Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

TIỂU LUẬN: Một số phương án và giải pháp phát triển xuất khẩu cà phê cho công ty INTIMEX ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.75 KB, 36 trang )














TIỂU LUẬN:

Một số phương án và giải pháp phát
triển xuất khẩu cà phê cho công ty
INTIMEX





Lời nói đầu

Ngành cà phê Việt Nam là một ngành sản xuất có truyền thống lâu đời, trải qua
hơn 100 năm hình thành và phát triển, ngành cà phê đã đạt được những thành tựu to
lớn. Cà phê đã và đang trở thành mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn mang tính chiến lược
trong cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam.
Ngày nay, sản xuất cà phê thế giới đang tập trung chủ yếu ở các nước đang phát
triển nằm ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Việt Nam không những có điều kiện khí


hậu thuận lợi mà còn có cả thổ nhưỡng phù hợp với việc canh tác cà phê. Đây là một
trong những ưu thế lớn để có thể phát triển mạnh hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt
Nam trong thời gian tới.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp mới thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu mặt hàng cà phê đối với các doanh nghiệp của Việt Nam có ý nghĩa hết sức
quan trọng, đặc biệt là đối với công ty kinh doanh xuất nhập khẩu có tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản lớn như Công ty xuất nhập khẩu Dịch vụ Thương mại
INTIMEX. Đây chính là lý do để tôi chọn đề tài này cho đề án môn Thương mại quốc
tế của mình.
Mục đích của đề tài này là nhằm nắm rõ ý nghĩa của mặt hàng cà phê với hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty, qua đó đề xuất một số phương án và
giải pháp phát triển xuất khẩu cà phê cho công ty INTIMEX.
Do những hạn chế nhất định về thời gian và phạm vi nghiên cứu, đề án này
không đề cập đến các hoạt động kinh doanh khác.
Với mục tiêu và phạm vi như vậy đề án có kết cấu như sau:
- Chương I : Khái quát chung về mặt hàng cà phê và thị trường xuất khẩu cà
phê của công ty INTIMEX.
- Chương II : Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng cà phê tại công ty
INTIMEX.
- Chương III : Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu cà phê của
công ty INTIMEX trong thời gian tới.


Chương 1
Khái quát chung về mặt hàng cà phê và thị trường xuất khẩu của công ty
intimex.

I - Quá trình hình thành và phát triển của ngành cà phê.
1. Sự ra đời và phát triển ngành cà phê thế giới.
1.1. Sự ra đời.

Cây cà phê lần đầu tiên được những người Etiôpia phát hiện ra cách đây khoảng 1000
năm, sau đó nó nhanh chóng được những người dân trong khu vực sử dụng như một
thứ nước giải khát với tác dụng kích thích mạnh mẽ chưa từng được biết đến. Bởi vậy,
thời đó quả cà phê được những người dân này coi như một báu vật thần kỳ mà trời đã
ban cho họ. Cho tới thế kỷ VI cây cà phê đã lan sang tới Yêmen và vươn tới các nước
khác thuộc khu vực Trung cận Đông, sau đó nó nhanh chóng có mặt ở khắp các nước
Arập. Vì thế, cho tới ngày nay có loại cà phê có tên gọi là cà phê Arabica.
Vào khoảng đầu thế kỷ XVI, các nhà buôn bắt đầu nhập khẩu cà phê vào châu
Âu và thứ nước uống từ quả cà phê trở nên quen thuộc trong giới thượng lưu thời đó.
Cùng thời gian này, cây cà phê cũng được trồng thử ở Nam Mỹ, châu á, châu Đại
dương. Kết quả trồng thử khả quan đã thúc đẩy các nhà buôn và người dân trong các
khu vực này đầu tư vào cây cà phê với mục đích thương mại.
Tới cuối thể kỷ XVII, cây cà phê đã tìm được một vị trí vững chắc trong ngành
trồng trọt thế giới. Nhu cầu tiêu thụ cà phê cùng các sản phẩm từ cây cà phê cũng tăng
dần theo thời gian tạo điều kiện thúc đẩy ngành sản xuất ngày càng phát triển, chính
thức đưa nó bước sang một giai đoạn phát triển mới với quy mô rộng khắp trên tòan
thế giới.
1.2. Quá trình phát triển.
Cũng như hầu hết các loại cây trồng quan trọng khác trên thế giới, cùng với sự tham gia
tăng mạnh mẽ việc khai phá đất hoang, diện tích canh tác cà phê cũng đã tăng mạnh. Vào
năm 1985, diện tích trồng cà phê đã đạt khoảng 9,5 triệu ha. Sau đó tốc độ tăng có chậm lại
nếu xét trên phạm vi toàn thế giới, tuy nhiên, nếu xét theo khu vực thì khu vực châu á vẫn tiếp
tục đạt mức tăng bình quân tới 4,25% năm còn các khu vực khác lại có sự suy giảm hoặc tăng


không đáng kể. Tới năm 1995, diện tích trồng cà phê trên thế giới là 10.493.900 ha, tính bình
quân mỗi năm đã tăng khoảng 0,1%.
Về chủng loại cà phê, kể từ khi được phát hiện ra tới nay tuy chưa có tài liệu nào
thống kê chính thức, song thực tế cho thấy nếu xét về khía cạnh thương mại hiện đang
tồn tại khoảng hơn mười loại cà phê khác nhau trong đó gồm hai loại chủ yếu là cà phê

chè (Arabica) chiếm khoảng 64,5% và cà phê vối (Robusta) chiếm khoảng 34,5%.
Ngoài ra, hiện nay để theo dõi tình hình buôn bán cà phê trên thế giới người ta còn
phân chia cà phê chè (Arabica) ra làm ba loại khác nhau là: cà phê dịu Comombia, các
loại cà phê dịu khác, cà phê Arabica của Braxin và Natural Arabica.
2. Sự ra đời và phát triển ngành cà phê Việt Nam.
Cây cà phê lần đầu tiên được người Pháp đưa vào trồng ở nước ta vào năm 1887
tại hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị. Sau đó chúng được trồng thử nghiệm tại nhiều tu
viện nhằm thăm dò khả năng phát triển cà phê trên diện rộng ở Việt Nam. Cây cà phê
tỏ ra nhanh chóng thích nghi với điều kiện tự nhiên ở một số vùng như: Tây nguyên,
Trung du và miền núi phía Bắc cho thấy khả năng phát triển ngành cà phê Việt Nam
sau này.
Tính tới năm 1945 diện tích cà phê cả nước đã đạt mức 10.700 ha trong đó: Bắc
kỳ là 4.100 ha, Trung Kỳ là 5.902 ha và Nam Kỳ là 700 ha với năng suất trung bình
lên cả ba miền đạt khoảng 4 - 5tạ/ha. Lượng cà phê sản xuất ra trong thời kỳ này chủ
yếu được các chủ đồn điền thu mua và xuất khẩu sang Pháp. Chất lượng cà phê trồng ở
Việt Nam lúc đó được đánh giá tương đương với loại cà phê Arabica của Colombia.
Thời kỳ sau năm 1945 đến năm 1954, do điều kiện chiến tranh nên diện tích cũng
như sản lượng cà phê Việt Nam đã bị giảm sút nhiều. Sau đó, trong thời kỳ miền Bắc
xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều nông trường cà phê đã được xây dựng. Tuy nhiên, do
những khó khăn về điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện kỹ thuật mà năng suất cũng
như sản lượng cà phê ở miễn Bắc thời kỳ đó còn khá thấp. Diện tích cà phê năm cao
nhất cũng chỉ đạt 14.000 ha (1963) và sản lượng năm cao nhất cũng chỉ là 4.850 tấn
(1968). ở miền Nam, diện tích và sản lượng cà phê cũng có nhiều biến động. Nếu năm
1945 chỉ là 700 ha thì năm 1946 là 3.019 ha, tới năm 1957 con số đó là 3373 ha. Sau
đó chính phủ ngụy quyền cũ cũng đã cho xây dựng nhiều đồn điền cà phê, vì vậy tới
năm 1964 diện tích cà phê ở miền Nam đã đạt 11.120 ha. Tuy nhiên, cũng do chiến


tranh xảy ra ác liệt sau đó mà tới năm 1975 khi miền Nam hoàn toàn giải phóng diện
tích cà phê chỉ còn khoảng 10.000 ha.

