LUẬN VĂN:
Phương hướng và giải pháp thúc
đẩy hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu của Công ty May
Chiến Thắng
Lời mở đầu
Quá trình quốc tế hoá đang phát triển mạnh mẽ ở khắp các châu lục, các khu vực
trên thế giới với sự tham gia ngày càng rộng rãi của các nước chậm phát triển. Những
lợi ích to lớn của hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho mỗi nước tham gia là rõ ràng
và khó có thể bác bỏ. Con đường xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo kiểu cô
lập với bên ngoài đã hoàn toàn không có sức thuyết phục và hầu như không còn nước
nào đi theo nữa. Vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia là hội nhập kinh tế quốc tế với
những bước đi như thế nào để có thể mang lại những lợi ích tối đa và phải trả một cái
giá tối thiểu quả thực là một thách thức không nhỏ.
Sự hội nhập tất yếu của nước ta vào hợp tác khu vực và quốc tế cũng đặt ra nhiệm
vụ hết sức to lớn cho nền kinh tế. Một trong những bước đi của quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế đó là xây dựng nền kinh tế hướng về xuất khẩu, tiến hành tự do hoá
thương mại và tham gia vào các định chế liên kết khu vực và toàn cầu. Định hướng
này đã được Đảng và Nhà nước ta lựa chọn từ Đại hội Đảng VI ('86) và được cụ thể
hoá và phát triển ở Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII ('96). "Đẩy mạnh xuất khẩu
coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là quan điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các
mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Mở rộng trung tâm xuất nhập khẩu, tạo khả năng xuất
khẩu các mặt hàng đã qua chế biến sâu, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch
vụ". Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm khoảng 28% nâng mức xuất
khẩu bình quân đầu người năm 2000 lên trên 200USD.
Có thể thấy rằng, ngành công nghiệp dệt may là ngành có ý nghĩa trọng tâm trong
giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường, từ một hệ thống kinh tế chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp Nhà
nước sang một hệ thống mà trong đó cácddn được đối xử một cách công bằng không
phân biệt hình thức sở hữu. Với sự thành công của quá trình đổi mới, ngành may
cũng là một phần cấu thành quan trọng trong chính sách định hướng xuất khẩu của
đất nước, và một cách chung hơn, trong các nỗ lực của Việt Nam để hoà nhập vào
nền kinh tế quốc tế.
Công nghiệp dệt- may là một trong các ngành chế tác xuất khẩu quan trọng trong
giai đoạn đầu phát triển của đất nước. Sự thành công về xuất khẩu trong ngành này
thường mở đường cho sự xuất hiện của chiến lược phát triển định hươngs xuất khẩu
có cơ sở rộng hơn. Sự thất bại về xuất khẩu của ngành này bao giờ cũng là triệu
chứng của những trở ngại, không phát huy được lợi thế so sánh tiềm năng. Vì vậy
đây là một ngành quan trọng không chỉ với tư cách là một nguồn xuất khẩu và tạo
việc làm chính, mà còn vì sự tăng trưởng của ngành này mang lại sức sống hơi thở
cho toàn ngành kinh tế nói chung.
Không thể phủ nhận những thành công to lớn mà ngành công nghiệp dệt- may
Việt Nam đã mang lại cho đất nước trong những năm vừa qua song còn nhiều khó
khăn và thách thức đang ở phía trước mà ngành sẽ phải đối mặt. Do đó, việc nghiên
cứu những tiến bộ mà ngành đạt được và những tồn tại còn trong ngành là việc làm
vừa mang tính khích lệ vừa mang tính giải pháp.
Là một sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp với kiến thức và kinh nghiệm song nhiều
hạn chế, đứng trước hoàn cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn, song cũng muốn
đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc thúc đẩy kinh tế nước nhà phát triển
nói chung và sự phát triển của công ty may Chiến Thắng nói riêng. Không nằm ngoài
vấn đề " giai phap thuc day hoat dong kinh doanh xuat nhap khau cua cong ty may
chien thang ". Chuyên đề tốt nghiệp này sẽ tập trung nghiên cứu 3 nội dung cơ bản
sau:
Chương 1: Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty May Chiến Thắng.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty May Chiến
Thắng trong những năm qua.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu của Công ty May Chiến Thắng.
Chương I
Lịch sử hình thành và phát triển của
Công ty May Chiến Thắng
1. Giới thiệu chung về công ty may Chiến Thắng
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty May Chiến Thắng
Ra đời trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (2/3/1968), xí
nghiệp May Chiến Thắng trước kia và nay là Công ty may Chiến Thắng thuộc Tổng
Công ty dệt- may Việt Nam (VINATEX) tính đến nay đã được 34 năm
Mặc dù trải qua 34 năm với bao nhiêu sóng gió thăng trầm, thành công nhiều và
sóng gió gặp phải cũng không ít nhưng Công ty may Chiến Thắng vẫn đứng vững,
phát triển và vươn lên trở thành một công ty trực thuộc Tổng Công ty may Việt Nam,
quản lý hàng dệt- may tiêu thụ sản phẩm thị trường trong nước và xuất khẩu cho các
nước trên thế giới.
Quá trình hình thành và phát triển của Công ty trải qua nhiều giai đoạn khác nhau
gắn với đặc trưng riêng biệt của từng thời kỳ, chịu ảnh hưởng trực tiếp của những
thay đổi trong chính sách ngoại thương của Việt Nam, tổ chức quản lý Nhà nước hoạt
động xuất nhập khẩu cũng như những thay đổi phức tạp về kinh tế- chính trị- xã hội
trong khu vực và trên thế giới.
