho từng quý, trích một số tiền bằng số phí bảo hiểm
ước tính để mua bảo hiểm cho từng quý một.
Cứ mỗi lần có hàng nhập cần mua bảo hiểm, Tổng công ty gửi đơn yêu cầu bảo
hiểm đến PJICO. Đến cuối quý PJICO hạch toán thừa thiếu với Tổng công ty và
Tổng công ty sẽ chuyển tiền mua bảo hiểm tiếp cho quý sau.
Điều kiện bảo hiểm thông thường là điều kiện C áp dụng cho dầu chở rời, tỷ lệ

phí bảo hiểm là 0.027%.
4. Kiểm tra hàng nhập khẩu
Tổng công ty tiến hành kiểm tra hàng nhập khẩu ngay từ khi hàng còn ở trên tầu
và tầu vừa cập bến cảng quy định. Trước tiên kiểm tra, niêm phong van thông biển,
van dỡ qua boong và kiểm tra tất cả các khoang liên quan để phát hiện rò rỉ của dầu.
Nếu niêm phong không còn nguyên thì phải lập biên bản giám định hầm tầu. Tham
gia lập biên bản có hải quan, đại diện hãng tàu, đại diện Tổng công ty, Vinacontrol.
Nếu niêm phong còn nguyên vẹn thì tiến hành kiểm tra chất lượng và số lượng.


Khi kiểm tra chất lượng và số lượng, Tổng công ty mời Vinacontrol đến giám
định, hải quan căn cứ vào kết quả giám định của Vinacontrol để ghi vào phần kết quả
kiểm hoá.
Kiểm tra số lượng được tiến hành như sau:
- Đo chiều cao mức dầu trong mỗi khoang chứa hàng. Mỗi khoang phải đo 3
lần, lấy số trung bình cộng của 3 lần đo.
- Căn cứ vào bảng barem dung tích của từng khoang tra ra dung tích dầu chứa
trong khoang ứng với chiều cao của mức dầu.
- Đo nhiệt độ của từng khoang bằng nhiệt độ kế: Thả nhiệt độ kế xuống
khoang dầu tới độ sâu cần thiết và ngâm trong khoảng thời gian từ 15 đế 30 phút. Khi
lấy nhiệt kế lên thì đọc ngay để tránh ảnh hưởng của gió và nhiệt độ môi trường.
Nếu nhiệt độ môi trường khác biệt trên 6 độ so với trong bồn thì đo ít nhất hai lần. Từ
dung tích và nhiệt độ dầu từng khoang suy ra được dung tích dầu từng khoang ở điều
kiện chuẩn 15 độ.
Kiểm tra về chất lượng được tiến hành theo phương pháp lấy mẫu. Mẫu được lấy
theo tỷ lệ: 1 trên cùng, 2 ở giữa, 1 ở đáy. Có tỷ lệ này là do thực tế xăng dầu có chất
lượng khác nhau thì phân loại cũng khác nhau. Lớp xăng dầu có khối lượng riêng lớn
thì nằm chìm xuống dưới, lớp có khối lượng riêng nhỏ thì nổi lên trên.Tỷ lệ 1:2:1
như trên được trộn với nhau sẽ đảm bảo được tính đại diện của mẫu. Mẫu của các
khoang được trộn chung với nhau tạo thành mẫu của lô hàng. Mẫu này được mang đi

phân tích để xác định kết quả.
Thời gian kiểm tra hàng hoá thường quy định là 6 giờ. Sau khi kiểm tra song
Vinacotrol sẽ ghi kết quả kiểm tra vào chứng thư giám định và ký tên , đóng dấu.Nếu
không có sai sót lớn về số lượng hoặc chất lượng Tổng công ty sẽ rút xăng dầu ra
khỏi tầu hàng và bơm lên bể chứa nhập khẩu để kinh doanh trong nước. Nếu có sai
sót lớn Tổng công ty phải lập các chứng từ để khiếu nại. Trong trường hợp phía nước
ngoài không công nhận kết quả giám định của Vinacontrol, Tổng công ty phải mời
S.G.S (Societe General De Surveillance) là công ty giám định của Thuỵ Sỹ được