Đến năm sau 1975 ngành cà phê Việt Nam mới thực sự bước sang giai đoạn phát
triển với sự gia tăng liên tục về diện tích canh tác cũng như sản lượng. Nếu năm 1976
tổng diện tích cà phê trên cả nước là 18.800 ha với sản lượng khoảng 9.000 tấn thì tới
năm 1980 các con số đó là 22.000 ha và 9.700 tấn, năm 1985 tổng diện tích cà phê đã
đạt 44.700 ha và sản lượng đạt 12.300 tấn. Trong giai đoạn này năng suất bình quân
mới chỉ đạt khoảng 6,5-7 tạ/ha do chúng ta chưa thực sự quan tâm tới kỹ thuật canh tác
cà phê cũng như chưa có điều kiện tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật từ nước ngoài mà
chỉ chú trọng tới việc gia tăng diện tích bằng việc tích cực khai phá đất hoang. Tuy
vậy, chất lượng cà phê Việt Nam vẫn được đánh giá cao trên thị trường Quốc tế với
các bạn hàng chủ yếu là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Ngòai ra, vào đầu thập kỷ
80 chúng ta cũng đã xuất khẩu được một số lượng cà phê đáng kể sang Singapore và
Hồng Kông. Đó chính là cột mốc đáng ghi nhớ mở ra một thời kỳ mới đối với sự phát
triển của ngành cà phê, hòa nhập cùng sự phát triển của đất nước trong giai đoạn đổi
mới, mở cửa nền kinh tế .
II - Phân bố cây cà phê ở Việt Nam:
1. Phân bố theo vùng.
Hiện nay ở Việt Nam cây cà phê được trồng ở 4 khu vực chủ yếu bao gồm:
Trung du và miền núi phía Bắc, Trung bộ, Tây nguyên và khu vực Đông Nam Bộ.
Trong đó, khu vực Tây nguyên - Đông Nam Bộ đóng vai trò quan trọng nhất. Đây là
khu vực có điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi cho việc trồng và chăm sóc cà phê, vì
vậy hàng năm khu vực này thường chiếm 72 - 94% về diện tích canh tác và từ 82 - 98
% về sản lượng cà phê cả nước. Hơn nữa, khu vực này còn có quỹ đất chưa khai hoang
khá lớn, vì vậy trong tương lai khu vực này vẫn sẽ là trung tâm phát triển của ngành cà
phê Việt Nam .
Bên cạnh khu vực Tây nguyên - Đông Nam Bộ thì khu vực miền Trung thuộc
khu bốn cũ cũng có một vai trò đáng kể trong ngành cà phê. Năm cao nhất (1983) khu
vực này đã chiếm tới 23,37% diện tích và 16,63% sản lượng cà phê toàn ngành. Tuy
nhiên, sau đó diện tích cũng như sản lượng đã liên tục suy giảm vì nhiều nguyên nhân,
trong đó nguyên nhân cơ bản là năng suất trồng cà phê quá thấp không đủ bù đắp chi



phí. Cho tới tận thời gian gần đây, do đã chú trọng tới việc áp dụng kỹ thuật mới để
nâng cao năng suất, ngành cà phê khu vực này mới có dấu hiệu hồi phục. Nếu so với
sản lượng 548 tấn vào năm 1981 thì tới năm 1990 sản lượng cà phê khu vực này đã đạt
737 tấn và tới năm 1994 đạt 1.021 tấn.
Ngoài ba khu vực kể trên thì khu vực Trung du và miền núi phía Bắc cũng đã
từng là một khu vực cho tỷ trọng sản xuất đáng kể trong toàn ngành cà phê. Tuy nhiên,
trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cà phê Việt Nam thì diện
tích cũng như sản lượng cà phê của khu vực này lại tụt giảm nhanh chóng, các nông
trường cà phê được xây dựng trước đây hầu như không còn hoạt động, hoạt động sản
xuất cà phê của tư nhân cũng chỉ còn rất lẻ tẻ, hầu như không cho sản lượng thương
mại đáng kể . Nguyên nhân của hiện tượng này không chỉ do điều kiện tự nhiên không
thuận lợi mà còn do người dân ở đây chưa thấy hết được nguồn lợi do cây cà phê đem
lại, cũng như chưa nắm bắt được kỹ thuật canh tác cà phê để có thể mang lại năng suất
cao đủ bù đắp chi phí và cho lợi nhuận.
Nếu chỉ xét riêng theo các tỉnh thành thì chỉ riêng 4 tỉnh: Đắc Lắc, Lâm Đồng,
Đồng Nai, Gia Lai đã chiếm khoảng 58% tổng diện tích cà phê cả nước trong đó Đắc
Lắc là 87.170 ha, Lâm Đồng: 38.410 ha, Đồng Nai: 17.863 ha và Gia Lai: 18.599 ha
(1975). Về sản lượng, các tỉnh này cũng chiếm từ 60 đến 70% tổng sản lượng cà phê
cả nước. Thậm chí các con số này còn có thể cao hơn nữa trong một vài năm tới.
2. Phân bố theo thành phần kinh tế .
Ngành trồng trọt cà phê ở Việt Nam bao gồm 2 thành phần kinh tế chủ yếu là
thành phần tư nhân và thành phần tập thể. Tỷ trọng sản lượng giữa hai thành phần này
luôn có sự biến động mạnh mẽ qua các thời kỳ. Từ khoảng giữa thập kỷ 80 trở về
trước sản lượng cà phê tập trung chủ yếu vào thành phần kinh tế tập thể với một hệ
thống các nông trường quốc doanh quy mô lớn. Trong bối cảnh chung của nền kinh tế
Việt Nam thời kỳ đó, các nông trường cà phê của Nhà nước có rất nhiều điểm thuận
lợi so với các hộ nông dân canh tác đơn lẻ, vì vậy diện tích, năng suất cũng như sản
lượng cà phê quốc doanh luôn chiếm tỷ lệ áp đảo so với thành phần tư nhân. Ngược
lại, do sự thua thiệt về điều kiện vật chất, kỹ thuật mà thành phần kinh tế tư nhân chưa

thể hiện được vai trò của nó trong việc trồng và sản xuất cà phê.


Bước vào năm 1986, cùng với chính sách mở cửa của Nhà nước, nền kinh tế
chuyển sang cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế tư nhân trong nhiều ngành nghề
mới có điều kiện bung ra phát triển, các hộ trồng cà phê cũng nhanh chóng hòa nhập
vào xu hướng đó tạo động lực thay đổi cơ cấu sản lượng theo thành phần kinh tế trong
ngành cà phê Việt Nam. Sự thay đổi này có thể thấy rõ nét qua bảng thống kê sau:
Biểu 1: Tỷ trọng sản lượng cà phê giữa các thành phần kinh tế
Năm
Thành phần
1980 1985 1990 1995
Tư nhân 28% 49% 76% 79%
Tập thể 72% 51% 24% 21%
(Nguồn: Niên giám thống kê 80 - 95)
Tỷ lệ 21 - 79 này vẫn đang tiếp tục thay đổi theo hướng giảm dần vai trò của
thành phần kinh tế tập thể. Sở dĩ có hiện tượng này một phần còn là do trong những
năm gần đây ngành cà phê có chủ trương nhượng lại quyền canh tác cà phê từ các
nông trường cho các hộ nông dân vốn trong cơ chế cũ vẫn nhận khoán canh tác cà phê
của các nông trường quốc doanh. Như vậy, có thể thấy rằng trong tương lai không xa
thành phần kinh tế tư nhân sẽ chiếm vai trò chủ đạo trong ngành cà phê Việt Nam. Tuy
nhiên, chúng ta vẫn không thể phủ nhận vai trò của các doanh nghiệp quốc doanh, bởi
chỉ các doanh nghiệp Nhà nước mới có đủ vốn và nhân lực phục vụ cho công cuộc
hiện đại hóa ngành cà phê, đưa nó phát triển mạnh hơn nữa trong giai đoạn tới.
III - Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam và Thế giới:
1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Việt Nam.
1.1. Tình hình sản xuất .
Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển ngày nay cà phê đã thực sự được
chỗ đứng trong nền kinh tế Việt Nam. Ngành cà phê có những bước phát triển không
ngừng cả về diện tích cũng như sản lượng. Sở dĩ có được thành quả đó là bởi nhiều