Ngày 2 tháng 3 năm 1968, dựa trên cơ sở máy móc, thiết bị và nhân lực của trạm
may Lê Trực (thuộc Công ty gia công dệt kim vải sợi cấp I Hà Nội) và xưởng may
cấp I Hà Tây, Bộ Nội Thương quyết định thành lập Xí nghiệp May Chiến Thắng có
trụ sở tại số 8B phố Lê Trực, quận Ba Đình- Hà Nội và giao cho cục vải sợi may mặc
quản lý. Xí nghiệp có nhiệm vụ tổ chức sản xuất các loại quần áo, mũ vải, găng tay,
áo dạ, áo dệt kim theo chỉ tiêu kế hoạch của cục vải sợi cho cá lực lượng vũ trang và
trẻ em. Cơ sở I của Xí nghiệp rộng trên 3000m
2
với các dẫy nhà cấp 4 được dọn dẹp,
tu bổ đủ chỗ để lắp 250 máy may. Hầu hết nhà xưởng ở đây đều cũ và dột nát. Thiết
bị của Xí nghiệp lúc đó, một phần do cơ sở cũ để lại, một phần được bổ sung từ Xí
nghiệp May 10 sang, bao gồm các máy may đạp chân cùng một số máy thùa, đính do
Liên Xô chế tạo, còn các dụng cụ cắt vẫn ở dạng thủ công. Mặc dù trong điều kiện
khó khăn trăm bề nhưng những sản phẩm đầu tiên của Xí nghiệp may Chiến Thắng
để phục vụ bộ đội và trẻ em đã đưa ra xuất xưởng, góp phần nhỏ bé của mình vào sự
nghiệp kháng chiến của dân tộc.
Đầu năm 1969, may Chiến Thắng được bổ sung cơ sở II ở Đức Giang Gia Lâm.
Tháng 5 năm 1971 Xí nghiệp may Chiến Thắng chính thức được chuyển giao cho Bộ
Công nghiệp nhẹ quản lý với nhiệm vụ mới là chuyên sản xuất hàng xuất khẩu chủ
yếu là các loại quần áo bảo hộ lao động. Ngày 16 tháng 4 năm 1972 Mỹ ném bon vào
khu vực Đức Giang- Gia Lâm. Cơ sở II của Xí nghiệp phải sơ tán về xã Đông Trù
huyện Đông Anh nên sản xuất gặp rất nhiều khó khăn nhưng xí nghiệp vẫn hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Năm 1978 đánh dấu 10 năm xây dựng và phát triển của xí nghiệp May Chiến
Thắng. Xí nghiệp tiếp tục phát triển lớn mạnh về nhiều mặt. Sau 10 năm giá trị tổng
sản lượng tăng gấp 11 lần, tổng số công nhân viên chức tăng 3 lần. Cơ cấu sản phẩm
ngày càng được nâng cao.
Cho đến năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu
bước quyết định cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đi lên của dân tộc Việt Nam.
Đây là thời kỳ xoá bỏ bao cấp tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đòi hỏi Xí nghiệp
phải vượt qua nhiều khó khăn, khách quan và chủ quan vì cơ chế thị trường ở nước ta
mới được mở ra, các doanh nghiệp còn chưa có kinh nghiệm với kinh tế thị trường.
Từ giữa năm 1991, khi Liên Xô và hệ thống các nước XHCN tan rã, xí nghiệp
May Chiến Thắng đứng trước một khó khăn vô cùng to lớn, mất thị trường xuất khẩu
truyền thống, thiếu việc làm, công nhân thu nhập thấp, khả năng cạnh tranh trong cơ
chế thị trường thấp do máy móc thiết bị đã bị xuống cấp, trình độ quản lý hạn chế do
nhiều năm làm việc trong cơ chế kế hoạch hoá ổn định. Để tồn tại và phát triển trong
cơ chế thị trường, lãnh đạo xí nghiệp đã mạnh dạn vay vốn ngân hàng đầu tư mua
sắm thêm hơn 200 máy may chuyên dùng của Nhật Bản và Hồng Kông, 20 máy vắt
sổ và 5 máy trần diềm để có thể sản xuất được những sản phẩm có xl cao hơn, đáp
ứng được nhu cầu thị trường các nước tư bản chủ nghĩa. Từ năm 1992, công ty được
cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm của xí nghiệp đã được xuất khẩu đi các
thị trường mới như CHLB Đức, Hà Lan, Thuỵ Điển, Hàn Quốc… bên cạnh đó vẫn
giữ mối quan hệ bạn hàng tốt đẹp với Hunggary, CHLB Nga nhưng chuyển sang
phương thức thanh toán trực tiếp bằng USD chứ không còn thanh toán trừ nợ theo
Nghị định thư như trước.
Năm 1992 tại cơ sở số 10 Thành Công- Ba Đình- Hà Nội mới xây dựng xong đã
được đưa vào sử dụng kịp thời. Ngày 25 tháng 8 năm 1992 Bộ Công nghiệp nhẹ có
Quyết định số 730/CNn-TCLĐ chuyển xí nghiệp May Chiến Thắng thành công ty
May Chiến Thắng. Đây là sự kiện đánh dấu một bước trưởng thành về chất của Xí
nghiệp tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh được thể hiện đầy đủ qua chức năng
hoạt động mới của công ty. Từ đây cùng với việc sản xuất, nhiệm vụ kinh doanh đã
được đặt lên đúng với tầm quan trọng của nó trong cơ chế thị trường.
