TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÀI TẬP LỚN
BỘ MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊ-NIN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TRONG Q TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN GIAI CẤP CƠNG NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
HỌ TÊN SINH VIÊN: TRẦN THỊ ƯỚC – 11208365
LỚP: VB2_03, HÀ NỘI, 09/2022.
MỤC LỤC
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về GCCN
1. Lý luận về khái niệm GCCN
1.1. Khái niệm GCCN
- Về phương diện kinh tế - xã hội
- Về phương diện chính trị - xã hội
1.2. Đặc điểm của GCCN
2. Lý luận về sứ mệnh lịch sử của GCCN
2.1. Bối cảnh lịch sử
2.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN
- Nội dung kinh tế
- Nội dung chính trị - xã hội
- Nội dung văn hóa, tư tưởng
2.3. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của GCCN
2.4. Những điều kiện chủ quan để GCCN thực hiện sứ mệnh lịch sử
II. Sự vận dụng của Đảng trong quá trình xây dựng và phát triển GCCN ở Việt Nam
hiện nay.
1. Khái quát GCCN Việt Nam
1.1. Nguồn gốc ra đời của GCCN Việt Nam
1.2. Đặc điểm của GCCN Việt Nam
2. Sự vận dụng của Đảng trong quá trình xây dựng và phát triển GCCN ở Việt
Nam hiện nay.
3. Thành tự Đảng đã đạt được trong quá trình xây dựng và phát triển GCCN Việt
Nam
4. Hạn chế còn tồn tại trong quá trình xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam hiện
naynay
5. Một số giải pháp xây dựng và phát triển GCCN ở Việt Nam hiện nay.
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
Giai cấp công nhân: GCCN
Giai cấp công nhân Việt Nam: GCCNVN
Sứ mệnh lịch sử: SMLS
Chủ nghĩa tư bản: CNTB
Chủ nghĩa Mác – Lê-nin: CNM-L
Đảng Cộng sản Việt Nam: ĐCSVN
A. MỞ ĐẦU
Trong thời đại xã hội nào, những người lao động sản xuất trong các ngành sản xuất
công nghiệp, dịch vụ công nghiệp hay những người cơng nhân đều có vai trị sáng tạo chân
chính ra lịch sử và là những người giữa vai trị quyết định sang tạo cơng cụ sản xuất, giá trị
thặng dư và chính trị xã hội. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành
nên Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, đã nghiên cứu một cách tồn diện về các quy luật chính trị xã
hội của quá trình phát sinh, hình thành và phát triển của các hình thai kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa. Trong đó, chủ nghĩa xã hội khoa học tập trung nghiên cứu những nghiên tắc
cơ bản, những điều kiện, con đường, hình thức phương pháp đấu tranh của giai cáp công
nhân để chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Sự thành công của lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lê-nin là đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, từ
đó làm tiền đề cho phát triển của xã hội.
Từ vai trị to lớn của giai cấp cơng nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Sự tác động của sứ mệnh lịch
sử của giai cáp công nhân không chỉ ảnh hưởng tới sự chuyển biến của lịch sử thế giới, làm
thay đổi từ hình thai kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác, thay đổi từ chế
độ kinh tế này sang chế độ kinh tế khác, … mà cịn làm thay đổi tinh hình kinh tế chính trị
xã hội trên tồn thế giới, nó tác động tới q trình sản xuất cụ thể tới bộ mặt triển của thế
giới.
Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân đã được Đảng ta vận dụng
trong việc xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Đảng rất quan tâm
và chú trọng vấn đề này, vì thế, vai trị, nhiệm vụ của giai cấp công nhân được thể hiện và
nhấn mạnh rõ trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa, nội
dung căn bản thể hiện cụ thể của sứ mệnh giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn mới
là: “Lợi ích giai cấp cơng nhân thống nhất với lợi ích của tồn dân tộc trong mục tiêu
chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện
hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa…”.
Trong quá trình Đảng ta vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin xây dựng và phát triển giai
cấp công nhân Việt Nam sẽ có những hạn chế và thiếu sót. Đây cũng là điều đơn giản và dễ
hiểu bởi lẽ, xã hội ngày càng phát triển và việc áp dụng những lý luận vào tình hình thực
tiễn cũng cần một sự đổi mới và sự sáng tạo sao cho phù hợp với tinh hình đất nước và phù
hợp với tình hình kinh tế, xã hội chung của thế giới để đẩy mạnh q trình hội nhập, cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
B. NỘI DUNG
I. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về GCCN
1. Lý luận về khái niệm GCCN.
1.1. Khái niệm GCCN
C.Mác và Ăng-ghen đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ GCCN như: giai
cấp vô sản; giai cấp vô sản hiện đại; giai cấp công nhân hiện đại; giai cấp cơng nhân đại
cơng nghiệp,… đó là những cụm từ đồng nghĩa để chỉ GCCN – con đẻ của nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương
thức sản xuất hiện đại.
Ta xét khái niệm GCCN theo 2 phương diện:
* Về phương diện kinh tế - xã hội:
Ra đời vào cuối TK XVIII, GCCN chính là con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản, họ
là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hàng của các cơng cụ sản xuất có tính
chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại và công nghiệp cao. Họ lao động bằng phương thức
sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại với những điểm nổi bật: sản xuất bằng máy móc,
lao động có tính chất xã hội hóa, năng suất lao động và tạo ra những tiền đề của cải vật chất
cho xã hội mới.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” các ông nhấn mạnh: “… các giai cấp khác
đều suy tản và tiêu vong cùng với cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp cịn giai cấp
vơ sản thì lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” và “công nhân cũng là một
phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy” … “cơng nhân Anh là đứa con đầu
lịng của nền đại cơng nghiệp hiện đại”.
* Tiếp theo, về phương diện chính trị - xã hội:
Giai cấp cơng nhân cịn là sản phẩm xã hội của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa,
một xã hội có ‘điều kiện tồn tại dựa trên chế độ làm thuê”. Trong quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, :giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất các tư
liệu san ruất của bản thân, nên buộc phải bán sức lao động của mình để sống.
C.Mác và Ăng-ghen chỉ rõ, đó là giai cấp của những người lao động khơng có sỡ hữu
tư liệu sản xuất chủ yếu của xá hội. “Đó” ở đây là GCCN. Họ phải bán sức lao động cho
nhà tư bản và bị những chủ tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Đối diện với nhà tư bản, công
nhân là những người lao động tự do, với nghĩa là tự do bán sức lao động của minh để kiếm
sống. Chính điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai
cấp tư sản.
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất xã hội hóa ngày càng rộng lớn với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa
trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Về mặt xã hội, đó là mâu thuẫn về
lợi ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
Nói tóm lại, theo CNM-L: giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội, hình thành và
phát triển cùng với q trình phát triển của nền cơng nghiệp hiện đại. Họ lao động bằng
phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại và gắn liền với quá trình sản xuất vật chất
hiện đại, là đại biểu cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là
người làm th do khơng có tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư.