nguyên nhân, trước hết đó là nguồn lợi có được từ việc trồng cà phê. Cây cà phê là loại
cây công nghiệp đặc sản của vùng nhiệt đới mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều
nếu đem so với việc trồng các loại cây nông sản khác. Theo tính toán, việc trồng 1 ha


cà phê thường mang lại giá trị kinh tế cao gấp 1,5 lần so với trồng 1 ha lúa và gấp từ 5
đến 10 lần so với việc trồng một số loại cây công nghiệp khác. Hơn nữa cùng với sự
đổi mới nền kinh tế đất nước, chúng ta có nhiều cơ hội giao lưu buôn bán với thế giới
bên ngoài hơn, hàng hóa của Việt Nam mà cụ thể là mặt hàng cà phê có điều kiện
thâm nhập vào thị trường thế giới. Điều đó chính là động lực thúc đẩy ngành cà phê
phát triển. Ngoài ra còn có một nguyên nhân hết sức quan trọng khác đó là sự nhạy cảm
của những người trực tiếp tham gia sản xuất và xuất khẩu cà phê. Nhờ nắm bắt được nhu
cầu thị trường thế giới cùng việc đẩy mạnh áp dụng kỹ thuật canh tác, chú trọng đầu tư
thâm canh, tăng cường khai hoang nâng cao diện tích trồng cà phê mà năng suất cũng như
sản lượng cà phê của Việt Nam đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Liên tục
nhiều năm năng suất tăng rõ rệt từ 600-700 kg nhân/ ha nay đạt bình quân 1,4 tấn nhân/
ha, cá biệt có nơi 4- 4,5 tấn nhân/ ha. World Bank đánh giá năm 1996 năng suất cà phê
vối (Robusta) của Việt Nam (1,48 tấn/ ha) xếp nhì thế giới, sau Costa Rica (1,6 tấn/ ha),
trên Thái Lan (0,99 tấn/ ha). Cùng với năng suất, diện tích và sản lượng cà phê của Việt
Nam cũng đang ở mức rất cao, có xu hướng tiếp tục tăng.
Biểu 2: Sản xuất cà phê Việt Nam giai đoạn 1991 - 2000

Năm
Chỉ tiêu
1991 1992 1993 1994 1995 1996 199
7
1998 1999 200
0
Diện tích
(1000 ha)

135,5

135,5 143 148,8 164,6

186 254 296 350 420
DT tăng so
v
ới niên vụ
trư
ớc(1000
ha)
0 7,5 5,8 15,8 37,2 68 42 54 70
SL cà phê
( 1000 tấn)
82,5 131,4 145,2 179 212,5

235 362 400 420 600
SLtăng so
với niên vụ
trước(1000
48,9 13,8 33,8 33,5 22,5 127 38 20 180


tấn)
Năng suất
(tấn/ha)
0,61 0,97 1,02 1,20 1,29 1,26 1,43

1,35 1,20 1,43


NS tăng so
với niên vụ
trước
(tấn/ha)
0,36 0,05 0,18 0,09 -0,03 0,17

-0,08 -0,15 0,23


(Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 1991 - 2000)
Qua bảng số liệu trên chúng ta nhận thấy rằng diện tích cà phê VN tăng rất mạnh
và còn tiếp tục tăng. Đây chính là kết quả từ chính sách khuyến khích phát triển cà phê
của chính phủ trong kinh tế hộ gia đình, tư nhân kết hợp với đầu tư hỗ trợ của Nhà
nước qua các chương trình định canh, định cư, phủ xanh đất trống đồi trọc. Bên cạnh
mặt đáng mừng, diện tích tăng mạnh cũng phản ánh một tình trạng đáng ngại đó là sự
phát triển vượt tầm kiểm soát của cà phê trồng mới.Đây là một trở ngại trong công tác
chỉ đạo kinh doanh xuất khẩu.
Như vậy nếu như trong cả thời kỳ 100 năm phát triển tới năm 1985 ngành cà phê
Việt Nam mới đạt sản lượng khoảng 12 ngàn tấn thì trong các năm của thập kỷ 90 mỗi
năm sản lượng cà phê của Việt Nam đều tăng hàng chục ngàn tấn, thậm chí từ năm 96
tới năm 97 sản lượng đã tăng 127 nghìn tấn.
Tuy nhiên đó mới chỉ là những con số thể hiện bề nổi của ngành cà phê Việt
Nam. Thực tế cho thấy mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong việc
nâng cao diện tích, năng suất, cũng như sản lượng nhưng chúng ta còn rất nhiều khó
khăn trong các công đoạn sản xuất cà phê sau thu hoạch. Các hộ nông dân hầu như chỉ
sản xuất theo hướng tự phát, ít có chiến lược phát triển lâu dài, vì vậy các vấn đề về
công nghệ, kỹ thuật sau thu hoạch hầu như bị bỏ trống, điều đó đã lý giải lý do tại sao
trong thời gian gần đây cà phê Việt Nam không còn được đánh giá cao về chất lượng
như trước kia. Theo thống kê vào đầu niên vụ 94/95 các nông trường và các hội nông
dân chỉ mới đáp ứng được khoảng 30% tổng sản lượng cà phê thu hoạch được phơi và

sấy khô theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Nghĩa là 70% còn lại không đáp ứng được các
yêu cầu kỹ thuật và sự sút giảm về chất lượng sẽ là một tất yếu. Đến năm 1997 tỉ lệ


này nhích lên 45% tương đương 170.000 tấn trong tổng số 360.000 tấn cà phê của cả
nước. Nhờ sự quan tâm và hướng dẫn của ngành cà phê đối với các hộ sản xuất đơn lẻ
mà tới đầu năm 99 toàn ngành cà phê đã được đầu tư máy móc thiết bị đảm bảo cho
khoảng 70% sản lượng cà phê sản xuất ra đạt chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của thị
trường quốc tế. Bên cạnh đó trong một vài năm gần đây chúng ta đã cố gắng chuyển
hướng sang sản xuất cà phê hòa tan nhằm đưa sản phẩm tiêu dùng cuối cùng tới người
tiêu dùng trong nước và người tiêu dùng quốc tế. Kết quả, trong năm 98 chúng ta đã
sản xuất được khoảng 2100 tấn và xuất khẩu gần 1000 tấn, hứa hẹn những bước phát
triển mới trong tương lai.
1.2. Tình hình xuất khẩu.
Cùng với những thành tựu to lớn mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được trong thời
gian qua, lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam cũng đã có những bước phát triển vô cùng
quan trọng. Đóng góp vào sự phát triển đó ngành cà phê đã thực hiện sự khẳng định
được vai trò của mình. Sự tăng trưởng xuất khẩu cà phê của Việt Nam không những
được nhìn nhận trong nội tại nền kinh tế đất nước mà còn được các tổ chức quốc tế
như ICO, ESCAP, công nhận.
a. Kim ngạch, khối lượng, giá cả.
Do sản xuất cà phê trong nước phát triển liên tục trong nhiều năm qua mà khối
lượng cà phê xuất khẩu cũng có sự gia tăng mạnh mẽ. Từ chỗ mỗi năm Việt Nam chỉ
xuất khẩu được 5 đến 7 nghìn tấn cà phê với kim ngạch chưa khi nào vượi quá 10 triệu
USD Mỹ thì tới nay đã là một trong năm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước. Từ
năm 1994 kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã vượt qua con số 400 triệu
USD, đưa Việt Nam trở thành một trong 3 nước xuất khẩu nhiều cà phê nhất khu vực
châu á - Thái Bình Dương là : ấn Độ, Indonesia và Việt Nam .
Biểu 3: Kim ngạch, khối lượng, giá xuất khẩu mặt hàng cà phê
của Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 1998.