Ngày 25 tháng 3 năm 1994 Xí nghiệp Thảm len xuất khẩu Đống Đa thuộc Tổng
Công ty Dệt Việt Nam được sáp nhập vào Công ty May Chiến Thắng theo quyết định
số 290/QĐ-TCLĐ của Bộ Công nghiệp nhẹ. Từ năm 1991 đến năm 1995 Công ty đã
đầu tư 12,96 tỷ đồng cho xây dựng cơ bản và 13,998 tỷ đồng mua sắm trang thiết bị.
Sau gần 10 năm xây dựng và phát triển (1987 đến 1997), Công ty may Chiến Thắng
đã có tổng diện tích mặt bằng nhà xưởng rộng 24.836 m
2
trong đó 50% khu vực sản
xuất được trang bị hệ thống điều hoà không khí đảm bảo môi trường tốt cho người
lao động và hệ thống máy móc thiết bị hiện đại.
Trước những đòi hỏi của thị trường may mặc trong nước cũng như trên thế giới,
Công ty may Chiến Thắng được thành lập theo quyết định của Hội đồng quản trị
Tổng Công ty Dệt may Việt Nam phê duyệt kèm theo Điều lệ tổ chức và hoạt động
của Công ty. Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 4/12/1996, Công ty may Chiến
Thắng là một doanh nghiệp Nhà nước, thành viên hạch toán độc lập của Tổng Công
ty dệt- may Việt Nam, hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, các quy định của
Pháp luật và Điều lệ tổ chức hoạt động của Tổng công ty.
Với tên giao dịch Việt Nam là: Công ty may Chiến Thắng.
Tên giao dịch quốc tế là CHIEN THANG GARMENT COMPANY viết tắt là
CHIGAMEX
Trụ sở chính: số 10 phố Thành Công- Ba Đình- Hà Nội
Song song với việc sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm được làm từ nguyên
liệu trong nước theo phương thức mua đứt bán đoạn (bán FOB), công ty còn thực
hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu với nhiều khách hàng ở nhiều nước khác nhau
(CHLB Đức, Hà Lan, Thuỵ Điển, Hàn Quốc…). Thông qua việc thực hiện các hợp
đồng gia công xuất khẩu đã góp phần tăng thêm nhiều việc làm cho người lao động,
góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Công ty trong những năm vừa qua.
Xu hướng thị trường thế giới ngày càng chú trọng đến chất lượng sản phẩm, yêu
cầu về mẫu mã, chất lượng sản phẩm đòi hỏi ngày càng cao, với mặt hàng may mặc
ngày nay khách hàng không còn muốn mua những sản phẩm cắt may đơn giản như
trước, họ yêu cầu sản phẩm phải được trang trí, phối màu, in, thêu,… làm cho sản
phẩm đẹp hơn, dễ tiêu thụ hơn. Với mặt hàng áo Jắc két, khách hàng ngày nay đòi
hỏi sản phẩm phải được sản xuất bằng chất liệu vải cao cấp hơn, mặt vải ổn định hơn
sau khi giặt, trên sản phẩm cũng phải được trang trí bằng những hoạ tiết thêu hoặc in
hoặc phối mầu. Nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khách hàng nước ngoài đòi hỏi
ngày càng cao, trong những năm gần đây công ty đã tích cực, chủ động khai thác mọi
nguồn vốn đầu tư mới, bổ sung thêm một số máy móc thiết bị nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm xuất khẩu.
1.2. Hệ thống tổ chức bộ máy của Công ty may Chiến Thắng
1.2.1. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty
Công ty may Chiến Thắng là một doanh nghiệp Nhà nước, được thành lập với
chức năng sản xuất và kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng dệt- may vì mục tiêu lợi
nhuận, vì hiệu quả kinh tế xã hội, thực hiện phân công lao động quốc tế, góp phần
hoàn thiện những kế hoạch, góp phần thực hiện các chiến lược kinh tế của Công ty
nói riêng và của thủ đô nói chung.
Công ty tự sản xuất và tiêu thụ sản phẩm may và các hàng hoá khác liên quan đến
ngành dệt- may. Công ty chuyên sản xuất 3 mặt hàng chính là: sản phẩm may, găng
tay da và thảm len
Sản phẩm may Công ty thường sản xuất bao gồm:
- áo Jắc két các loại như áo jắc két 1 lớp, 2 lớp, 3 lớp
- áo váy các loại
- Quần các loại
- áo sơ mi các loại
- Khăn tay trẻ em
- Các sản phẩm may khác
Các sản phẩm găng tay của Công ty bao gồm:
- Găng gôn
- Găng đông nam, nữ
Thảm len gồm có:
-Sản xuất công nghiệp
- sản xuất gia công
Công ty may Chiến Thắng sản xuất phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong
nước theo ba phương thức
- Nhận gia công toàn bộ: theo hình thức này Công ty nhận nguyên vật liệu của
khách hàng theo hợp đồng để gia công thành phẩm hoàn chỉnh và giao trả cho khách
hàng
- Sản xuất hàng xuất khẩu dưới hình thức FOB: ở hình thức này phải căn cứ vào
hợp đồng tiêu thụ sản phẩm đã đăng ký với khách hàng, Công ty tự tổ chức sản xuất
và xuất sản phẩm cho khách hàng theo hợp đồng (mua nguyên liệu bán thành phẩm).
- Sản xuất hàng nội địa: Công ty thực hiện toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm phục vụ cho nhu cầu trong nước.
Phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty không bị giới hạn trong bất
kỳ thị trường nào. Công ty May Chiến Thắng được thành lập theo đúng pháp luật, có
nhiệm vụ kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đăng ký, chấp hành hoàn thành đầy
đủ nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước, bảo toàn và phát triển vốn, tuân thủ các nguyên
tắc của chế độ kế toán thống kê, quản lý tài chính của Nhà nước, chấp hành kỷ luật
lao động, vệ sinh môi trườngvà không ngừng nâng cao phúc lợi của cán bộ công nhân
viên.
Phương hướng trong những năm tới của Công ty phấn đấu trở thành trung tâm
sản xuất, kinh doanh thương mại tổng hợp với những chiến lược sau:
+ Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm đồng thời tăng tỷ trọng trong mặt hàng FOB
và mặt hàng nội địa.
+ Duy trì và phát triển những thị trường đã có, từng bước khai thác mở rộng thị
trường mới ở cả trong và ngoài nước.
Với chức năng và nhiệm vụ chung của Công ty, để có thể hoạt động mang lại
hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và sử dụng hết những nguồn lực của mình, hệ
thống tổ chức bộ máy của Công ty được tổ chức hợp lý và được phân công chức năng
nhiệm vụ cụ thể như sau:
1.2.2. Hệ thống tổ chức bộ máy của Công ty
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty là cơ cấu trực tuyến chức năng bao gồm
Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc và các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ
quản lý, các cửa hàng, xưởng sản xuất và chế biến.
Lực lượng lao động của Công ty bao gồm: Cáccán bộ nhân viên trong biên chế
Nhà nước là cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ còn lại là lực lượng lao động làm việc
theo chế độ hợp đồng.
Công ty có trụ sở chính thức tại: số 10 Phố Thành công- Ba Đình- Hà Nội
Sơ đồ tổ chức công ty may Chiến Thắng (trang sau)
Sơ đồ tổ chức Công ty may Chiến Thắng
Phòng xuất nhập
kh
ẩu
Phòng bảo vệ
Phòng kỹ thuật-
CN
-
KCS
Lớp học may
PX thảm
kkhăm
Phân xưởng
thêu
PX cắt da
5 PX m
ay
Phó
Tổng
giám
đốc
SX-
KT
Phòng kinh doanh
ti
ếp thị
Phòng phục vụ sản
xu
ất
Phòng y tế
Tr. tâm may đo
th
ời trang
CH Đội cấn
CH Nguyễn
Thái H
ọc
CH Bà Tri
ệu
CH Kim Mã
CH thành
ph
ẩm
Kho ĐT
Phó
tổng
giám
đốc
kinh
tế
Tổn
g
giá
m
đốc
Phòng hành chính
TH
Phòng kế toán tài
v
ụ
Phòng tổ chức lao
đ
ộng
Đ
ội xe
Kho nguyên
VL
Kho cơ khí
Kho th
ảm
Chức năng nhiệm vụ của ban giám đốc và các phòng ban
Nhìn vào sơ đồ trên chúng ta thấy rõ chức năng và giới hạn quản lý của từng
phòng. Sự xắp xếp này rất khoa học đảm bảo cho việc cung cấp thông tin nhanh,
chính xác và xử lý kịp thời các thông tin đó. Các phòng có chức năng riêng của mình
và trực thuộc sự quản lý của Tổng giám đốc và phó tổng giám đốc.
a) Ban giám đốc
Bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh bao gồm Tổng giám đốc và phó Tổng giám
đốc. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm về
toàn bộ kết quả quản lý sản xuất kinh doanh và nghĩa vụ đối với Nhà nước. Giám đốc
điều hành hoạt động của doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng.
Nhận vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác do Tổng công ty giao để
quản lý và sử dụng theo mục tiêu, nhiệm vụ được giao, sử dụng có hiệu quả, bảo toàn
và phát triển vốn.
- Dựa trên cơ sở chiến lược phát triển của Công ty, xây dựng các kế hoạch dài
hạn hàng năm, dự án đầu tư chiều sâu, dự án hợp tác và đầu tư nước ngoài, dự án liên
doanh, các hợp đồng kinh tế có giá trị lớn
- Xây dựng các định mức kinh tế- kỹ thuật, tiêu chuẩn đơn giá tiền lương, nhãn
hiệu hàng hoá phù hợp với quy định của Tổng công ty.