1.2. Đặc điểm của GCCN
Từ những quan niệm khoa học về GCCN, ta còn được những đặc điểm quan trọng của
GCCN với tư cách là một giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới. Đây là những
đặc điểm phân biệt rõ lý do tại sao GCCN lại mang SMLS thế giới mà không phải những
giai cấp khác:
Đặc điểm nổi bật của GCCN là: họ lao động bằng phương thức công nghiệp với đặc
trưng công cụ lao động là máy móc, tạo ra năng suất lao động cao, q trình lao động mang
tính chất xã hội cao.
Giai cấp cơng nhân là đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại. Lí do là
GCCN là sản phẩm của bản thân nền cơng nghiệp, là chủ thể của q trình sản xuất vật
chất hiện đại.
GCCN được rèn luyện những phẩm chất đặc biệt về tính tổ chức và, kỷ luật lao động,
tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp. Đó là một giai cấp cách mạng và có tinh
thần cách mạng triệt để.
2. Lý luận về sứ mệnh lịch sử của GCCN
2.1. Bối cảnh lịch sử
Trong CNTB, giai cấp công nhân gắn liền với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất, cho
nên, họ là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sau khi giành
được chính quyền. giai cấp cơng nhân đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, vì vậy
giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao
hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2.2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN.
SMLS của GCCN chính là những nhiệm vụ mà GCCN cần phải thực hiện với tư cách
là giai cấp tiên phong, là lực lượng đi đầu trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Theo CNM-L, SMLS tổng qt của GCCN là thơng qua chính đảng tiền phong,
GCCN tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột
người, xóa bỏ CNTB, giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động khỏi mọi sự áp
bức bóc lột, nghèo nàn, xây dựng cộng sản chủ nghĩa văn minh.
SMLS của GCCN thể hiện trên ba nội dung cơ bản:
* Nội dung kinh tế
Để thực hiện SMLS của mình về nội dung kinh tế, GCCN phải đóng vai trị nịng cốt
trong q trình giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để tạo
cơ sở cho quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa ra đời.
Để giải thích rõ hơn về SMLS này, ta cùng phân tích trên một vài nhiệm vụ của
GCCN.
Trước hết, GCCN cũng là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, sản xuất ra của cải vật
chất ngày càng nhiều đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Như vậy, GCCN
căng tạo ra nhiều của cải vật chất thì căng tạo tiền đề vật chất – kỹ thuật cho sự ra đời xã
hội mới.
Tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất đòi hòi một quan hệ sản xuất mới,
phù hợp với chế độ công hữu các tư liệu sản xuất. Điều này mang lại sự công bằng về mặt
tư liệu sản xuất, khơng cịn bóc lột hay phải đi làm thuê cho tư bản. Điều này dẫn đến lợi
ích giữa các thành phần trong xã hội được đảm bảo, cơng bằng, hướng đến lợi ích chung
của xã hội. Đảm bảo khơng cịn mâu thuẫn giữa lợi ích của tư bản và người lao động làm
thuê.
* Nội dung chính trị - xã hội
GCCN cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của ĐCS tiến hành cách mạng
chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp thống trị, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức,
giành quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Thiết lập nhà nước kiểu
mới, mang bản chất giai cấp công nhân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện
quyền lực của nhân dân, quyền dân chủ và làm chủ xã hội của đại đa số nhân dân lao động.
GCCN và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do mình làm chủ như cơng
cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới, phát triển kinh tế và
văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ - pháp quyền, quản lý kinh tế - xã hội và tổ chức
đời sống xã hội phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân lao động, thực hiện quyền dân chủ,
cơng bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội, theo lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
* Nội dung văn hóa, tư tưởng
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, GCCN trong tiến trình cách mạng cải tạo xã
hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng cần phải tập trung xây dựng
hệ giá trị mới: lao động, cơng bằng, dân chủ, bình đẳng và tự do.
GCCN thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải cách cái cũng lỗi
thời lạc hậu, xây dựng cái mới, tiến bộ trong lĩnh vực kiến thức tư tưởng, trong tâm lý, lối
sống và trong đời sống tinh thần xã hội. Xây dựng và củng cố ý thức hệ tiên tiến của
GCCN đó là CNM-L, đấu tranh để khắc phục ý thức hệ tư sản và tàn dư cịn sót lại của hệ
tư tưởng cũ. Phát triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối
sống mới xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung căn bản mà cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng đặt ra đối với SMLS của GCCN nhân hiện đại
2.3. Điều kiện khách quan quy định SMLS sử của giai cấp công nhân
*Thứ nhất, do địa vị kinh tế của GCCN
GCCN đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại. Do
lao động bằng phương thức công nghiệp ngày càng hiện đại, GCCN là người sản xuất ra
của cải vật chất chủ yếu cho xã hội, làm giàu cho xã hội, có vai trị quyết định sự phát triển
của xã hội.
Đó là nhân tố kinh tế, quy định GCCN là lực lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, giành chính quyền về tay mình. GCCN là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện để tổ
chức xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách là
một chế độ xã hội kiểu mới, không cịn chế độ người áp bức, bóc lột người.
*Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của GCCN quy định
Địa vị chính trị - xã hội của GCCN đầu tiên phải kể đến đó là họ là giai cấp sản xuất
ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội và lợi ích của họ bị mất cơng bằng với lợi ích của
giai cấp tư sản.
Tiếp theo, họ là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp,họ có được bản chất của giai
cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng: tính tổ chức kỷ luật, tự giác và đấu tranh trong cuộc đấu
tranh tự giải phóng mình và giải phóng xã hội.
GCCN được trang bị lý luận tiên tiến là CNM-L, có đội tiên phong là ĐCS dẫn dắt.
Như vậy, SMLS của GCCN sở dĩ được thực hiện bởi GCCN là một giai cấp cách
mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, cho phương thức sản xuất tiên tiến. Họ là
giai cấp đại biểu cho tương lai, cho xu thế đi lên của tiến trình phát triển lịch sử. Đây là đặc
tính quyết định bản chất cách mạng của GCCN.
2.4. Điều kiện chủ quan để GCCN thực hiện SMLS.
*Thứ nhất phải kể đến đó là sự phát triển của GCCN cả về số lượng và chất lượng.
Sự phát triển này gắn liền với quy mô của nền sản xuất vật chất hiện đại trên nền tảng
củ công nghiệp, của kỹ thuật và công nghệ,
Chất lượng của GGCN thể hiện ở trình độ trưởng thành về ý thức chính trị của giai
cấp cách mạng, họ đã giác ngộ về lý luận khoa học và cách mạng của CNM-L.
Là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng của GCCN còn
phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhất
là trong điều kiện hiện nay.
*Đảng Cộng Sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để GCCN thực hiện SMLS của
mình.