Năm
Chỉ tiêu
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Khối 89,6 93,5 116,2

106 170 210 233 360 390,4


lượng
(1000 tấn)

Giá cả
(USD
/tấn)
850 830 720 900 2.647 2.633

1.814

1.210

1.526
Kim
ngạch
(triệu
USD )
76,16

77,61 83,66


95,40

450,0 500,0

422,0

416,6

592,2
(Nguồn: Tổng hợp từ thời báo kinh tế )
Qua bảng trên chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy kim ngạch và khối lượng cà phê
xuất khẩu trong thời kỳ 90 - 97 được chia thành hai giai đoạn: 90 - 93 và 94 - 97.
Trong giai đoạn đầu khối lượng xuất khẩu dao động ở mức trên dưới 100 ngàn tấn còn
kim ngạch trung bình khoảng 80 triệu USD. Suốt những năm nay tuy có sự tăng
trưởng trong xuất khẩu song sự tăng trưởng này là tương đối ổn định và không xảy ra
đột biến nào. Tuy nhiên bước sang năm 1994 xuất khẩu cà phê của Việt Nam thực sự
đã có bước nhảy vọt về cả khối lượng cũng như kim ngạch, đặc biệt kim ngạch xuất
khẩu cà phê đã tăng gần 500% từ 95,4 triệu USD lên 450,0 triệu USD. Trong khi đó,
lượng cà phê xuất khẩu chỉ tăng khoảng 150% từ 106 ngàn tấn lên 170 ngàn tấn, điều
đó được giải thích qua sự biến động của giá cà phê. Những năm sau đó tuy khối lượng
xuất khẩu đã tăng liên tục lên 210 ngàn tấn năm 95, 233 ngàn tấn năm 96 và 360 ngàn
tấn năm 97 nhưng kim ngạch xuất khẩu cà phê lại không hề tăng, thậm chí năm 97 còn
giảm xuống 416,6 triệu USD. Năm 98 Việt Nam đã xuất khẩu được 390.405 tấn cà phê
đạt kim ngạch 592.279 ngàn USD đưa Việt Nam trở thành nước thứ 3 về xuất khẩu cà
phê trên thế giới, ngang với Mêhicô, sau Braxin và Colombia. Đồng thời hiện nay Việt
Nam cũng là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới.
b. Thị trường.
Đến cuối năm 1998 cà phê Việt Nam đã có mặt ở hơn 50 nước và khu vực lãnh
thổ với các bạn hàng chủ yếu là Mỹ, Đức, Pháp , Tuy nhiên Việt Nam chỉ mới tham
gia xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ trong vòng 5 năm trở lại đây nhưng hiện nay

Mỹ đã là bạn hàng nhập khẩu cà phê lớn nhất, trung bình hàng năm Mỹ nhập khẩu


khoảng 25% tổng khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó các nước
thuộc liên minh châu Âu (EU) cũng nhập khẩu một khối lượng khá lớn, nếu tính chung
toàn bộ khu vực này thì lượng nhập khẩu đã chiếm hơn 50% tổng khối lượng xuất
khẩu, tương đương khoảng 200 ngàn tấn/năm. Ngòai ra thị trường Nhật cũng tiêu thụ
một khối lượng đáng kể cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Hàng năm Nhật nhập khoảng
12.000 tấn cà phê từ Việt Nam. Tuy vậy với một thị trường có mức nhập khẩu trung
bình hàng năm tới trên 5 triệu bao thì đây thực sự chỉ là con số khiêm tốn. Bên cạnh
đó, Việt Nam còn xuất khẩu cà phê sang thị trường một số nước thuộc khu vực châu á
như Singapore, Hồng Kông, Trước đây các thị trường này đã từng là bạn hàng nhập
khẩu cà phê chủ yếu của Việt Nam khi Việt Nam chỉ mới tham gia thị trường cà phê
thế giới, nhưng hiện nay tỷ trọng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang các nước này
đang có xu hướng giảm sút. Dự báo trong thời gian tới xuất khẩu của cà phê Việt Nam
vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào một số thị trường lớn như Bắc Mỹ và Liên minh châu Âu
(EU) các thị trường khác vẫn sẽ đóng vai trò hỗ trợ nhằm đa dạng hóa thị trường cà
phê xuất khẩu Việt Nam .
2. Tình hình buôn bán cà phê trên thế giới.
Cùng với việc gia tăng về sản lượng tình hình buôn bán cà phê trên thị trường thế
giới cũng trở nên nhộn nhịp hơn trong những thập kỷ trở lại đây. Cà phê và các sản
phẩm từ cà phê dần có được vai trò quan trọng hơn trong mậu dịch thế giới, hàng năm
kim ngạch buôn bán cà phê thế giới đã vượt quá còn số 10 tỉ đô la Mỹ, đưa nó trở
thành một trong những mặt hàng nông sản đạt giá trị kim ngạch cao nhất trong thương
mại thế giới.
2.1. Các nước xuất khẩu chủ yếu.
Hiện nay, các nước sản xuất cà phê chủ yếu trên thế giới cũng đồng thời là những
quốc gia xuất khẩu nhiều sản phẩm cà phê nhất. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu cà
phê của họ chưa tương xứng với lượng sản xuất cũng như xuất khẩu do các nước này
còn có nhiều hạn chế về mặt kỹ thuật chế biến để có được những sản phẩm cà phê có

chất lượng cũng như giá trị cao. Vì vậy mới có hiện tượng một số nước vừa là nhập
khẩu vừa là nhà xuất khẩu lớn trên thị trường cà phê. Để hạn chế điều này và khẳng
định hơn nữa chỗ đứng của mình trên thị trường xuất khẩu, trong một vài năm trở lại
đây các nước xuất khẩu cà phê chủ yếu thuộc nhóm các nước đang phát triển đã cố


gắng đẩy mạnh đầu tư về mặt công nghệ để hạn chế dần việc xuất khẩu những sản
phẩm sơ chế có giá trị thấp, tăng cường sản xuất và xuất khẩu những chủng loại sản
phẩm có chất lượng cao, đã qua tinh chế, không phải trải qua công đoạn sản xuất thuộc
một nước phát triển thứ ba nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu cà phê tương ứng với
khối lượong.
Biểu 4: Một số nước xuất khẩu cà phê chủ yếu trên thị trường thế giới
(Đơn vị: triệu bao)
Niên vụ
Tên nước
1991
1992
1992
1993
1993
1994
1994
1995
1995
1996
1996
1997
1997
1998
Braxin 21,000