- Ban hành quy chế tiền lương, tiền thưởng, nội dung khen thưởng kỷ luật phù
hợp với luật lao động
- Khen thưởng, kỷ luật cán bộ công nhân viên Công ty
- Báo cáo với Tổng công ty và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về kết quả
lao động sản xuất kinh doanh, báo cáo tài chính tổng hợp của Công ty
- Chăm lo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, điều kiện làm việc của người lao
động theo quy định của bộ luật lao động và luật công đoàn
- Khi vắng mặt Tổng giám đốc uỷ quyền cho phó Tổng giám đốc điều hành công
việc được uỷ quyền nhưng Tổng giám đốc vẫn chịu trách nhiệm chung. Tổng giám
đốc có quyền quyết định cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của doanh nghiệp theo
nguyên tắc tinh, gọn nhẹ, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ, đảm bảo mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Phó Tổng giám đốc sản xuất kỹ thuật; giúp Tổng giám đốc phụ trách các công
tác như:
Công tác kỹ thuật (phòng kỹ thuật- công nghệ)
Công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ công nhân
Điều hành kế hoạch tác chiến của Công ty
Phó Tổng giám đốc kinh tế
Có nhiệm vụ phụ trách- ký các hợp đồng nội địa
Công tác kinh doanh tiêu thụ sản phẩm (phòng kinh doanh tiếp thị)
Công tác phục vụ sản xuất (phòng phục vụ sản xuất)
Các cửa hàng may đo của Công ty
b) Các phòng ban
Phòng xuất- nhập khẩu:
Tham mưu cho Tổng giám đốc các lĩnh vực
- Trực tiếp tổ chức theo dõi điều tiết kế hoạch sản xuất, tiến độ sản xuất và giao
hàng
- Thực hiện các nghiệp vụ xuất nhập khẩu như thủ tục xuất khẩu, thủ tục thanh
toán
- Tham mưu cho Tổng giám đốc ký kết các hợp đồng với nước ngoài
- Tổng hợp thống kê các báo cáo kế hoạch, thực hiện kế hoạch các mặt của toàn
Công ty
- Cân đối nguyên phụ liệu cho sản xuất, quyết toán tiền hàng vật tư với các khách
hàng, hải quan, cơ quan thuế…
Phòng tổ chức lao động
Tổ chức quản lý sắp xếp nhân lực phù hợp và chặt chẽ trên dây chuyền sản xuất,
dựa vào cơ sở định mức hợp lý và điều kiện của công nhân. Xây dựng các quy chế về
trả lương, trả thưởng, quy chế kỷ luật lao động. Tuyển chọn lao động, sử dụng lao
động hoặc giải quyết thôi việc công nhân viên trong công ty do yêu cầu sản xuất kinh
doanh…
Phòng kế toán- tài vụ
Phòng có nhiệm vụ hạch toán các khoản chi phí nguyên vật liệu, chi phí về động
lực, nhân công, tính giá thành sản phẩm…
- Theo dõi tình hình biến động vốn, tài sản của Công ty, theo dõi các khoản thu
chi tài chính để phản ánh vào các tài khoản liên quan, hạch toán kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh. Sau một thời gian lãnh đạo công ty đề ra các biện pháp nhằm
đạt hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện giúp cho phòng kinh doanh tiếp thị thực hiện
tốt nhiệm vụ
- Trực tiếp quản lý vốn, nguồn vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh tham mưu
cho Tổng công ty trong lĩnh vực tài chính thu chi, đảm bảo cho các nguồn thu chi.
Phòng kinh doanh tiếp thị
Phòng có nhiệm vụ tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, trực tiếp xử lý những
phát sinh trong quá trình tiêu thụ nhằm mục đích tiêu thụ được nhiều sản phẩm. Quản
lý các kho thành phẩm, theo dõi quản lý các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm
- Soạn thảo đề ra các chương trình, kế hoạch, chiến lược, tìm các hình thức
khuyến mại, quảng cáo sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho các bạn hàng và các đại
lý trong khâu nhận hàng và thanh toán
- Tìm hiểu thị trường, nắm bắt thị hiếu, điều tiết thị trường để tiêu thụ sản phẩm
theo kế hoạch nhằm thúc đẩy sản xuất, quay vòng vốn.
Phòng phục vụ sản xuất
- Theo dõi, quản lý, bảo quản hàng hoá vật tư, thực hiện cấp phát vật tư nguyên
liệu phục vụ sản xuất theo định mức của phòng xuất nhập khẩu
- Tham mưu cho Phó Tổng giám đốc kinh tế về việc theo dõi ký kết hợp đồng gia
công, vận tải, thuê kho bãi, mua bán máy móc…
- Quản lý đội xe, điều tiết công tác vận chuyển
Phòng kỹ thuật- công nghệ- KCS
- Phòng có nhiệm vụ theo dõi toàn bộ trang thiết bị kỹ thuật, thiết bị chuyên
dùng, chuyên ngành… cả về số lượng trong quá trình sản xuất. Điều phối toàn bộ
mạng lưới điện trong công ty, tiếp nhận máy móc mới đưa vào vận hành và đảm bảo
an toàn lao động, vệ sinh lao động khi làm việc.
- Phòng KCS có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát về chất lượng nguyên liệu, vật tư,
vật liệu khi khách hàng đưa về Công ty.
- Kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm trên từng công đoạn, trên dây chuyền
sản xuất, phát hiện sai sót báo cáo để giám đốc chỉ thị khắc phục
- Kiểm tra, giám sát về chất lượng sản phẩm khi xuất kho, kiểm tra, kết luận
nguyên nhân hàng bị trả lại (nếu có). Góp ý cho quản đốc trong việc đổi mới sản
phẩm, đổi mới mẫu mã sản phẩm
Phòng hành chính tổng hợp
- Tiếp nhận và quản lý công văn, thực hiện nghiệp vụ văn thư, lưu trữ tài liệu, bảo
mật đối nội, đối ngoại…
- Tổ chức công tác phục vụ
Phòng bảo vệ
- Phòng có nhiệm vụ xây dựng và quản lý tài sản của Công ty, phòng cháy chữa
cháy, an ninh quốc phòng, chính trị, kinh tế… trong Công ty.
- Xây dựng các nội quy, quy chế về trật tự an toàn trong công ty
Phòng y tế
- Khám, chữa bệnh và bảo vệ sức khoẻ cho người lao động
Trung tâm may đo thời trang
Bán và giới thiệu các sản phẩm của Công ty
Ngoài ra còn có các hệ thống phục vụ khác như: kho nguyên vật liệu, kho thảm,
kho bán thành phẩm và kho thành phẩm của Công ty. Các kho này được giao cho các
phòng chức năng quản lý.