Vai trị của Đảng Cộng Sản được thể hiện ở 3 khía cạnh. Thứ nhất, ĐCS tuyên truyền
và giáo dục để GCCN biết và thực hiện SMLS của mình. Thứ hai, ĐCS là tổ chức chính trị
cao nhất, đại diện cho GCCN. Thứ ba, ĐCS lãnh đạo, tổ chức, đưa ra đường lối, phương
pháp, … để GCCN đấu tranh giành thắng lợi.
Ngoài ra, để cuộc cách mạng của GCCN đi đến thắng lợi, phải có sự liên minh giai
cấp giữa GCCN và giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác, do GCCN thơng qua
đội tiên phong của nó là ĐCS lãnh đạo. Đây là một điều kiện khách quan khơng thể thiếu
giúp GCCN hồn thành SMLS của mình.
II. Sự vận dụng của Đảng trong quá trình xây dựng và phát triển GCCN ở Việt Nam
hiện nay.
1. Khái quát về GCCN Việt Nam
1.1. Nguồn gốc ra đời của GCCN Việt Nam
Trước TK XV, Việt Nam chưa có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công,
thương nghiệp và kinh tế hàng hóa, nhưng đã có tầng lớp thủ công. Sang thế kỉ XVI, đội
ngũ :Những người lao động làm thuê” đã xuất hiện. Đầu thế kỉ XĨ, ngành khai mỏ phát
triển và hàng ngàn “thợ” mỏ làm việc trong các mỏ khai thác than, thiếc. Nhưng đó chưa
phải là công nhân hiện đại, sản xuất trong dây chuyền công nghiệp.
Đội ngũ công nhân Việt Nam xuất hiện khi có cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I (từ
năm 1897 đến năm 1914) của thực dân Pháp. Khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội, Sài
Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh đã làm cho công nhân tăng nhanh. Số lượng cơng nhân
năm 1960 là khoảng 49.500 người trong đó có 1.800 thợ có chun mơn.
Sau chiến tranh thế giới thứ I kết thúc, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa
lần thứ II (1919-1929) nhằm tăng cường, vơ vét, bóc lột nhân dân thuộc địa để bù đắp thiệt
hại sau chiến tranh, đem về phục vụ cho chính quốc. Chính điều này đã khiến cho số lượng
cơng nhân Việt Nam tăng rất nhanh. Đến cuối năm 1929, tổng số công nhân làm việc trong
các doanh nghiệp của tư bản Pháp là hơn 22 vạn người, trong đó có 5,3 vạn thợ mỏ, 8,6 vạn
công nhân ngành công thương nghiệp, 8,1 vạn công nhân các đồn điền trồng cây công
nghiệp. Như vậy, từ sự sự đầu tư vào công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp dẫn
tới sự ra đời tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Và
đó cũng là điều kiện cơ bản làm xuất hiện một giai cấp mới - giai cấp công nhân Việt
Nam.Đa số cơng nhân n nước ta có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Sớm tiếp thu truyền
thống anh du dũng bất khuất, chống giặc ngoại xâm dân tộc, GCCN Việt Nam đã hăng hái
đấu tranh với tư bản Pháp. Các cuộc đấu tranh chủ yếu diễn ra nhằm đòi quyền lợi về kinh
tế, địi lợi ích cho người lao động, đòi tăng lương, giảm giờ làm, … Nhưng đều thất bại cho
chúng được tổ chức nhỏ lẻ, tự phát và khơng có tính triệt để, khơng có sự lãnh đạo của
người đi đầu.
1.2. Đặc điểm của GCCN Việt Nam
Thứ nhất: Sinh ra là lớn lên từ một nước vào thời thuộc địa, nửa phong kiến, có truyền
thống yêu nước, ý thức tự tơn dân tộc, dù là cịn non trẻ, nhỏ bé song GCCN đã sớm trở
thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng Việt Nam từ sau phong trào cứu nước theo phong trào Cần Vương, lập trường tư sản
và tiểu tư sản thất bại.
Thứ hai: Ra đời nước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu chủ nghĩa
Mác - Lênin, hệ tư tưởng giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng trở thành lực lượng
chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục
tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, GCCN
Việt Nam có bản chất và tinh thần cách mạng triệt để.
Thứ ba: GCCN nước ta xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân phong kiến bóc
lột, bần cùng hóa nên có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao
động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh giai cấp đã trở thành động lực và là cơ
sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ tư: Từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, GCCN Việt Nam luôn phát huy bản
chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực lượng đi đầu và lãnh đạo sự
nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển
nền kinh tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
Thứ năm: Quá trình “tri thức hóa” GCCN diễn ra mạnh mẽ, từng bước hình thành
GCCN trí thức Việt Nam. Việc hình thành GCCN trí thức khơng có nghĩa là sự bổ sung vào
lực lượng giai cấp cơng nhân những người có trình độ cao mà là GCCN được nâng cao về
trình độ và có sự thay đổi về chất - lao động điều khiển những cơng nghệ tự động hóa của
nền kinh tế tri thức. Trong khối đại đoàn kết dân tộc, GCCN là cơ sở chính trị - xã hội vững
chắc của Đảng và Nhà nước. Sự lớn mạnh của GCCN là một điều kiện kiên quyết bảo đảm
thành công của công cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Sự vận dụng của Đảng trong quá trình xây dựng và phát triển GCCN ở Việt Nam
hiện nay.
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phương hướng xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa: “Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số
lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị. trình độ học vấn
nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp.
Thực hiện tốt chính sách và pháp luật đối với công nhân và lao động, như Luật Lao động,
Luật Công đồn, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khỏe đối với cơng nhân, có chính sách ưu
đãi nhà ở đối với cơng nhân bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên cơng đồn,
nghiệp đồn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế…
Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên tư những công nhân ưu tú”.
Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đã ra nghị
quyết về “Tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”, trong đó nhấn mạnh: “Xây dựng GCCN lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và
bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức cơng dân, u nước, u chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu
cho tinh hoa văn hóa của dân tộc, nhạt bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước, có tinh thần đồn kết dân
tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế, thực hiện SMLS của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam… Xây dựng GCCN lớn mạnh, phát triển nhanh
về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước, ngày
càng được trí thức hóa: có trình độ học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả
năng tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển
kinh tế trí thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế,... có tác phong
cơng nghiệp và kỹ thuật cao”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Coi trọng giữ vững
bản chất GCCN và các nguyên tắc sinh hoạt của Đảng”. Đồng thời, “Chú trọng xây dựng,
phát huy vai trò của GCCN, giái cấp nơng dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kì mới”. Vì vậy, Đảng và Nhà nước phải “quan
tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển GCCN cả về số lượng và chất lượng; nâng cao
bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo đảm việc làm, nhà ở, các cơng trình phúc lợi
phục vụ cho cơng nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của công nhân”
3. Thành tựu Đảng đã đạt được trong quá trình xây dựng và phát triển GCCN Việt
Nam.