quốc tế công nhận đến giám định. Sau khi giám định xong, S.G.S ghi kết quả vào
chứng thư giám định. Đây chính là căn cứ để Tổng công ty khiếu nại.
5. Làm thủ tục hải quan
Ngay từ khi tầu đến phao số 0, hải quan đã cử ít nhất hai người lên tầu áp tải
hàng về tận kho.
Trước khi bơm xăng dầu từ phương tiện vận tải lên bồn, bể thuộc kho chứa thì
Tổng công ty phải nộp bộ hồ sơ cho hải quan bao gồm:
+ Tờ khai Hải quan (gồm 3 bản chính)
+ Hợp đồng nhập khẩu (1 bản sao)
+ B/L (một bản sao)
+ Hoá đơn thương mại (1 bản sao)
+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Petrolimex (chỉ nộp một lần khi
đăng ký làm thủ tục cho lô hàng nhập khẩu đầu tiên tại mỗi điểm làm thủ tục hải
quan).
Khi tổng công ty và Vinacontrol kiểm tra số lượng và chất lượng hàng hoá và
bơm hàng lên bồn, nhân viên hải quan giám sát chặt chẽ toàn bộ quá trình.
Sau khi bơm xong Tổng công ty phải nộp thêm vào bộ hồ sơ:
+ Chứng thư giám định về tên hàng, khối lượng của Vinacontrol.
+ Biên bản giám định hàng hoá giữa chủ phương tiên vận tải và Tổng công
ty.

+ Giấy xác nhận đạt được chất lượng nhập khẩu (hoặc thông báo miễn kiểm
tra chất lượng) đối với xăng dầu thuộc danh mục kiểm tra của Nhà nước về kiểm
tra chất lượng. Sau khi tiếp nhận bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, hải quan mới đăng ký
tờ khai. Kết quả giám định về số lượng và chất lượng của Vinacontrol là căn cứ
để hải quan ghi vào danh mục hàng hoá trong tờ khai hải quan , sau đó hồ sơ được
chuyển lên lãnh đạo hải quan cảng biển để ký tên và đóng dấu. Sau cùng hải quan
thông báo thuế và giải phóng hàng nhập khẩu để kinh doanh trong nước.


6. Thanh toán cho người bán.
Hợp đồng nhập khẩu xăng dầu thường qui định thanh toán trong vòng 30 ngày
kể từ ngày vận đơn.
- Nếu thanh toán bằng L/C: Trên lý thuyết ngân hàng phát hành là người ký
nhận trả tiền hối phiếu nhưng thực tiễn tại Tổng công ty xăng dầu lại khác. Trình tự
thanh toán diễn ra như sau:
+ Ngân hàng nhận được chứng từ và kiểm tra chứng từ.
+ Ngân hàng chuyển toàn bộ chứng từ cho Tổng công ty để Tổng công ty xem
xét chấp nhận thanh toán hay không. Nếu chứng từ hợp lệ, Tổng công ty sẽ ký chấp
nhận thanh toán vào hối phiếu, khi đến hạn thanh toán Tổng công ty sẽ trả tiền cho
người bán qua Ngân hàng.
Nếu chứng từ không hợp lệ: chứng từ có sai sót lớn như vận đơn không sạch, sai
sót khác lớn về số lượng, chất lượng, đơn giá, trị giá, thì Tổng công ty từ chối thanh
toán. Nếu chứng từ có sai sót nhưng khôing phải là những sai sót như trên, Tổng
công ty sẽ chấn nhận thanh toán vào hối phiếu.
Như vậy, việc quyết định thanh toán hay không phụ thuộc vào Tổng công ty chứ
không phải vào ngân hàng phát hành. Nếu ngân hàng tự quyết định thanh toán thì sẽ
có rủi ro lớn vì Tổng công ty không ký quĩ mở L/C. Một số vận đơn ghi theo lệnh của
Tổng công ty xăng dầu Việt Nam chứ không theo lệnh của ngân hàng nên hàng hoá
trên vận đơn thuộc quyền sở hữu của Tổng công ty.
Các yếu tố trên cho thấy ngân hàng sẽ ở thế bất lợi nếu ngân hàng đứng ra thanh

toán cho lô hàng thuộc quyền sở hữu của Tổng công ty trong khi không chắc chắn có
thu được tiền từ Tổng công ty hay không.
Vậy câu hỏi đặt ra là: Nếu chứng từ người bán xuát trình hợp lệ nhưng Tổng
công ty không chấp nhận thì Ngân hàng có phải chấn nhận thanh toán trên hối phiếu
không? Theo luật, ngân hàng phát hành L/C sẽ phải ký chấp nhận vào hối phiếu sau
đó ngân hàng sẽ kiện Tổng công ty. Nhưng thực tế thì Tổng công ty là doanh nghiệp