Suốt 33 năm hoạt động có 15 năm trong cơ chế đổi mới chung của đất nước
(1986- 2002) Công ty may Chiến Thắng đã không ngừng đổi mới sắp xếp lại bộ máy,
hoạt động của các phòng ban tương đối đều và đạt được một số hiệu quả trong các
nhiệm vụ kế hoạch của Tổng công ty
2. Một số đặc điểm kinh tế, kỹ thuật chủ yếu của Công ty may Chiến Thắng.
a) Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật
Kho tàng, nhà xưởng
Công ty may Chiến Thắng có diện tích nhà xwongr sản xuất là 9.260 m
2
. Diện
tích nhà kho là 3.810 m
2
Đặc điểm chính của kiến trúc nhà xưởng là nhà xây 5 tầng có thang máy để vận
chuyển nguyên vật liệu cho các phân xưởng. Xung quanh nhà xưởng được lắp kính
tạo ra một không gian rộng rãi thoải mái cho công nhân. Có 50% khu vực sản xuất
được trang bị hệ thống điều hoà không khí. Đường xá, sân bãi trong công ty được đổ
bê tông
Nơi đặt phân xưởng sản xuất
- Số 10- Thành Công- Ba Đình- Hà Nội
- 178 Nguyễn Lương Bằng
- 8B- Lê Trực- Ba Đình- Hà Nội
Công ty May Chiến Thắng đã tạo điều kiện làm việc tốt cho công nhân qua việc
đầu tư vào nhà xưởng, nâng cấo chất lượng môi trường làm việc, vệ sinh cho các sản
phẩm làm ra. Chính những điều kiện sản xuất cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng
sản phẩm làm ra, do đó để khách hàng nước ngoài chấp nhận sản xuất thì tất yếu
Công ty phải ngày càng hoàn thiện điều kiện làm việc trong xưởng. Điều kiện làm
việc tốt cũng góp phần nâng cao năng suất làm việc của công nhân
Nhà kho của Công ty được đặt ở tầng I, tạo điều kiện dễ dàng cho việc vận
chuyển thành phẩm từ tầng xuống. Điều kiện bảo quản của các kho rất tốt giúp cho
sản phẩm không bị hỏng do bị ẩm hay mất vệ sinh. Với hệ thống nhà kho rộng 3.810
m
2
đã tạo điều kiện cho dự trữ thành phẩm với số lượng lớn để cung cấp kịp thời cho
các thị trường khi có nhu cầu, sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng thị trường của Công
ty. Tuy nhiên do Công ty nằm trong nội thành nên diện tích mặt bằng hạn hẹp, Công
ty không thể xây dựng thêm kho tàng, nhà xưởng. Đồng thời việc vận chuyển hàng
hoá cũng gặp nhiều khó khăn do hàng đóng vào container nên phải vận chuyển vào
ban đêm.
Máy móc thiết bị
Do đặc điểm nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty là may hàng xuất khẩu
nên Công ty phải đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra. Chính vì vậy mà Công ty
không ngừng đổi mới trang thiết bị, công nghệ. Phần lớn máy móc thiết bị của Công
ty do Nhật chế tạo và năm sản xuất từ năm 1991 đến năm 1997. Như vậy, máy móc
thiết bị và công nghệ sản xuất là thuộc loại mới, tiên tiến và hiện đại, đảm bảo chất
lượng của sản phẩm sản xuất ra
Công ty có 36 loại máy chuyên dùng khác nhau. Chính điều này tạo điều kiện cho
Công ty hoàn thiện các công đoạn của quá trình sản xuất sản phẩm, làm cho sản
phẩm hoàn thiện hơn, chất lượng tốt hơn, đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của
khách hàng nước ngoài, từ đó tạo lòng tin đối với khách hàng, nâng cao chữ tín cho
Công ty, góp phần vào việc mở rộng thị trường
Với số lượng máy móc thiết bị hiện có, hàng năm Công ty có thể sản xuất
5.000.000 sản phẩm, sản phẩm may mặc (quy đổi theo sơ mi), 200.000 sản phẩm
may da
Sau đây là các loại máy móc thiết bị chuyên dùng để sản xuất của Công ty tính
đến ngày 30 tháng 9 năm 2002.