*Thành tựu phát triển nhận thức lý luận về GCCN Việt Nam của Đảng ta
-Đã đưa ra quan niệm khá đầy đủ về GCCN Việt Nam hiện nay.
Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 28-1-2008 của Hội nghị Trung ương 6 khóa X “Về
tiếp tục xây dựng giai cấp cơng nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước” đã xác định: “Giai cấp cơng nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn,
đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm cơng hưởng lương
trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh
và dịch vụ có tính chất cơng nghiệp”.
Quan niệm trên đã khẳng định lý luận Má về đặc điểm của GCCN là tập đoàn
người gắn liền với phương thức lao động cơng nghiệp, khẳng định “tính chất cơng nghiệp”
là tính chất nổi bật trong lao động của GCCN nước ta.
Điểm mới trong nhận thức lý luận này là thừa nhận sự tồn tại của GCCN nước ta trong
nhiều loại hình - thành phần kinh tế; họ bao gồm cả lực lượng lao động chân tay và trí óc
hoặc gồm cả 2 phương diện đó. Họ là người lao động, cho nên thu nhập từ “làm công
hưởng lương” là lợi ích cơ bản được họ quan tâm và chế độ phải cùng quan tâm. Họ lao
động trong nhiều lĩnh vực bao gồm cả lao động trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và cả
trong lĩnh vực dịch vụ, “gián tiếp”. GCCN nước ta được xác định là ln vận động, “đang
phát triển”, vì vậy quan niệm này chấp nhận sự bổ sung, điều chỉnh.
Nhận thức mới này đã điều chỉnh, thay thế cho những quan niệm phiến diện và khá
thịnh hành trong xã hội rằng: công nhân chỉ thuần túy là người “lao động trực tiếp” bằng
máy móc; rằng cơng nhân khơng bao hàm trong nó lực lượng lao động trí óc; rằng chỉ có
tiểu thương mới tham gia vào lĩnh vực dịch vụ chứ không phải công nhân, hoặc phân biệt
đối xử với công nhân trong các thành phần kinh tế khác nhau theo kiểu “con đẻ, con
nuôi”...
Quan niệm này cũng có tính chất cập nhật với thế giới. Trong các nghiên cứu về
GCCN hiện đại, có thể thấy một xu hướng là phân tách cơng nhân thành nhiều nhóm khác
nhau tùy theo lĩnh vực hoạt động (công nghiệp - dịch vụ - nơng nghiệp) hay vị trí của họ
trong dây truyền sản xuất (điều hành sản xuất, trực tiếp sản xuất, sửa chữa bảo trì máy móc,
sáng chế marketing, chăm sóc khách hàng...). Lần đầu tiên, trong quan niệm về GCCN
nước ta đã có khái niệm “dịch vụ có tính chất cơng nghiệp” với hàm ý là lực lượng lao
động dịch vụ có tính xã hội hóa cao. Trên thực tế, nhóm lao động dịch vụ này có vai trò
quan trọng, 5 năm gần đây nhất (2015 - 2019) nhóm lao động dịch vụ thường xuyên đóng
góp khoảng 40% GDP cho đất nước.
- Đã phân định rõ sự phát triển của GCCN với chủ động xây dựng GCCN trong môi
trường mới.
Môi trường phát triển của GCCN nước ta hiện nay có 2 đặc trưng:
Đặc trưng thứ nhất là mơi trường kinh tế có nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế
thị trường định hướng XHCN (cách diễn đạt này tuy dài và hiện nay ít dùng nhưng lại lột tả
rõ hiện trạng). So với giai đoạn trước 1986, cơ chế kinh tế thị trường làm cho công nhân
phải linh hoạt hơn, quan tâm đến hiệu quả sản xuất, hiệu quả kinh tế hơn so với thời bao
cấp. Kinh tế nhiều thành phần cũng làm sinh động hơn, phức tạp hơn cơ cấu của GCCN
nước ta. Bộ phận lớn nhất của GCCN nước ta hiện đang lao động trong những thành phần
kinh tế ngồi Nhà nước, cơng nhân đang chịu tác động hàng ngày của quy luật sản xuất và
bóc lột giá trị thặng dư.
Thêm vào đó, sự gắn bó với cơ chế thị trường buộc công nhân phải quan tâm nhiều
hơn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng là một nét mới trong nhận thức và tâm lý.
Trước kia, công nhân gắn với Nhà nước, quốc doanh, công trường... thì lợi ích cơng, kế
hoạch hóa, chỉ tiêu và kế hoạch sản xuất của Nhà nước là quan tâm hàng đầu. Thì hiện nay,
nhu cầu của thị trường, lợi ích của doanh nghiệp, thu nhập của người lao động, thương
hiệu... là những quan tâm lớn. Từ đây ở mỗi cơng nhân hình thành rõ nét hơn “con người
kinh tế” chứ khơng đậm sắc thái chính trị với vai trị “giai cấp lãnh đạo” như trước kia. Từ
con người kinh tế thành thạo với kinh tế thị trường, công nhân mới tích lũy năng lực để làm
chủ thực sự, thực chất. Đó cũng là hướng vận động thực tế để xây dựng GCCN nước ta(2).
Đặc trưng thứ hai của môi trường phát triển GCCN là quá trình đẩy mạnh CNH,
HĐH. Đặc trưng này lại phản ánh hai quá trình đồng thời: cơng nghiệp hóa đang ở giai
đoạn “tiếp tục đẩy mạnh” và GCCN đang “tiếp tục xây dựng, phát triển”. Cả hai đều đang
vận động, phát triển để hoàn thiện. Chúng vừa hỗ trợ nhau (theo nguyên lý công nhân vừa
là sản phẩm vừa là chủ thể của CNH, HĐH); vừa có những tác động kiềm chế (theo ngun
lý “hồn cảnh tạo ra con người ở chừng mức con người tạo ra hồn cảnh”). Có thể thấy rõ
điều này trên thực tế: nguồn nhân lực cho CNH, HĐH mà không đáp ứng yêu cầu thì quá
trình này phải kéo dài; cơng nghiệp hóa mà khơng hiện đại hóa thì số lượng công nhân tăng
nhưng chất lượng về công nghệ không đồng đều.
Hai đặc trưng đó của mơi trường phát triển nước ta hiện nay cần được nhận thức rõ
để chủ động về chiến lược phát triển GCCN. Tiêu biểu là quan điểm thể hiện trong Nghị
quyết Trung ương 6 khóa X: “Chiến lược xây dựng GCCN lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập
kinh tế quốc tế”.
Chủ động xây dựng GCCN trong bối cảnh hiện nay liên quan đến nhiều chủ thể.
Đây là chiến lược của Đảng, trách nhiệm của nhà nước, sự góp sức của các chủ
doanh nghiệp và vai trò chủ động của từng cơng nhân. Chiến lược đó liên quan trực tiếp
đến đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Nhà nước, hiệu quả “làm ăn” của các doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính
trị trong cơng nhân như các tổ chức cơ sở Đảng, Cơng đồn, Đồn thanh niên, Phụ nữ...