nhà nước lớn, kinh doanh chân chính, tuân thủ đúng pháp luật nên Tổng công ty chưa
bao giờ từ chối thanh toán khi chứng từ hợp lệ.
- Nếu thanh toán theo phương thức TTR: Bộ chứng từ do người bán gửi
cho Tổng công ty cũng bao gồm các chứng từ như trong thanh toán bằng L/C.
Nếu chứng từ có sai sót như: Vận đơn không sạch, sai sót lớn về số lượng, chất
lượng, đơn giá, trị giá thì Tổng công ty từ chối không thanh toán. Trường hợp còn
lại, Tổng công ty ký chấp nhận thanh toán vào hối phiếu. Đến hạn thanh toán
Tổng công ty xuất trình bộ chứng từ tại Ngân hàng và yêu cầu Ngân hàng chuyển
tiền cho người bán. Bộ chứng từ này bao gồm: một bộ vận đơn gốc đầy đủ gồm
ba bản chính: giấy chứng nhận số lượng, chất lượng, giấy chứng nhận xuất xứ
(C/O).
7. Khiếu nại
Trong Trường hợp nhập khẩu có tổn thất về số lượng, trọng lượng thì Tổng công
ty phải lập và gửi ngay bộ hồ sơ khiếu nại trong thời hạn khiếu nại. Bộ hồ sơ khiếu
nại bao gồm:
+ Các hồ sơ pháp lý ban đầu như hợp đồng, vận đơn, ROROC
+ Chứng từ giám định của Vinacontrol (hoặc của S.G.S) bộ hồ sơ được chuyển
đến người có trách nhiệm, có thể là người xuất khẩu, người bảo hiểm hoặc người vận
tải.
II. Hoạt động xuất nhập khẩu xăng dầu trong những năm gần đây.
1. Tình hình nhập khẩu.
1.1. Thị trường nhập khẩu.

Trong những năm qua, mối quan hệ giữa Tổng công ty với các bạn hàng nước
ngoài không ngừng phát triển và đổi mới. Mối quan hệ đó không chỉ dừng lại ở mức
buôn bán các sản phẩm xăng dầu, Tổng công ty xăng dầu Việt Nam cần thiết lập với
nhóm bạn hàng nước ngoài trong các lĩnh vực hợp tác đầu tư, liên doanh, hỗ trợ tài
chính và đào tạo. Chính vì vậy, cho đến nay Tổng công ty đã thiết lập một danh mục
lớn các nhà cung cấp xăng dầu đáng tin cậy về nhiều khía cạnh, danh mục thoả mãn


được các yếu tố an toàn, đa dạng và tránh độc quyền trong việc bán hàng cho Tổng
công ty.
Trong quan hệ buôn bán các sản phẩm xăng dầu Tổng công ty chú trọng vào việc
xiết chặt quan hệ với các hãng tin cậy (bên cạnh việc ký hợp đồng dài hạn). Tương
ứng với các khu vực thị trường tại Đông Nam á (chủ yếu là Singapore) có các hãng
cung cấp nổi tiếng: SHEll, ESSO, TOTAl, HINGLEOIL, KUO OIL . . cung cấp
Diesel, xăng cao cấp và Mazut, tại Trung Đông là công ty xăng dầu quốc gia Cô-oét
cung cấp Diesel (KPC) chuyên cung cấp Diesel, dầu bay, dầu hoả, nhà cung cấp lớn
nhất từ vùng Đông Bắc á là công ty hoá dầu quốc gia Trung Quốc (SINIPEC) cung
cấp xăng thông dụng với khối lượng nhỏ Diesel.Thị trường nhập khẩu của Tổng công
ty xăng dầu Việt nam ổn định và thuận lợi. Nhìn chung có năm khu vực chính cung
cấp sản phẩm cho Tổng công ty là Singapore, Trung Đông, Trung Quốc, Đông Bắc á,
và Đông Âu. Trong đó mỗi vùng có một ưu thế nhất định, đặc biệt thị trường
Singapore là có triển vọng nhất.
Trong danh mục các nhà cung cấp của Tổng công ty bao giờ cũng gồm chủ yếu
những công ty lớn, thường xuyên có uy tín được sàng lọc kỹ càng qua thực tiễn mua
bán, đồng thời vẫn có chỗ đứng cho các công ty vãng lai tham gia trên cơ sở đảm bảo
được các yêu cầu chặt chẽ của Tổng công ty. Trong những năm gần đây Tổng công
ty cũng đã thiết lập quan hệ với các bạn hàng mới như YOKONG PETRONAS, KPC
và thị trường cũng được mở rộng sang các nước xa hơn như Thái Lan, Malaysia,
Nhật Bản, Hàn Quốc.
1.2. Kết quả nhập khẩu xăng dầu trong thời gian qua