Bảng: Các loại máy móc thiết bị sản xuất của Công ty đến hết quý III/2002
STT Tên máy
Nhà sản
xuất
Xuất xứ
Năm chế
tạo
Số lượng
1
Máy may bằng 1
kim
Juki Japan 1991-1997 1173
2
Máy may bằng 2
kim
Brother Japan 1991-1997 211
3 Máy trần diềm Tuki Japan 1991-1997 46
4 Máy vắt sổ Tuki Japan 1991-1997 100
5 Máy thùa bằng Tuki Japan 1991-1997 24
6 Máy thùa tròn Tuki Japan 1991-1997 21
7 Máy đính cúc Tuki Japan 1991-1997 27
8 Máy chặn bộ Tuki Japan 1991-1997 23
9 Máy vắt gấu Tuki Japan 1991-1997 21
10 Máy ép mex Hashima HongKong 1991-1997 5
11 Máy lộn cổ Fiblon HongKong 1993 2
12 Máy dò kim Hashima Japan 1995 4
13 Máy thêu Jajima Japan 1995 4
14
Máy thiết kế mẫu
thêu
Jajima VSA 1995 1
15
Máy làm mềm
nước
Japan 1992 2
16 Máy cắt KM Japan 1991-1997 26
17 Nồi hơi Naomoto Japan 1991-1997 23
18
Bàn hút chân
không
Naomoto Japan 1991-1997 75
19 Máy díc dắc Juki Japan 1993 1
20 Máy cuốn ống Brother Japan 1995 3
21 Máy chun Huki USA 1995 3
22 Máy hút ẩm USA 1992 8
23 Máy cắt thuỷ lực Japan 1995 22
24 Máy là găng đông Juki Japan 1995 7
25 Máy là da Juki Japan 1995 2
26 Máy cắt lót Juki Japan 1997 2
27 Máy dán nilon Juki Japan 1992 1
28 Máy dán cao tần Jajima Japan 1994 1
29 Máy ép chữ Tuki Japan 1992 1
30 Máy dán măng Tuki Japan 1994 2
31 Máy may mác Tuki Japan 1991 1
32 Máy ép mác Tuki Japan 1991 1
33 Cân điện tử Japan 1994 3
34 Máy giác Naomoto Japan 1995 2
35 Máy san chỉ Hashima Japan 1991-1997 8
36
Máy khoan dầu
tay
Japan 1997 1
* Đặc điểm về lao động
Lao động là một yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh
doanh bởi vì con người là chủ thể của quá trình sản xuất. Cho dù được trang bị máy
móc thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến nhưng thiếu lao động có trình độ tổ
chức thì cũng không thực hiện sản xuất được. Nhất là đối với ngành may đòi hỏi phải
có nhiều lao động vì mỗi máy may phải có 1 người điều khiển. Tính đến ngày
30/9/2002 Công ty có 2.476 người lao động. Trong tổng số đó có 2375 người là lao
động ngành công nghiệp chiếm 96,27%, lao động nữ là 2048 người chiếm 84,5%, lao
động làm công tác quản lý là 142 người chiếm 5,7% lao động có trình độ cao đẳng
trở lên là 80 người chiếm 3,2%.
Số lao động bình quân của Công ty trong năm 2002 là 2.276 người trong đó
ngành may thêu có 1662 người chiếm 73,02%, ngành da có 527 người chiếm 23,15%
và ngành thảm có 87 người chiếm 3,83%
Thu nhập bình quân chung của Công ty trong năm 2002 là 913.000
đồng/người/tháng, tăng hơn so với mức thu nhập bình quân của Công ty trong năm
2000 (864.000 đồng/người/tháng) tăng 49.000 đồng và tương đương với tỷ lệ tăng là
105,7%. Mức thu nhập bình quân của người lao động trong Công ty được tăng lên từ
728.000 đồng/người/tháng năm 1998 đến 782.000 đồng/người/tháng vào năm 2002.
Qua đây ta có thể thấy đời sống của người lao động trong công ty ngày càng được ổn
định và nâng cao.
Biểu: Thu nhập bình quân của lao động trong Công ty từ năm 1999- 2002
Ngoài ra công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao tay nghề cho người lao
động luôn được Công ty quan tâm với nhận thức nguồn lực là yếu tố quyết định thúc
đẩy sự phát triển, do đó trong một thời gian dài từ năm 1992 đến nay, Công ty luôn
tạo điều kiện cho việc học tập, nâng cao trình độ cho người lao động, thu hút lực
lượng lao động giỏi từ bên ngoài vào. Bên cạnh đó Công ty còn có chế độ ưu đãi đối
với những lao động giỏi tay nghề. Hàng năm, thông qua các hội chợ, nước ngoài
nhằm nắm bắt được những công nghệ mới và xu hướng phát triển của thị trường
nước ngoài
728
782
864
913
0
200
400
600
800
1000
Ngµn ®
1998 1999 2000 2001
N¨m
Thu nhËp
Đội ngũ lao động gián tiếp của Công ty chiếm tỷ lệ nhỏ 5,7% nhưng lại giữ vai
trò hết sức quan trọng. Họ có trình độ chuyên môn về các lĩnh vực tài chính, thương
mại, xuất nhập khẩu, kỹ thuật công nghệ… Do đó họ sẽ giữ vai trò quan trọng trong
việc quản lý sản xuất, thực hiện hoạt động thu mua, nhập khẩu nguyên liệu và tiêu
thụ hàng hoá giúp cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục. Chính vì vậy, để
phát triển thị trường đòi hỏi lực lượng lao động gián tiếp phải không ngừng tìm tòi
thị trường, sử dụng các biện pháp marketing, tìm kiếm và ký kết các hợp đồng kinh tế
với khách hàng.
Đội ngũ lao động trực tiếp quyết định tới số lượng và chất lượng sản phẩm làm
ra. Để mở rộng thị trường, Công ty phải nâng cao uy tín của mình thông qua chất
lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng. Chính vì vậy, công ty phải đào tạo nâng cao
tay nghề cho công nhân nhằm giảm đến mức tối thiểu sản phẩm hỏng và đảm bảo
chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động
Đặc điểm vốn của công ty
Tổng nguồn vốn của Công ty đầu năm 1998 là 35.231.852.000 đồng, đầu năm
1999 là 43.241.813.000 đồng; đầu năm 2000 là 45.720.284.000 đồng, và đến ngày
30/9/2002 là 63.458.540.000 đồng. Điều đó chứng tỏ quy mô sản xuất và cơ sở vật
chất kỹ thuật của Công ty ngày càng được mở rộng
Đầu năm 1998 tài sản cố định là 22.580.775.000 đồng, đầu năm 1999 tài sản cố
định tăng lên là 31.266.600.000 đồng, đầu năm 2000 tài sản cố định giảm xuống còn
27.823.695.000 đồng và đến đầu năm 2002 tổng tài sản cố định của Công ty tăng lên
37.541.400 đồng
Vốn lưu động của Công ty năm 1998 là 12.651.076.000 đồng, năm 1999 giảm
xuống còn 11.975.180.000 đồng năm 2000 tăng lên 15.139.746.000 đồng năm 2002
tăng lên là 17.891.090.000 đồng
Sở dĩ vốn lưu động tăng lên là do vốn bằng tiền của Công ty khá lớn (tăngh từ
0,85% tổng tài sản năm 1999 lên 5,97% tổng tài sản năm 2002. Trong năm 2002
Công ty đã giảm được các khoản nợ xuống 69,7% trong tổng nguồn vốn năm 2002.