17,600

16,900

16,800

13,655

17,318

15,181

Colombia 15,400

14,500

12,700

10,300

12,900

10,900

10,776

Indonesia 4,000

4,500


5,500

3,900

6,195

5,833

4,725

Codivoa 3,500

4,900

3,400

2,400

2,600

3,500

4,571

Mexico 3,000

3,100

3,600


3,600

4,576

4,380

3,829

Uganda 2,013

2,010

2,980

2,238

4,150

4,230

2,928

Goatemala 3,200

4,300

3,400

3,300


3,720

4,000

3,765

Etiopia 0,699

1,160

1,332

1,321

1,300

1,200

2,017

Kenia 1,399

1,412

1,460

1,251

1,200


1,150

0,769

Việt Nam 1,100

2,200

2,700

2,500

3,883

6,000

5,983

Các nước khác 20,210

21,910

19,470

19,470

16,121

13,098


22,072

Thế giới 75,500

77,600

67,200

67,200

73,300

71,600

74,916


(Nguồn: Tổ chức cà phê thế giới - ICO)
Qua bảng trên chúng ta có thể thấy trong những năm gần đây cà phê xuất khẩu
trên thị trường thế giới không có những biến động lớn. Ngoại trừ niên vụ 94/95 lượng
cà phê trao đổi giảm còn 67,2 triệu bao, còn những niên vụ còn lại hầu hết đều đạt trên
71 triệu bao, trong đó niên vụ cao nhất (92/93) đã đạt 77,6 triệu bao. Tuy nhiên, nếu


xét cụ thể từng nước thì sản lượng xuất khẩu lại có những biến động đáng kể. Ví dụ:
trong niên vụ 91/92 Braxin đã xuất khẩu tới 21 triệu bao, nhưng trong những niên vụ
sau đó lượng xuất khẩu của nước này đã liên tục giảm sút, cho tới niên vụ 95/96 con số
này chỉ còn 13,655 triệu bao, nhỉnh hơn Colombia chút ít, tới niên vụ 96/97 lượng xuất
khẩu của Braxin mới có dấu hiệu phục hồi. Cũng như thế, lượng cà phê xuất khẩu của

Colombia, một nước khác thuộc Châu Mỹ La Tinh cũng đã giảm 1/3, từ 15,4 triệu bao
niên vụ 91/92 xuống còn 10,7 triệu bao nên vụ 97/98. Ngoại trừ hai trường hợp trên
lượng xuất khẩu của tám nước còn lại hầu hết đều tăng trưởng dương, tuy mức độ có
khác nhau. Trong số đó đáng chú ý nhất phải kể tới Việt Nam. Nếu như sản lượng xuất
khẩu trong niên vụ 91/92 của Việt Nam mới chỉ dừng lại ở con số khiêm tốn là 1,1
triệu bao, đứng thứ 9 trong số 10 quốc gia xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới thì chỉ 4
năm sau Việt Nam đã xuất khẩu gần 4 triệu bao và tới niên vụ 96/97 Việt Nam đã xuất
khẩu 6 triệu bao cà phê vươn lên đứng hàng thứ ba trên thế giới.
2.2. Các nước nhập khẩu chủ yếu.
Nếu như các nước xuất khẩu cà phê chủ yếu trên thế giới đều là các nước đang
phát triển thì các nước nhập khẩu chủ yếu đều là các quốc gia phát triển và đa phần
trong số đó là các quốc gia thuộc nhóm công nghiệp phát triển (G7) như: Mỹ, Đức,
Nhật, Bảng sau sẽ cho chúng ta thấy rõ tình hình nhập khẩu của các nước này trong
thời gian gần đây:
Biểu 5: Một số nước nhập khẩu cà phê chủ yếu trên thế giới.
(Đơn vị: triệu bao)
Năm
Tên nước
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Mỹ 22,937

19,324

16,169

17,104

19,434

19,834


18,526

Đức 13,907

13,526

13,674

12,806

13,577

14,356

9,754

Italia 4,595

5,594

5,555

5,387

5,607

5,703

4,912


Nhật 5,652

5,514

6,040

5,324

5,619

5,603

6,017

Pháp 6,660

6,531

6,486

6,246

6,695

6,724

5,320

Anh 3,047


3,173

3,395

2,782

3,113

3,104

2,674



Các nước khác 34,100

35,730

38,630

31,950

28,250

26,072

27,134

Thế giới 90,900


89,400

90,000

81,600

82,300

81,406

75,607

(Nguồn: Tổ chức cà phê thế giới - ICO)
Như chúng ta thấy ở trên, tình hình nhập khẩu cà phê ở các nước nhập khẩu chủ
yếu không có những biến động lớn như các nước xuất khẩu. Điều đó cho thấy nhu cầu
tiêu dùng cũng như nhập khẩu cà phê trên thế giới tương đối ổn định và phụ thuộc
nhiều vào năng lực sản xuất của các quốc gia xuất khẩu. Trong số các nước nhập khẩu
nhiều cà phê nhất Mỹ luôn chiếm vị trí dẫn đầu với mức trên dưới 20 triệu bao, gần
tương đương mức xuất khẩu của Braxin. Hiện nay, người Mỹ đang có xu hướng
chuyển sang sử dụng các loại cà phê có chất lượng cao vì vậy lượng nhập khẩu cà phê
hòa tan từ các nước khác đã giảm nhiều, thay vào đó lượng nhập khẩu cà phê hòa tan
từ các nước khác đã giảm nhiều, thay vào đó lượng nhập khẩu cà phê hòa tan chưa qua
chế biến lại tăng đáng kể nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất các loại cà phê có chất
lượng đặc biệt ở trong nước. Tiếp đó là Đức với mức nhập khẩu năm 1997 là 14,356
triệu bao. Các nước Nhật, Itailia, Pháp nhập khẩu lượng cà phê gần như nhau, khoảng
trên dưới 6 triệu bao/năm. Đứng cuối cùng trong số các nước kể trên là Anh với lượng
nhập khẩu hàng năm khoảng 3 triệu bao. So với các nước khác thuộc lục địa châu Âu
thì người Anh tỏ ro không mặn mà với cà phê lắm, lượng tiêu thụ cà phê bình quân
trên đầu người ở Anh thuộc vào diện thấp trên thế giới nếu so với các nước có cùng

trình độ phát triển kinh tế. Ngoài ra các nước còn lại cũng chiếm khoảng 30% tổng
nhu cầu nhập khẩu cà phê trên thế giới, cá biệt như năm 94 các nước này đã nhập khẩu
tới 38,63 triệu bao trên tổng số 90 triệu bao tòan thế giới (tương đương gần 43%).
IV- thị trường xuất khẩu cà phê của công ty intimex.

Cũng giống như tình trạng chung của hoạt động xuất khẩu Việt Nam những năm
trước đây, hoạt động xuất khẩu của công ty INTIMEX nói chung và xuất khẩu cà phê
nói riêng trong thời gian đó cũng đều tập trung vào thị trường Đông Âu và Liên Xô cũ.
Hàng năm các thị trường này thường chiếm trên 90%tổng khối lượng cũng như kim
ngạch xuất khẩu cuả công ty. Do sớm tham gia vào thị trường xuất khẩu cà phê nên
ngày nay công ty đã có được một thị trường xuất khẩu ổn định và đa dạng. Các thị
trường chủ yếu về cà phê của Công ty hiện nay bao gồm: Singapore, Hồng Kông, Mỹ,


Hàn Quốc, Liên minh Châu Âu (EU), còn các thị trường truyền thống thuộc hệ thống
các nước XHCN cũ nay chỉ còn chiếm một lượng nhỏ trong tổng khối lượng cũng như
giá kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty. Năm 1990 Công ty đã xuất khẩu 370 tấn
cà phê (tương đương 45% tổng khối lượng xuất khẩu) sang Ba Lan, Tiệp Khắc và Nga,
nhưng đến năm 2000 Công ty chỉ xuất khẩu đổi hàng được với Nga 120 tấn cà phê trị
giá là 160 ngàn USD. Ngược lại, nếu như vào năm 86 Công ty mới xuất khẩu được
những tấn cà phê đầu tiên sang Singapore và Hồng kông thì tới năm 90 Công ty đã
xuất khẩu được 240 tấn sang Singapore và 100 tấn sang Hồng Kông. Đến năm 2000
Công ty đã xuất khẩu được gần 1.600 tấn cà phê sang các thị trường này đạt giá kim
ngạch 2.500.000USD. Trong một vài năm trở lại đây Công ty đã tích cực khai thác thị
trường mới như: Mỹ, EU, Hàn Quốc và đã thu được kết quả hết sức khả quan. Kết thúc
năm 2000 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cà phê sang các thị trường này đã chiếm tới
hơn 40% tổng kim ngạch cà phê xuất khẩu của Công ty, tương đương với 1.840.000
USD.
Biểu 11: Các thị trường xuất khẩu cà phê chủ yếu của Công ty trong hai năm
1990 và 2000.