1.2.1. Kết quả nhập khẩu theo khu vực thị trường.
Đến nay Tổng công ty xăng dầu Việt Nam đã có một hệ thống tổ chức hoạt động
kinh doanh xăng dầu lớn mạnh đê phục vụ nhu cầu quốc phòng, sản xuất và tiêu
dùng trong nước. Thị trường nhập khẩu của Tổng công ty chủ yếu là Singapore,
Trung Đông, Đông Bắc á và Trung Quốc. Trong đó Trung Đông cung cấp trên 30%
nhu cầu về Diesel qua KPC, dầu hoả và Mazut qua Hinkong. Trung Quốc và Đông


Bắc á cung cấp xăng thông dụng và một khối lượng nhỏ Diesel. Kết quả được thể
hiện ở bảng sau:



Bảng 5: Kết quả nhập khẩu xăng dầu theo khu vực
Tên nư
ớc và
khu vực
Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000
Khối
lượng
(MT)
Tỷ
trọng
(%)
Khối
lượng
(MT)
Tỷ
trọng
(%)

Khối
lượng
(MT)
Tỷ
trọng
(%)
Khối
lượng
(MT)
Tỷ
trọng
(%)
Singapore 1980000

47.09

1986000

45.47

2150000

47.78

2670000

48.55

Trung Đông 1560000


37.10

1205000

27.59

1220000

27.11

1240000

22.55

Trung Quốc 500000

11.89

750000

17.17

850000

18.89

1030000

18.73


Đông Bắc á 43000

1.02

150000

3.43

160000

3.56

404000

7.35

Đông Âu 122000

2.90

277000

6.34

120000

2.67

156000


2.84

Tổng 4205000

100

4368000

100

4500000

100

5500000

100

Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu Tổng công ty xăng dầu Việt Nam.
Đồ thị 4: Kết quả nhập khẩu xăng dầu theo khu vực








0
500000

1000000
1500000
2000000
2500000
3000000
1997 1998 1999 2000
§ ¬n vÞ:MT
Singapore
Trung § «ng
Trung Quèc
§ «ng B¾c ¸
§ «ng ¢ u



-
-
- Nguồn xăng dầu nhập khẩu của Tổng công ty chủ yếu từ Singapore: Thông
qua công ty Shell, ESSO, KUO, HINLEONG . . cung cấp phần lớn khối lượng
Diesel, xăng cao cấp, Mazut. Năm 1997 nhập 1980 triệu tấn, năm 1998 nhập nhập
tăng hơn là 6.000 MT (tương đương 0,30%) so với năm 1997 Từ năm 1999 đến
năm 2000 khối lượng nhập khẩu từ thị trường này liên tục tăng lên.
- Thị trường Trung Đông: năm 1997 Tổng công ty nhập khẩu 1.560.000 tấn,
năm 1998 nhập khẩu giảm còn 1.205.000 tấn. Hai năm gần đây (từ năm 1999 –
2000) khối lượng nhập khẩu xăng dầu từ thị trường này liên tục tăng từ 1.220.000
tấn năm 1999 (tăng 1,24% so với năm 1998) lên 1.240.000 tấn năm 2000 ( tăng
1,64% so với năm 1999), tuy vậy so với năm 1997, khối lượng xăng dầu nhập khẩu
của Tổng công ty từ khu vực thị trường này đã giảm đáng kể trong 3 năm gần đây
(từ 1998 – 2000).
- Thị trường Trung Quốc: khối lượng nhập khẩu xăng dầu từ thị trường này

liên tục gia tăng kể từ năm 1997 –2000. Năm 1997 nhập 500.000 tấn, đến năm 2000
đã tăng hơn 50% lên tới 1.030.000 tấn Trung Quốc cung cấp xăng thông dụng và
Diesel.
- Thị trường Đông Bắc á: Khối lượng nhập khẩu xăng dầu từ thị trường này
cũng liên tục gia tăng từ 43.000 tấn năm 1997 lên 404.000 tấn năm 2000. Mặt hàng
nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này cũng là xăng thông dụng và Diesel.
- Thị trường Đông Âu: khối lượng nhập khẩu từ thị trường này không ổn định.
Năm 1997 nhập 122.000 tấn, năm 1998 nhập tăng thêm 155.000 tấn (tương đương
với 127,05%) so với năm 1997. Năm 1999 nhập 120.000 tấn, giảm 157.000 tấn
(tương đương 56,68%) so với năm 1998. Và tới năm 2000 khối lượng nhập lại tăng
lên 36.000 tấn so với năm 1999.