Nguồn vốn của Công ty cũng là nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng thị
trường xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Muốn nâng cao chất lượng sản
phẩm, nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh thì công ty phải có
nguồn vốn lớn để đầu tư vào máy móc thiết bị, công nghệ và nguồn lao động. Đồng
thời công ty phải có nguồn vốn lớn để mua nguyên liệu, dự trữ thành phẩm để cung
cấp kịp thời cho thị trường
Tổ chức sản xuất
Việc tổ chức sản xuất trong Công ty hiện nay được tổ chức theo hình thức đối
tượng thay vì tổ chức theo hình thức công nghệ như trước kia. Mỗi phân xưởng bây
giờ sẽ phải đảm bảo các khâu bao gồm:
Việc áp dụng hình thức này làm cho chất lượng sản phẩm được nâng cao hơn. Tổ
chức sản xuất hợp lý sẽ đạt được năng suất cao, chất lượng và tiến độ đảm bảo nhờ
vậy khách hàng cũ sẽ đặt hàng nhiều hơn và còn thu hút được nhiều khách hàng mới
Đối với công ty may Chiến Thắng, việc tổ chức sản xuất không ngừng được cải
tiến, nhờ vậy mà chất lượng sản phẩm của Công ty luôn được bảo đảm và đúng thời
gian. Đây chính là yếu tố góp phần mở rộng thị trường của Công ty.
Thiế
t kế
mẫu
Cắt
May
Là
Đóng
gói
Chương II
thực trạng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty may Chiến thắng
trong những năm qua
1. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty may Chiến Thắng
1.1. Về xuất nhập khẩu
Tính đến nay hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đã trải qua gần
15 năm. Trong giai đoạn đầu Công ty rất bỡ ngỡ trước quy luật kinh doanh của nền
kinh tế thị trường, lượng vốn ban đầu còn khiêm tốn… nên hoạt động xuất nhập khẩu
của Công ty còn chưa có gì đáng kể.
Từ năm 1992 trở lại đây, mặc dù có nhiều biến động về chính trị ở Liên Xô (cũ)
và Đông Âu là những thị trường truyền thống của Công ty, nhưng với sự cố gắng
nhất định, để duy trì và phát triển kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty vẫn tăng
một cách đều đặn. Năm 1997, do có nhiều biến động về tài chính ở thị trường trong
nước và châu á làm cho kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty chỉ tăng 0,2 triệu
USD nhưng đến năm 1999 đã tăng lên 1,9 triệu USD so với năm 1996. Tính đến
tháng 9 năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty là 7,5 triệu USD.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty may Chiến Thắng được thể hiện qua biểu
1 dưới đây
Biểu 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty may Chiến Thắng giai đoạn 1996
đến tháng 9 năm 2002
Đơn vị: Triệu USD
Năm
Chỉ tiêu
Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng
1997 4,8 1,6 6,4
1998 5 1,7 6,7
1999 5,8 1,9 7,7
2000 6,7 2,2 8,9
2001 7,9 2,7 10,6
Tháng 9 năm 2002 7,5 2,4 9,9
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty tương đối ổn định cả về số tương đối và
số tuyệt đối trong suốt thời gian từ năm 1997 đến nay. Mặc dù có những thay đổi
nhưng cơ cấu xuất nhập khẩu của Công ty có xu hướng tăng từ 68% năm 1997 lên
85% đến tháng 9 năm 2002
Do tỷ trọng xuất khẩu của Công ty tăng, nên cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của
Công ty cũng tăng theo. Hầu hết các nguyên liệu mà Công ty sử dụng để sản xuất là
nhập khẩu từ nước ngoài. Các loại nguyên liệu của Công ty phần lớn là do khách
hàng đặt gia công. Nếu như trước kia, do kỹ thuật sản xuất ở trong nước còn kém,
nền kinh tế chưa đủ mạnh, trong nước không có phụ liệu để phục vụ cho sản xuất cho
nên phải nhập khẩu nguyên phụ liệu ở nước ngoài, về sản xuất thì đến nay đã có rất
nhiều cơ sở để sản xuất các nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh của
Công ty. Chẳng hạn như trước kia, chúng ta không sản xuất được chỉ, nhãn mác phục
vụ cho sản xuất thì nay đã có nhà máy chỉ, cơ sở sản xuất nhãn mác ở trong nước.
Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong hoạt động sản xuất kinh doanh
xuất nhập khẩu, giảm được kim ngạch nhập khẩu xuống. Năm 1997 kim ngạch nhập
khẩu của Công ty là 32% thì đến tháng 9 năm 2002 cơ cấu mặt hàng giảm xuống còn
15%.