(Đơn vị: USD)
Năm

Thị trường
1990 2000

Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng
Nga 164.000 22,99% 160.000 3,51%
Đông Âu 160.000 22,43% X X
Mỹ X X 880.000 19,30%
EU X X 960.000 21,60%
Singapore 196.800 27,59% 1.147.000 25,18%
Hồng Kông 82.000 11,49% 963.000 21,71%
T.trường khác 110.600 15,50% 450.000 9,70%
Tổng số 713.400 100% 4.560.000 100%
(Nguồn: Phòng KTTH - Công ty INTIMEX)



Chương 2.
Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng cà phê tại
công ty INTIMEX trong thời gian qua.

I- Giới thiệu chung về Công ty INTIMEX.
1. Quá trình hình thành và phát triển.
Theo quyết định số 217 của Thủ tướng Chính phủ ngày 23 tháng 6 năm 1979, có
sự đề nghị của Bộ Nội thương và sự nhất trí của Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương
mại), Công ty đã được thành lập với tên gọi lúc đó là Công ty xuất nhập khẩu hàng nội
thương. Đây là trung tâm xuất nhập khẩu của ngành nội thương có nhiệm vụ thông qua
hoạt động xuất nhập khẩu cải thiện cơ cấu quỹ hàng hóa do ngành nội thương quản lý,

đồng thời góp phần đẩy mạnh xuất khẩu. Công ty có trụ sở chính đặt tại 96 Trần Hưng
Đạo, Hà Nội.
Ngày 22 tháng 10 năm 1985 do việc điều chỉnh các tổ chức kinh doanh thuộc Bộ
Nội thương đã thông qua Nghị định số 255/HĐBT và theo đề nghị của giám đốc Công
ty xuất nhập khẩu nội thương và HTX, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ra quyết định tổ
chức lại Tổng Công ty thành hai Công ty trực thuộc Bộ.
- Công ty xuất nhập khẩu nội thương - HTX Hà Nội.
- Công ty xuất nhập khẩu - HTX thành phố Hồ Chí Minh
Ngày 20 tháng 3 năm 1995, Bộ trưởng Bộ Thương Mại đã ký hợp nhất Công ty
thương mại dịch vụ phục vụ Việt kiều và Công ty xuất nhập khẩu nội thương và HTX
Hà Nội, trực thuộc Bộ Thương mại. Đây là doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
tổng hợp, kinh doanh thương nghiệp, dịch vụ phục vụ Việt Kiều, khách sạn du lịch, gia
công hàng nhập khẩu.
Ngày 8 tháng 6 năm 1995, Công ty xuất nhập khẩu nội thương và HTX chuyển
thành Công ty xuất nhập khẩu dịch vụ thương mại Intitmex theo quyết định 169/TCCB
của Bộ thương mại.


Ngày 24 tháng 6 năm 1995, Bộ trưởng Bộ thương mại đã ra quyết định phê duyệt
điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty .
Ngày 13 tháng 11 năm 1995, Công ty được Bộ trưởng Bộ thương mại cấp giấy
phép kinh doanh số 1161085. Công ty INTIMEX có tài khoản ngoại tệ số
362111370037, tài khoản giao dịch tiền Việt số 361111370037 tại ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam và tại ngân hàng Exim Bank.
Lúc mới thành lập, Công ty xuất nhập khẩu nội thương và HTX chỉ được Nhà
nước giao vốn 200.000đ, đến ngày 28 tháng 5 năm 1995 Công ty được Nhà nước giao
thêm 21.665.000đ. Số tiền đó quá ít so với nhu cầu của Công ty vì vậy Công ty chủ
yếu dựa vào vốn tự có. Đến nay, tổng số vốn đã lên khoảng 55 tỷ trong đó hơn 80% là
vốn lưu động và chủ yếu là vốn tự có.
Như vậy, trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Công ty đã nhiều lần thay

đổi tên gọi và phải trải qua rất nhiều khó khăn trong bối cảnh kinh tế xã hội có nhiều
biến đổi, song Công ty vẫn luôn đứng vững và thực hiện tốt hoạt động kinh doanh.
2. Cơ cấu tổ chức Công ty.
Đứng đầu Công ty là Giám đốc do Bộ trưởng Bộ thương mại bổ nhiệm và miễn
nhiệm. Giám đốc điều hành và quản lý Công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu
trách nhiệm trước Bộ về mọi hoạt động của Công ty. Giúp việc cho giám đốc là một số
Phó Giám đốc do Giám đốc lựa chọn và đề nghị Bộ trưởng Bộ thương mại bổ nhiệm
và miễn nhiệm.
Kế toán trưởng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Công ty, và có trách
nhiệm giúp Giám đốc tổ chức chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán thống kê,
thông tin kinh tế và hạch toán kinh tế, thực hiện phân tích hoạt động kinh tế, báo cáo
kết quả hoạt động của Công ty theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Giám đốc Công ty là người tổ chức bộ máy quản lý và mạng lưới kinh doanh phù
hợp với nhiệm vụ của Công ty và quy định của phân cấp quản lý tổ chức của Bộ
thương mại.
Hiện nay, Công ty gồm 15 phòng ban bao gồm các phòng quản lý và các phòng
nghiệp vụ như sau:


1. Phòng kinh tế tổng hợp: dự thảo kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm, quản
lý kế hoạch, thống kê đối ngoại, pháp chế kho vận, phối hợp với các phòng nghiệp vụ
về các mặt hàng quản lý về hạn ngạch
2. Phòng kế toán tài chính: hạch toán kế toán, đánh giá tòan bộ kết quả hoạt động
của Công ty, quản lý tài sản, vốn, phí, mở L/C cho các phòng nghiệp vụ, quản lý tiền
hàng cho Công ty .
3. Phòng tổ chức cán bộ: nắm nhân lực của Công ty, đưa ra chính sách về lao
động, tiền lương, thanh tra, bảo vệ, đào tạo,
4. Phòng Hành chính quản trị: phục vụ văn phòng phẩm, tiếp khách, văn thư, chủ
trì hội nghị, tiếp khách đến giao dịch làm việc với Công ty.
5. Các phòng nghiệp vụ kinh doanh (9 phòng): được phép ủy thác và nhận ủy

thác xuất nhập khẩu với các tổ chức kinh tế trong và ngòai nước, tổ chức liên doanh
liên kết trong kinh doanh xuất nhập khẩu, dịch vụ.
14. Phòng Liên doanh liên kết.
15. Phòng Kinh doanh du lịch khách sạn.
16. Ban Kiến thiết sản xuất cơ bản.
Bên cạnh 16 phòng ban là các đơn vị trực thuộc sau:
- Trung tâm Du lịch dịch vụ khách sạn: 32 Lý Thái Tổ - Hà Nội.
- Trung tâm Thương mại dịch vụ tổng hợp 26 Lý Thái Tổ - Hà Nội.
- Xí nghiệp Dịch vụ Thương mại lắp ráp xe máy:11B Láng Hạ - Hà Nội.
- Chi nhánh Công ty XNK dịch vụ Thương mại INTIMEX Đà Nẵng.
- Chi nhánh Công ty XNK dịch vụ thương mại INTIMEX TP. Hồ Chí Minh.
- Chi nhánh Công ty XNK dịch vụ thương mại INTIMEX Hải Phòng.
- Xí nghiệp Dịch vụ thương mại sản xuất: 2 Lê Phụng Hiểu - Hà Nội.
3. Nội dung hoạt động của công ty.
Công ty XNK dịch vụ thương mại INTIMEX là một doanh nghiệp Nhà nước trực
thuộc Bộ Thương mại.
Tên giao dịch đối ngoại là : Foreign Trade Enterprise.