Đánh giá chung trong những năm gần đây, do những bất ổn ở thị trường Trung
Đông và Đông Âu nên việc nhập khẩu xăng của Tổng công ty đã gặp nhiều khó khăn
ở thị trường này. Trong khi đó thị trường Châu á tương đối ổn định và thuận tiên cho
việc nhập khẩu xăng dầu, nên Tổng công ty đã chuyển hướng nhập khẩu xăng dầu
sang thị trường Châu á, mặt khác vẫn giữ được mối quan hệ bạn hàng cũ với các
nước Đông Âu và một số nước khác. Việc chuyển hướng nhập khẩu đã mang lại cho
Tổng công ty những thành công trong kinh doanh như giảm chi phí nhập khẩu, đảm
bảo nguồn hàng nhập khẩu ổn định, không bị gián đoạn để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ
trong nước ngày một tăng.
2.Tình hình xuất khẩu:
2.1. Phân tích thị trường xuất khẩu:.
Vào thập kỷ 90, cùng với những thay đổi về mặt chính trị, mối quan hệ giữa các
doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp của Lào, Campuchia đã được cải thiện.
Nhờ vậy Tổng công ty xăng dầu Việt Nam đã trở thành nhà cung cấp chính cho hai
thị trường này trong những năm vừa qua.
Cũng trong những năm 1990, Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, hoạt động
kinh tế đối ngoại được mở rộng, khối lượng xuất nhập khẩu tăng, các nhà đầu tư

nước ngoài tăng cường đầu tư vào Việt Nam, hình thành khu chế xuất, doanh nghiệp
chế xuất… Từ đó hình thành thị trường xăng dầu cung cấp cho tư bản nước ngoài,
khu chế xuất và doanh nghiệp chế xuất.
Từ 1/6/1997 Hồng Kông được trao trả cho Trung Quốc. Sự kiện đó phần nào
giúp Việt Nam trở thành cửa ngõ trao đổi, buôn bán với miền duyên hải phía nam
Trung Quốc và thị trường tái xuất xăng dầu sang Trung Quốc bắt đầu được hình
thành.
Có thể nói cho đến nay Tổng công ty xăng dầu Việt Nam đã có những thành
công đáng kể trong việc chiếm lĩnh và mở rộng thị trường tái xuất với bốn khu vực
thị trường chính, hoạt động tái xuất của Tổng công ty ngày càng được đẩy mạnh, góp


phần không nhỏ vào việc tăng cường vị thế của Tổng công ty trên thị trường trong
và ngoài nước.
Mặc dù vậy thị trường tái xuất xăng dầu đã và đang tồn tại những yếu tố cạnh
tranh quyết liệt, thị phần tại một số khu vực đang ngày càng bị thu hẹp. Phân tích tình
hình từng thị trường sẽ cho thấy rõ hơn điều này.
2.1.1. Thị trường Campuchia.
Tương tự như thị trường Việt Nam, Campuchia chưa phát triển công nghiệp hoá
dầu, toàn bộ khối lượng xăng dầu tiêu thụ trong nước đều từ nhập khẩu. Do nội chiến
kéo dài, nền kinh tế chậm phát triển, nhu cầu tiêu thụ xăng dầu chỉ thực sự tăng
trưởng từ năm 1993 khi Liên hiệp quốc tham gia gìn giữ hoà bình tại Campuchia.
Biểu đồ 4: Khối lượng xăng dầu tái xuất sang thị trường Campuchia năm
1997-2000















Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu – Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam
84010
37812
16211
15623
168410
162632
116723
115742
6132
3520
6258
2754
21448 21056
18437
9678
0
27871
71803
281997
227018
187499

217600
0
50000
100000
150000
200000
250000
300000
1997 1998 1999 2000
§ ¬n vÞ (MT)
X¨ng
DO
Jet
KD
FO
Tæng KL