Nghị quyết Trung ương 6 khóa X đã xác định vai trò quyết định là Đảng Cộng sản Việt
Nam trong việc “nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về
giai cấp công nhân và với rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong cơng nghiệp, kỷ luật lao
động”.
Theo đó, sự phát triển của GCCN trong Đổi mới khác với giai đoạn trước 1986 ở
chỗ: nó liên quan đến hành động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của GCCN,
nâng cao giác ngộ chính trị, văn hóa, quan tâm đời sống vật chất và tinh thần của công
nhân lao động. Đây là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước là
nhân tố quan trọng nhất và có trách nhiệm nặng nề nhất. Tác động trực tiếp và có khả năng
mang lại lợi ích gần gũi và thường xuyên nhất cho công nhân là Công đồn. Cộng hưởng
vào q trình này là trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, là ý thức chấp hành pháp luật về
lao động của người sử dụng lao động.
Sự tự giác rèn luyện, tu dưỡng của mỗi người công nhân và cũng là cơng dân đóng
vai trị trực tiếp trong nâng cao “trình độ chính trị, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị, ý
thức cơng dân, tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vươn lên thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh
thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tinh thần phấn đấu vươn lên ngang tầm thời đại trong
điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, quyết tâm chiến thắng trong
cạnh tranh...”.
- Đã phân định rõ công nhân với tư cách là một giai cấp có sứ mệnh lịch sử với dân tộc
và công nhân với tư cách là người lao động trong bối cảnh hiện nay.
Đây cũng là nhận thức mới được thể hiện trong chính sách của Đảng và Nhà nước với
GCCN hiện nay.
Với tư cách là một giai cấp có sứ mệnh lịch sử với dân tộc;
GCCN là sản phẩm của q trình cơng nghiệp hóa thời kỳ đổi mới với các u cầu:
cơng nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa, coi “nơng nghiệp - nơng thơn là mặt trận hàng
đầu”, cơng nghiệp hóa diễn ra trong cơ chế thị trường, cơng nghiệp hóa hướng tới kinh tế
tri thức, gắn hội nhập và bảo vệ tài nguyên môi trường. Phải đáp ứng được những yêu cầu
kinh tế - xã hội ấy thì cơng nhân - sản phẩm xã hội của q trình cơng nghiệp hóa hiện nay,
mới thể hiện ra được như một lực lượng lao động tiên tiến nhất.
Nhưng tự bản thân GCCN không quyết định được điều đó; đường lối chính sách
cơng nghiệp hóa của Đảng và Nhà nước, thực tế hoạt động của các doanh nghiệp trong các
thành phần kinh tế và định hướng, quản lý cho các hoạt động ấy mới là những yếu tố vĩ mơ
và vi mơ trực tiếp định hình GCCN hiện nay. Và theo đó, chính trị đang tác động mạnh mẽ
đến kinh tế, Đảng và Nhà nước mới là yếu tố quyết định nhất đến GCCN và sứ mệnh lịch
sử của nó. Đây có thể xem là nhận thức mới quan trọng nhất về xây dựng, phát triển công
nhân nước ta.
GCCN nước ta cũng phải được xây dựng và tự phấn đấu vươn lên để nâng cao trình
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, trau dồi bản lĩnh chính trị vững vàng và
nghị lực lớn, mới có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử trong thời kỳ mới, đóng góp xứng
đáng vào thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH ở Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp...”. Theo đó, cùng với việc xây
dựng những phẩm chất kinh tế - kỹ thuật thì xây dựng những phẩm chất chính trị - xã hội
của cơng nhân như “ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh
hoa văn hóa của dân tộc” cũng phải được quan tâm đầy đủ. Hệ thống chính trị trong các
doanh nghiệp (các tổ chức Đảng, Cơng đồn, Đồn thanh niên, Nữ cơng) là người trực tiếp
đảm nhận sứ mệnh này. Và như vậy, cần phải “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy
vai trò của tổ chức cơng đồn và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp
công nhân”.
- Với tư cách là người lao động;
Một đặc điểm nổi bật của công nhân - lao động nước ta hiện nay là khá đa dạng về
thành phần kinh tế, về lợi ích và trình độ cơng nghệ. Nếu như trước thời kỳ đổi mới, đa số
công nhân lao động trong thành phần kinh tế nhà nước với hai loại hình là sở hữu tồn dân
(các nhà máy nơng trường quốc doanh) và sở hữu tập thể (các hợp tác xã tiểu thủ cơng
nghiệp); thì hiện nay họ có mặt trong mọi thành phần kinh tế mà đông đảo nhất là kinh tế
tư nhân. Quan tâm hàng đầu của họ hiện nay là việc làm và đời sống, là “phần được hưởng
sau lao động” với thu nhập và điều kiện sinh hoạt; và để đạt được điều đó thì phải làm việc
với “năng suất, chất lượng, hiệu quả” trước đã, “rồi mới làm ra lịch sử” (như cách diễn đạt
của C.Mác trong “Hệ tư tưởng Đức”).
Họ cũng buộc phải làm quen với tư duy kinh tế, hiệu quả sản xuất kinh doanh, biết
tính tốn lựa chọn việc làm trong thị trường sức lao động. Có những yếu tố mà trước 1986
ít người lao động quan tâm như giá cả của mặt hàng mình sản xuất ra hiện nay trên thế giới
ra sao; thương hiệu quốc tế, thị trường “ngách”, sản xuất theo mùa vụ của nhu cầu là như
thế nào; sự khác biệt về phần lợi nhuận khi hàng hóa thâm nhập vào thị trường “khó tính”;
bảo đảm chất lượng sản phẩm, thời hạn hợp đồng, tiết kiệm vật tư, nguyên liệu, tăng năng
suất lao động, không chỉ là khẩu hiệu thi đua như “thời bao cấp” mà còn là “yếu tố sống
cịn của doanh nghiệp”, v.v..
Cũng cần nói thêm rằng, kết cấu đa dạng của GCCN nước ta hiện nay là một biểu
hiện có nhiều ý nghĩa trong q trình phát triển của nó. Đa dạng về cơ cấu giai cấp là sự thể
hiện tính sinh động, tự nhiên và hợp lý của sự vận động của công nhân trong nền kinh tế
mang tính “đan xen”, phức hợp của kinh tế trong thời kỳ quá độ. Đa dạng về cơ cấu và lợi
ích của cơng nhân cũng như xu hướng vận động có mặt phức tạp thậm chí khơng đồng
nhất, đồng hướng cũng đều là những hệ quả tự nhiên và gắn liền với “mảnh đất hiện thực”
hiện nay. Những sự khác biệt này đặt ra nhu cầu về chính sách cho từng đối tượng cũng
phải ngày càng cụ thể, phù hợp hơn.