Tên điện tín : INTIMEX
Địa chỉ : 96 Trần Hưng Đạo - Hà Nội.
Công ty INTIMEX có những nội dung hoạt động chủ yếu sau đây:
1. Xuất nhập khẩu trực tiếp và nhận uỷ thác các mặt hàng nông lâm hải
sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ cùng các mặt hàng do Công ty tự
sản xuất hoặc gia công, hoặc liên doanh liên kết tạo ra.
2. Xuất nhập khẩu trực tiếp và nhận ủy thác các mặt hàng máy móc thiết bị, vật
tư xây dựng, nguyên vật liệu, phương tiện vận tải.
3. Tiến hành các hoạt động sản xuất, lắp ráp, gia công, liên doanh liên kết hợp tác
đầu tư với các đối tác trong và ngoài nước nhằm sản xuất hàng xuất khẩu và tiêu dùng.
4. Kết hợp với việc làm dịch vụ kiều hối cho người Việt Nam định cư ở nước

ngoài, kinh doanh nhà hàng, khách sạn du lịch.
5. Tiến hành bán buôn bán lẻ các mặt hàng thuộc phạm vi Công ty sản xuất, gia
công, lắp ráp.
II- Tình hình xuất khẩu cà phê của Công ty INTIMEX:
1. Tình hình thu mua cà phê xuất khẩu:
Đối với bất cứ một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nào thì hoạt động
thu mua hàng để xuất khẩu cũng như tiêu thụ hàng nhập khẩu đều là nền tảng đảm bảo
cho sự phát triển lâu dài của Công ty. Hoạt động kinh doanh nội địa của Công ty có
phát triển vững chắc thì Công ty mới có điều kiện mở rộng hoạt động thương mại trên
thị trường quốc tế. Nhận thức được rõ điều đó ngay từ khi thành lập Công ty
INTIMEX đã xác định rõ khâu thu mua hàng xuất khẩu cũng như tiêu thụ hàng nhập
khẩu là những khâu tối quan trọng cấu thành lên hoạt động kinh doanh của Công ty.
Trong hoạt động xuất khẩu cà phê của mình, Công ty INTIMEX cũng đã hết sức chú
trọng tới vấn đề thu mua hàng trong nước, bằng chứng là Công ty đã thiết lập được
một hệ thống các chân hàng có uy tín ở trong nước có thể đảm bảo những đòi hỏi của
Công ty về cả số lượng cũng như chất lượng khi tìm được bạn hàng xuất khẩu.
Ngay từ khi cà phê Việt Nam mới tham gia thị trường cà phê thế giới, lượng cà
phê xuất khẩu lúc đó mới chỉ mang tính chất thăm dò mà chưa đạt giá trị thương mại
đáng kể, Công ty đã quan tâm tới một chiến lược xuất khẩu cà phê lâu dài bằng việc


tìm kiếm và lựa chọn đối tác làm ăn trong nước. Công ty đã cử nhiều đoàn cán bộ trực
tiếp tới các vùng sản xuất cà phê chủ yếu lúc đó để liên hệ mua cà phê xuất khẩu cũng
như xem xét khả năng hợp tác lâu dài với các nhà sản xuất, mà cụ thể lúc đó là các
nông trường cà phê. Nhờ vậy, trong những năm sau này khi sản xuất và xuất khẩu cà
phê của Việt Nam bắt đầu khởi sắc thì Công ty là một trong những doanh nghiệp hàng
đầu của Bộ Thương mại tham gia vào thị trường cà phê thế giới. Bước sang giai đoạn
đổi mới và mở cửa nền kinh tế đất nước, khi xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã phát
triển một cách ổn định thì hoạt động xuất khẩu cà phê của Công ty cũng đã có bước
tiến dài, trong đó có phần đóng góp không nhỏ của hoạt động mua hàng trong nước.

Hiện nay, các đối tác cung cấp cà phê xuất khẩu truyền thống cho Công ty đã chiếm
tới hơn 85% tổng khối lượng cà phê xuất khẩu trực tiếp của Công ty. Điều đó nói nên
tính ổn định và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh nội địa của Công ty. Không dừng
lại ở những kết quả đạt được, Công ty INTIMEX vẫn tiếp tục củng cố các chân hàng
vốn có và tích cực tìm kiếm những chân hàng mới nhằm đa dạng hoá nguồn hàng cung
cấp trong nước đảm bảo cho những đòi hỏi khắt khe về chất lượng và những nhu cầu
lớn về khối lượng cho bước phát triển mới trong tương lai.
2. Hoạt động xuất khẩu.
2.1. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu.
Hiện nay Công ty INTIMEX đang thực hiện xuất khẩu mặt hàng cà phê theo ba
phưong thức chủ yếu là: xuất khẩu trực tiếp, xuất khẩu ủy thác và xuất khẩu theo
phương thực hàng đổi hàng. Trong ba phương thức này, phương thức xuất khẩu trực
tiếp đóng vai trò quan trọng nhất, tỷ trọng kim ngạch cà phê được xuất khẩu trực tiếp
thường chiếm từ 60% đến 70% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty. Sở dĩ tỷ
trọng này cao như vậy bởi xuất khẩu trực tiếp là phương thức mang tính chủ động và
thưòng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với các hình thức xuất khẩu khác. Hơn
nữa, khi hoạt động xuất khẩu cà phê theo phưong thức này Công ty còn thức đẩy được
hoạt động kinh doanh nội địa, tạo ra được nhiều mối quan hệ kinh tế trong nước, tạo ra
công ăn việc làm cho các nhân viên trong Công ty thuộc các chi nhánh của địa
phương.
Tuy nhiên, phương thức xuất khẩu trực tiếp lại tỏ ta kém hiệu quả đối với các
khách hàng nước ngoài không có nguồn ngoại tệ dồi dào. Vì vậy Công ty còn sử dụng


phương thức xuất khẩu hàng đổi hàng để mở rộng thị trường cà phê sang các nước
thuộc Đông Âu và Liên Xô cũ. Đặc biệt trong thời gian gần đây Công ty đã thực hiện
xuất khẩu cà phê theo phương thức này sang Singapore để đổi lấy một số hàng khan
hiếm mà trong nước chưa thể đáp ứng được. Nhờ vậy từ chỗ chỉ chiếm 2-5% tổng kim
ngạch xuất khẩu cà phê trong thời gian đầu, đến nay tỷ trọng xuất khẩu cà phê theo
phưong thức hàng đổi hàng của Công ty đã tăng lên đến 10-20%. Nếu tiếp tục duy trì

được đà tăng trưởng này đến năm 2002 tỷ trọng cà phê xuất khẩu đổi hàng sẽ đạt mức
ổn định khoảng 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty.
Phương thức xuất khẩu thứ 3 mà Công ty áp dụng đối với mặt hàng chủ yếu là
xuất khẩu ủy thác. Đây đã từng là phương thức xuất khẩu chủ yếu của Công ty trong
những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90. Nhờ uy tín của một doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu làm ăn có hiệu quả cũng với đội ngũ cán bộ có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu cà phê mà Công ty INTIMEX đã được nhiều bạn
hàng trong nước tín nhiệm ủy thác. Thêm vào đó, do đã sớm tạo lập được một mạng
lưới khách hàng nên khối lượng cà phê xuất khẩu uỷ thác của Công ty luôn đạt mức
cao. Tuy vậy, đó chỉ là thời kỳ đầu của giai đoạn đổi mới, sau này do sự bung ra mạnh
mẽ của hoạt động xuất khẩu mà ngày càng có nhiều doanh nghiệp được tham gia xuất
khẩu trực tiếp dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt trên thị trường xuất khẩu cà phê.
Các bạn hàng của Công ty trước đây thường ủy thác xuất khẩu thì nay cũng giành
được quyền xuất khẩu trực tiếp nên tỷ trọng cà phê xuất khẩu ủy thác trong vài năm
gần đây có chiều hướng giảm mạnh. Đó cũng là qui luật tất yếu của nền kinh tế thị
trường, vì vậy Công ty cần có những bước đi hợp lý để duy trì sự tăng trưởng của hoạt
động xuất khẩu cà phê.
Biểu 6: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty INTIMEX theo các
phương thức trong 2 năm 1990 và 2000.
(Đơn vị: USD)
Năm