Số liệu trên cho thấy sản lượng xăng dầu trái xuất sang Campuchia đã giảm đi
nhiều trong các năm 1998-2000 so với năm 1997. Đặc biệt năm 1999 số lượng tái
xuất ở từng mặt hàng đều giảm so với năm 1998, do vậy mặc dù trong danh mục các
mặt hàng tái xuất có thêm FO (dầu mazut) nhưng tổng sản lượng tái xuất vẫn chỉ đạt
185.500 tấn. Sang năm 2000 khối lượng tái xuất tuy có giảm hơn năm 1999 nhưng bù
lại, khối lượng dầu mazut tái xuất đã tăng hơn 3 lần so với năm 1999 làm tổng sản
lượng tái xuất tăng 30.100 tấn.
Sự giảm sút về sản lượng và thị phần của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam tại
thị trường Campuchia là do một số nguyên nhân sau:
Trước hết do xu hướng nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài về cảng Sihanoukville
ngày càng tăng, làm giảm khối lượng nhập khẩu thông qua Việt Nam. Các hãng xăng
dầu quốc tế tổ chức hoạt động kinh doanh tại Campuchia như TOTAL, CALTEX,

PETRONAS trước đây thường mua một phần của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam
nay cũng chuyển dần sang nhập thẳng về cảng Sihanoukville.
Thứ hai: do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu á, giá thế giới
giảm xuống mức kỷ lục làm giảm kim ngạch tái xuất. Đồng Bath mất giá nên nguồn
xăng dầu từ Thái Lan thường có tỷ trọng thấp…, khách hàng thích mua hơn vì đóng
thuế nhập khẩu vào Campuchia là theo tấn.
Một yếu tố nữa là các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu khác của Việt Nam
như Petec, Petechim, Vinapco, Saigon Petro tiếp tục cạnh tranh quyết liệt với Tổng
công ty bằng chính sách giá cả và cơ chế phục vụ linh hoạt nên thị phần của Tổng
công ty tại đây đã bị chia sẻ.
1.1.2. Thị trường Lào.
Lào là nước có dân số tương đối ít, địa hình chủ yếu là đồi núi, kinh tế chưa có gì
đáng kể, nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên nên tổng nhu cầu của Lào còn thấp.
Trong những năm gần đây, Lào có tăng cường xây dựng cải tạo cơ sơ hạ tầng, do đó
tỷ lệ tăng trưởng của Lào khá cao so với năm 1994 trở về trước.


Bảng 8: Khối lượng xăng dầu tái xuất sang thị trường Lào của Tổng công ty
xăng dầu Việt Nam.
Đơn vị tính: MT
Loại 1997 1998 1999 2000
Xăng 12578

10587

12641

14517

DO 13223


13230

16728

19113

Jet 4199

3283

2631

3070

Tổng KHẩI
LưẻNG
31997

29098

33999

38700

Nguồn: Phòng xuất nhập khẩu- Tổng công ty xăng dầu Việt Nam.
Như vậy các mặt hàng năm trong danh mục tái xuất sang thị trường Lào rất ít,
chỉ có 3 mặt hàng với khối lượng rất khiêm tốn. Tuy nhiên Tổng công ty cũng đã nỗ
lực trong việc nâng cao sản lượng tái xuất sang thị trường Lào trong hai năm gần đây.
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy nhu cầu nhập khẩu xăng và DO của Lào ngày càng

nhiều trong khi Jet lại giảm đi. Đối tác hoạt động của Tổng công ty hoạt động trên thị
trường Lào là công ty xăng dầu Lào và cty xăng dầu Vientiance quân đội Lào. Do địa
hình khó khăn, thủ tục giao bằng đường bộ phức tạp các doanh nghiệp kinh doanh
xăng dầu khác của Việt Nam hầu như chưa triển khai tái xuất sang thị trường Lào tuy
nhiên các doanh nghiệp Thái Lan có nhiều ưu thế hơn hẳn Việt Nam. Thái Lan là
trung tâm lọc hoá dầu, vận chuyển bằng xe lớn, thủ tục hải quan đơn giản, chính sách
giá, cơ chế bán hàng lại mềm dẻo hơn. Do vậy thị phần của Tổng công ty tại Lào chỉ
chiếm khoảng 15%.
2.1.3. Thị trường Trung Quốc.
Do cơ cấu sản phẩm hoá dầu của Trung Quốc không đáp ứng được nhu cầu tiêu
thụ trong nước nên hàng năm nước này phải nhập khẩu hàng triệu tấn Gas oil. Từ
tháng 6 năm 1997, Hồng Kông đã được tro trả cho Trung Quốc, lợi dụng yếu tố địa
hình, Việt Nam đã trở thành cửa ngõ chung chuyển hàng hoá phục vụ nhu cầu các
tỉnh Nam Trung Quốc.

×