Công nhân nước ta hiện nay đang lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Bên cạnh những quan tâm về việc làm, thu nhập, mức sống thì GCCN Việt Nam
cịn là giai cấp có sứ mệnh đi đầu trong sự nghiệp xây dựng CNXH, xây dựng xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Đây là vinh dự và cũng là trọng trách của công nhân nước ta.
Theo đó, xây dựng giai cấp cơng nhân Việt Nam cần phải chú ý về chính sách trên các hai
phương diện: lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, vị thế người lao động và vị thế người làm
chủ đất nước...
*Thành tựu phát triển nhận thức lý luận về thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt
Nam
- Đã bước đầu làm rõ nội dung sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam với dân tộc hiện
nay.
Nghị quyết Trung ương 6 khóa X (2008) “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” khái qt: “Giai cấp cơng nhân nước ta có sứ mệnh
lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản
Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Sở dĩ coi đây là một thành tựu lý luận lớn vì trên thực tế, dù GCCN Việt Nam đã
đảm đương khá thành công trách nhiệm với dân tộc, nhưng cho đến năm 2008, qua 68 năm
lãnh đạo cách mạng, khái niệm sứ mệnh lịch sử vẫn chưa được tường minh. Các đề cập đến
vấn đề này thường chỉ nhấn mạnh vào vị thế giai cấp lãnh đạo hay “hoàn thành nhiệm vụ
giải phóng dân tộc”, xây dựng CNXH chứ chưa thật “chu diên” các nội hàm của khái niệm
này.
Việc xác định sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam trước hết là sự vận dụng
những tư tưởng căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về GCCN vào thực tiễn nước ta. Đó là
vị trí của giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, “đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến”, gắn liền với cơng nghiệp hóa, “là giai cấp lãnh đạo thông qua đội tiền
phong là Đảng Cộng sản” và “tiên phong trong xây dựng CNXH”... Tất cả đều là sự phản
ánh trung thành những nguyên lý MácMác về GCCN.
Điểm mới và cũng là điểm sáng tạo so với chủ nghĩa Mác là ở vai trò chủ động,
chủ thể, đi đầu của GCCN trong sự nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta. Trong q trình đại
cơng nghiệp tư bản chủ nghĩa (TBCN) cách đây hơn 2 thế kỷ và hiện nay ở các nước
TBCN cũng vậy, giai cấp tư sản là giai cấp chủ động và là chủ thể của cơng nghiệp hóa. Vai
trị đó sở dĩ có được do giai cấp tư sản là giai cấp nắm giữ quyền sở hữu và định đoạt quá
trình sử dụng tư bản. Tư bản là chủ và công nhân là người làm thuê. Ở Việt Nam hiện nay,
GCCN cùng nhân dân là chủ thể quyền lực tối cao, thông qua Đảng và định hướng đường
lối cơng nghiệp hóa thơng qua Nhà nước để quản lý phát triển xã hội. Vừa là người sở hữu
xã hội tư liệu sản xuất vừa là quản lý, sử dụng tư liệu sản xuất của xã hội, GCCN Việt Nam
đang góp phần quyết định cho việc xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, giải quyết vấn đề
“lao động bị tha hóa” thơng qua thực hiện nội dung kinh tế của sứ mệnh lịch sử. Đó là một
sứ mệnh vĩ đại đang được bắt đầu ở Việt Nam.
Điểm mới thứ hai cũng là sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn Việt Nam: GCCN có vai trị lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng CNXH ở Việt Nam với những đặc trưng khái quát là
“vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đặc điểm của
Việt Nam hiện nay là một nước đang phát triển, tỷ lệ hộ nghèo cịn cao, các tiêu chí XHCN
về dân chủ, công bằng, văn minh vẫn là mục tiêu phấn đấu. Vì vậy, trách nhiệm của
GCCN, thơng qua đội tiền phong của nó, phải khắc phục hiện trạng trên. Lao động sống,
lao động tạo ra giá trị thặng dư của công nhân là nguồn gốc chủ yếu cho của cải, tài sản, sự
giàu có của mọi xã hội. Ở Việt Nam cũng vậy, nhưng giá trị thặng dư mà người công nhân
tạo ra, sau phần mà người lao động được hưởng “bởi đóng góp của mình” và sau phân phối
lại theo hiệu quả sản xuất kinh doanh, mức góp vốn, thì sử dụng chủ yếu cho thực hiện
phúc lợi xã hội. Đó là sự khác nhau giữa CNXH ở Việt Nam với chế độ TBCN.
Điểm mới thứ ba là vai trò “nòng cốt trong liên minh giai cấp cơng nhân với giai
cấp nơng dân và đội ngũ trí thức”. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin nói về liên minh cơng
- nơng, Hồ Chí Minh khẳng định vai trị của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức trong cách mạng Việt Nam. Trong sự nghiệp đổi mới, vấn đề
này được Đảng nhận thức sâu hơn về GCCN với vai trò kép: làm nịng cốt cơ sở chính trị
xã hội cho sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và làm nịng cốt cho đại đồn kết
tồn dân tộc. Cả hai vai trò của GCCN là sự thể hiện trên hai phương diện: đoàn kết giai
cấp và đoàn kết dân tộc - một đặc sắc của cách mạng Việt Nam.
- Đã có thêm nhiều phát hiện mới từ q trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN
Trong bối cảnh kinh tế thị trường nhiều thành phần, thì Cơng đồn là tổ chức gần
gũi nhất, tác động trực tiếp nhất đến quyền và lợi ích của GCCN, từ đó mà nâng cao giác
ngộ chính trị. Theo đó, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Cơng đồn hiện nay
là rất cần thiết để thật sự là một tổ chức gần gũi quần chúng nhất của Đảng, mà V.I.Lênin
coi là “sợi dây chuyền nối liền đội tiền phong với quần chúng của giai cấp tiên tiến và nối
liền đội ấy với quần chúng lao động”.
Việc làm và lợi ích được hưởng là quan tâm hàng đầu của nhiều công nhân hiện
nay chứ không phải sứ mệnh lịch sử hay CNXH! C.Mác và Ph.Ăngghen từng viết: “Tiền
đề đầu tiên của mọi lịch sử, đó là người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra
lịch sử. Nhưng muốn sống được, thì trước hết con người phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa...”(6). Khi đời sống vật chất và tinh thần bị câu thúc, buộc
phải tiết giảm những nhu cầu thiết yếu, thì hiển nhiên con người phải truy cầu cái đó trước
tiên. Cũng cần thấy rằng có một bộ phận cơng nhân trong kinh tế thị trường đã bị thối hóa
và khá gần gũi với hình ảnh của “tầng lớp vơ sản lưu manh” mà C.Mác từng phản ánh.
Theo đó, muốn nâng cao giác ngộ chính trị cho cơng nhân thì Đảng “phải quan tâm đến đời
sống vật chất và tinh thần của người lao động”.