Phương thức
1990 2000
Kim ngạch Tỷ trọng Kim ngạch Tỷ trọng


1. XK trực tiếp 385.000


53,97%

3.265.000

71,82%

2. Xk uỷ thác 267.000

37,43%

440.000

9,45%

3. XK theo p.thức
hàng đổi hàng
61.400

8,60%

855.000

18,73%

Tổng số 713.400

100%

4.560.000


100%

(Nguồn: Phòng KTTH Công ty INTIMEX)
Như vây, trải qua 10 năm đã có nhiều biến đổi lớn trong cơ cấu tỷ trọng của các
phương thức xuất khẩu cà phê của Công ty. Đó là sự tăng tỷ trọng của các phương
thức xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu theo phương thức hàng đổi hàng. Từ chỗ chỉ
chiếm hơn 50% tổng kim ngạch, tương đương 385.000USD, đến nay kim ngạch xuất
khẩu cà phê trực tiếp đã tăng lên gần 72% với 3.265.000. Điều đó ngày càng khẳng
định vai trò của phương thức này trong xu thế phát triển xuất khẩu của Công ty. Bên
cạnh đó, kim ngạch cà phê xuất khẩu đổi hàng cũng có chiều hướng tăng mạnh về giá
trị cũng như tỷ trọng. Đến nay, kim ngạch cà phê xuất khẩu đổi hàng đã đạt
855.000USD, chiếm 18,73% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty. Tuy
nhiên, điều tất yếu là với sự gia tăng tỷ trọng của hai phương thức trên thì tỷ trọng kim
ngạch của phương thức xuất khẩu ủy thác cũng giảm từ 37,43% xuống còn 9,45%.
Nhưng nếu xét về mặt giá trị tuyệt đối thì kim ngạch cà phê xuất khẩu ủy thác cũng đã
tăng gần gấp đôi, đến năm 2000 con số kim ngạch này là 440.000USD.
2.2. Khối lượng, giá cả và kim ngạch xuất khẩu.
Hoà chung vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của cà phê Việt Nam, trong khoảng
mười năm vừa qua khối lượng và kim ngạch xuất khẩu mặt hàng cà phê của Công ty
INTIMEX cũng đã gia tăng liên tục qua các năm. Từ năm 1990 đến năm 2000 khối
lượng xuất khẩu đã tăng gần 3,6% lần từ 820 tấn lên 3.000tấn, song song với đó kim
ngạch xuất khẩu cũng đã tăng 6,5 lần từ 713.400USD lên 4.560.000 USD. Đồng thời
đưa tỷ trọng kim ngạch mặt hàng cà phê của Công ty trong tổng kim ngạch xuất khẩu
từ 15% năm 1990 lên 30% năm 2000. Đây cũng là tỷ trọng cao nhất trong số những
mặt hàng mà Công ty tham gia xuất khẩu.
Có những năm như năm 1996 kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã bị thụt giảm
hơn 2 triệu USD, tương đương 26%, do giá cà phê giảm từ 2.630USD/MT xuống còn


1.825 USD/MT. Nhưng cũng nhờ giá tăng mạnh từ 1.000USD/MT vào năm 93 lên

2.680USD/MT năm 94 mà kim ngạch đã tăng tới 3 lần từ gần 2 triệu USD lên gần 6
triệu USD.
Về giá cả, nhìn chung mặt bằng giá xuất khẩu cà phê của Công ty luôn nhỉnh hơn
giá xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Chỉ duy nhất năm 1995 giá cà phê của
Công ty có phần thấp hơn 3USD/MT so với giá trung bình trong nước. Tuy vậy nếu so
với giá cà phê thế giới thì giá cà phê của Công ty cũng như của các doanh nghiệp khác
đều thấp hơn trung bình khoảng 50 USD/MT do giữa các doanh nghiệp tham gia xuất
khẩu cà phê có sự cạnh tranh thiếu lành mạnh nên thường bị các khách hàng nước
ngoài ép giá.
Biểu 7: Khối lượng, giá cả và kim ngạch xuất khẩu cà phê của Công ty
INTIMEX trong thời gian qua.
Năm

Chỉ tiêu
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Khối lượng
(MT)
820

1.150

1.460

1.930

2.200

2.660

2.750


3.190

2.970

Giá cả
(USD/MT)
870

835

730

1.000

2.680

2.630

2.630

1.250

1.550

Kim ngạch
(1000USD)
713,4

960,3


1.065

1.930

5.896

6.850

4.849

3.950

4.560

(Nguồn: phòng KTTH Công ty INTINMEX)
3. Đánh giá chung.
3.1. Kết quả đạt được:
Trong những năm qua, hoạt động xuất khẩu cà phê của Công ty INTIMEX đã
mang lại những đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của xuất khẩu Việt Nam nói
chung và đối với sự lớn mạnh của Công ty INTIMEX nói riêng. Những đóng góp đó
có khái quát như sau:


* Tạo nguồn ngoại tệ cho Công ty: hàng năm hoạt động xuất khẩu cà phê đã
mang lại trung bình từ 5-7 triệuUSD, đáp ứng một phần không nhỏ nhu cầu nhập khẩu,
cân đối thu chi ngoại tệ trong các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty,
góp phần thúc đẩy Công ty phát triển một cách đồng đều theo cả hai hướng xuất khẩu
và nhập khẩu.
* Tạo việc làm cho cán bộ, công nhân viên trong Công ty: Không những đối với

nhân viên thuộc các phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu mà còn đối với cả nhân viên của
các chi nhánh của nhân viên mua thuộc lĩnh vực kinh doanh nội địa.
Tăng cường hợp tác kinh doanh với các bạn hàng trong nước, mở rộng thị trường
xuất khẩu, tăng cường mối quan hệ với các đối tác nước ngoài.
* Nâng cao uy tín của Công ty ở thị trường trong nước cũng như thị trường thế
giới.
* Đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, tạo sự ổn định tương đối trong cơ cấu
hàng xuất khẩu của Công ty.
* Nâng cao nghiệp vụ xuất nhập khẩu của đội ngũ nhân viên, hoàn thiện công tác
quản lý,vv
3.2. Những vấn đề còn tồn tại:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, do một số nguyên nhân khách quan và cả
những nguyên nhân chủ quan mà hiện nay hoạt động xuất khẩu cà phê của Công ty
còn một số hạn chế sau:
* Hoạt động thu mua nội địa còn gặp nhiều khó khăn như: thiếu nhân viên, thiếu
phương tiện vận chuyển, bảo quan, lưu trữ hàng Hơn nữa, do lượng vốn còn hạn chế
nên Công ty còn chưa có được sự chủ động trong công tác thu mua dự trự cà phê xuất
khẩu, khó tính hết được hiệu quả kinh doanh lâu dài.
* Chất lượng cà phê thu mua chưa đồng đều do được tập trung từ rất nhiều nguồn khác
nhau. Đây là một trong những vấn đề nan giải không chỉ đối với riêng Công ty mà còn đối với
toàn ngành cà phê Việt Nam nói chung.

×