Kinh tế thị trường, thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi, khơng chỉ có tác dụng làm sinh động nền kinh tế, khai thác và tận dụng mọi tiềm
năng sản xuất, tạo việc làm cho xã hội, đóng thuế cho Nhà nước... mà còn là một thực tiễn
gần gũi giúp cho công nhân nước ta hiểu cụ thể một cách trực giác về một số vấn đề lý luận
như giá trị thặng dư, bóc lột kiểu TBCN, tính xã hội hóa của sản xuất cơng nghiệp, v.v..
Thực tiễn đó góp phần củng cố niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác. Vấn đề làm thuê và
làm chủ, được và mất trong kinh tế thị trường cũng đã được nhìn nhận rộng hơn, sâu hơn,
biện chứng hơn. Chẳng hạn, bị bóc lột cũng “được”, và đi bóc lột cũng “mất”! Người lao
động “được” gì khi tham gia vào quá trình sản xuất tư bản? Với những cơng nhân Việt
Nam xuất thân từ nơng dân, họ có nghề nghiệp, kỹ năng lao động mới, thu nhập tăng hơn,
được tiếp cận môi trường lao động hiện đại với phương thức lao động và quản lý mới... Từ
đó, GCCN có được những tri thức kỹ năng mới để mà quản lý, làm chủ. Nhà nước thu
được thuế, tiếp cận với công nghệ mới, kinh tế thị trường và sản xuất hàng hóa hiện đại,
qua đó mà phát triển sản xuất và “làm bạn, là đối tác” và chủ động, tích cực hội nhập kinh
tế thế giới... Người sử dụng lao động cũng phải chia sẻ bí quyết cơng nghệ, chia sẻ thị
trường, kinh nghiệm quản lý, chấp nhận sự nguy hiểm của đồng vốn khi đầu tư, và có cả
thất bại, phá sản v.v. chứ không phải chỉ là và khi nào cũng đạt lợi nhuận. Nguyên tắc hai
bên, các bên cùng có lợi là một yêu cầu khách quan và đã diễn ra trên thực tế. Hiện tượng
lao động bị bóc lột, bất công không chỉ xuất hiện trong thành phần kinh tế ngồi nhà nước
mà cịn xuất hiện ngay trong thành phần kinh tế nhà nước, khi mà người quản lý không
công tâm, cơ chế quản lý lỏng lẻo và bị lợi dụng để mưu lợi ích riêng và lợi ích nhóm. Sở
hữu cơng hữu vẫn có thể làm nảy sinh những bất công mới, nếu dân chủ trong doanh
nghiệp không được phát huy, nếu cơ chế quản lý tài sản cơng khơng khoa học, chặt chẽ...
Tri thức hóa và trí thức hóa cơng nhân là một thực tế ở Việt Nam. Hiện nay 9,7%
cơng nhân nước ta có trình độ đại học. Nhiều doanh nghiệp, tập đoàn đã ứng dụng các công
nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0. GCCN Việt Nam trong cơ chế thị trường định hướng
XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và chủ động tích cực hội nhập với thế giới đã và đang “sản
sinh ra một tầng lớp trí thức cho riêng mình” (Ph.Ăngghen).
GCCN Việt Nam hiện nay, về kinh tế và xã hội, “là một lực lượng xã hội to lớn,
đang phát triển”, cho nên chưa đạt đến độ thống nhất cao và có nhiều tầng lớp. Sự phân
hóa, phân tầng đó là tự nhiên, có cơ sở từ thực tiễn công nghệ và các thành phần kinh tế
hiện nay. Theo đó, một mặt tơn trọng thực tế để có những giải pháp phù hợp khi xây dựng
GCCN trong các thành phần kinh tế khác nhau; mặt khác cũng phải ln chú ý đến việc
đồn kết, thống nhất GCCN. “Mẫu số chung” để quy đồng những khác biệt về vị thế, lợi
ích của GCCN đã và ngày càng được tìm ra nhiều hơn qua thực tiễn đổi mới. Đó là sự
thống nhất giữa lợi ích của giai cấp cơng nhân với lợi ích của tồn Dân tộc trong mục tiêu
“Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”; đó là sự thống nhất giữa 3 lợi ích: của cá nhân
người lao động, của tập thể và của xã hội; đó là lịng u nước và tinh thần dân tộc, ý chí
vươn lên thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... của mỗi
người cơng nhân.
4.Hạn chế cịn tồn tại trong q trình xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam hiện
nay.
Vai trò của tổ chức đảng và các đoàn thể trong các doanh nghiệp chưa đáp ứng
được sự phát triển nhanh chóng về số lượng, cơ cấu của GCCN. Công tác phát triển đảng
trong công nhân chậm. Ở hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, doanh
nghiệp tư nhân đều không muốn hoặc không quan tâm đến việc xây dựng các tổ chức đảng.
Hoạt động của Đoàn Thanh niên, tổ chức cơng đồn cịn mang tính hình thức. Nhiều tổ
chức cơng đồn chưa thực sự đứng về phía người lao động, bởi cán bộ cơng đồn do doanh
nghiệp trả lương, làm việc không chuyên trách dưới sự lãnh đạo quản lý trực tiếp của chủ
doanh nghiệp.
Cụ thể hơn:
Việc làm cho người lao động. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có
nhiều chủ trương, giải pháp đầu tư phát triển sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao
động. Tuy nhiên, do quy mô nền kinh tế nhỏ, trình độ phát triển, sức cạnh tranh của nền
kinh tế nước ta còn yếu so với khu vực và thế giới nên tỷ lệ thất nghiệp còn ở mức cao.
Theo số liệu của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, năm 2009, cả nước có 83% số cơng
nhân có việc làm thường xuyên ổn định, còn 12% việc làm không ổn định và 2,7% thường
xuyên thiếu việc làm. Chỉ có khoảng 21% doanh nghiệp ngồi nhà nước đóng bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế cho công nhân và trích nộp kinh phí cơng đồn.
Thu nhập của người lao động. Mức lương của người lao động hiện nay về cơ bản
không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của bản thân, chứ chưa nói đến việc tích
lũy hay chăm lo cho con cái... Nhà nước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng lương tối
thiểu, thậm chí có quy định về mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm ở các
loại hình doanh nghiệp (Nghị định số 70/2011/NĐ-CP). Tuy nhiên, mức tăng thường không
theo kịp tốc độ tăng giá của thị trường. Chẳng hạn, năm 2010, tiền lương của người lao
động trong các loại hình doanh nghiệp tăng 10,3% so với năm 2009 nhưng chỉ số giá sinh
hoạt tăng 11,75%, nên việc tăng lương khơng có tác dụng nhiều trong việc cải thiện đời
sống công nhân, đặc biệt là công nhân ở các KCN, KCX. Trong khi đó, phần lớn các chủ
doanh nghiệp vẫn đang lấy mức lương tối thiểu để trả lương cho người lao động, chưa thật
sự quan tâm đến việc xây dựng thang, bảng lương. Ngoài ra, các chủ doanh nghiệp còn bớt
một phần lương của người lao động chi cho các khoản phụ cấp như ăn trưa, tiền hỗ trợ đi
lại, thưởng…
Đời sống văn hóa của cơng nhân. Những năm gần đây, các doanh nghiệp đã từng
bước đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của người lao động. Tuy nhiên, ở hầu hết các
KCN, KCX chưa tạo ra những điều kiện bảo đảm sinh hoạt văn hóa cho cơng nhân. Theo
kết quả điều tra xã hội học tại Bình Dương, có đến 71,8% cơng nhân khơng có điều kiện để
đến rạp chiếu phim, 88,2% không đi xem ca nhạc, 84,7% không đi xem thi đấu thể thao,
95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại các câu lạc bộ, 91,8% không bao giờ đến các nhà văn
hóa tham gia các hoạt động vui chơi giải trí, văn hóa tinh thần, 89% giải trí bằng tivi,
82,4% bằng nghe đài, chỉ có 1,2% sử dụng internet. Nguyên nhân của tình trạng trên là do
cơng nhân khơng có thời gian, kinh phí và các KCN cũng khơng có cơ sở vật chất để đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt tinh thần của họ.
Điều kiện làm việc. Nhìn chung, điều kiện làm việc của cơng nhân chưa được
bảo đảm. Nhiều công nhân phải làm việc trong mơi trường bị ơ nhiễm nặng như nóng, bụi,
tiếng ồn, độ rung vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều đó đã tác động xấu đến sức khỏe người
lao động, gây ra các bệnh nghề nghiệp.
5. Một số giải pháp xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam hiện nay.
Cùng với sự xuất hiện ồ ạt của các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi, các liên doanh đã tạo ra những khu công nghiệp - khu chế xuất tập
trung, thu hút một đội ngũ công nhân mới, rất đơng đảo, trẻ và có trình độ văn hóa. Nhưng,
đội ngũ cơng nhân này cơ bản có nguồn gốc từ nông thôn, mang nặng tâm lý, ý thức, lối
sống của người nông dân; không được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ một cách cơ bản;
chưa được giáo dục một cách đầy đủ về ý thức chính trị, ý thức giai cấp; mục đích đơn giản
của họ là có việc làm, có thu nhập, ý thức làm thuê kiếm sống là chính. Thu nhập của đội
ngũ cơng nhân này rất thấp, đời sống vật chất và tinh thần vơ cùng khó khăn, nhất là về nhà
ở, vệ sinh công nghiệp, vệ sinh mơi trường, văn hóa...
Để giai cấp cơng nhân Việt Nam phát triển và trưởng thành, ngày càng xứng đáng
là lực lượng quan trọng nhất để xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và chế độ xã
hội chủ nghĩa, chúng ta cần sớm có một chiến lược quốc gia tổng thể, đồng bộ xây dựng và
phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời gian tới. Chúng tôi xin đề xuất một số
giải pháp cơ bản sau:
Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hòa. Vừa tăng trưởng kinh tế với
tốc độ cao, ổn định vừa bảo đảm phát triển văn hóa - xã hội hài hịa, lành mạnh; khơng
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, đặc biệt là giai cấp
công nhân; giữ vững ổn định chính trị; bảo đảm an ninh quốc phịng, trật tự an toàn xã hội.
Một xã hội ổn định, phát triển tồn diện và hài hịa khơng chỉ là mơi trường thuận lợi cho
sự phát triển của giai cấp công nhân mà còn của mọi người dân trong xã hội.
Tiếp tục phát triển kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa . Quy hoạch
nền kinh tế, vùng kinh tế, khu vực kinh tế, cấu trúc lại nền kinh tế phù hợp với sự phát triển
nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thu
hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích các tập thể cá nhân phát triển sản xuất - kinh doanh,
chủ động và tích cực tham gia vào thị trường lao động quốc tế, phát triển cảng biển, hệ
thống đường giao thông thủy, bộ, đường sắt, hàng không, xây dựng những khu công
nghiệp, khu chế xuất mới... Đây sẽ là quá trình phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp,
hiện đại; đồng thời, hướng tới việc tạo ra một thị trường lao động công nghiệp mới, thu hút
nhiều lao động với phong phú về ngành nghề, đa dạng về chủng loại. Quá trình này sẽ phát
triển giai cấp công nhân không chỉ về số lượng mà cả chất lượng.
Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trị, vị trí và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Xuất phát từ thực trạng đời sống của người cơng nhân
cịn nhiều khó khăn, nên trong quan niệm của xã hội hiện nay, hình ảnh người cơng nhân
chưa phải là hình ảnh được đề cao. Trong điều kiện như thế, để giai cấp công nhân có điều
kiện khẳng định được vai trị, vị trí của mình cũng như hồn thành được sứ mệnh lịch sử
cao q của mình cần có một chiến dịch tun truyền, vận động rộng khắp trong xã hội
nhằm đề cao, tôn vinh người công nhân, sao cho cả xã hội nhận thức được vai trị và vị trí
quan trọng của giai cấp công nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế trong điều kiện tồn
cầu hóa và hội nhập quốc tế; đồng thời, cũng là nhân tố quyết định xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cải cách triệt để hệ thống giáo dục và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và tay nghề
cho giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề sống còn đối với người công nhân và việc phát
triển giai cấp công nhân trong tình hình mới. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế đang tạo ra một nhu cầu mới
về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Đặc thù của kinh tế thị trường là tính cạnh
tranh cao, lao động và việc làm cũng khơng ngồi tình trạng đó. Sự cạnh tranh trong sử
dụng lao động đòi hỏi lực lượng lao động cần được đào tạo một cách chuyên nghiệp và cơ
bản. Do đó, chất lượng lao động, nguồn nhân lực mới là nhân tố quyết định cho sự phát
triển và tăng trưởng cao. Đối với người lao động, khi tham gia thị trường lao động nếu
chưa được đào tạo cơ bản, đáp ứng nhu cầu thực tế của thị trường lao động, thì rất khó tìm
được việc làm, và nếu có, thì cũng thường là việc làm không ổn định, lao động giản đơn,
nặng nhọc và thu nhập thấp. Tính cạnh tranh cao cùng với sự sơi động của thị trường lao
động địi hỏi Nhà nước cần có một chiến lược xây dựng và phát triển nguồn nhân lực vừa
đơng đảo, có chất lượng cao vừa phong phú, đa dạng nhằm đáp ứng kịp thời và lâu dài nhu
cầu nguồn lực con người cho q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Thiết thực chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của giai cấp công nhân. Trong xã
hội hiện nay, cùng với nông dân, giai cấp công nhân là những người nghèo trong xã hội.
Đời sống vật chất và tinh thần của người công nhân lao động còn nghèo nàn. Đây là một
nghịch lý rất đáng suy nghĩ. Giai cấp tiên tiến, ưu tú, nắm quyền lãnh đạo xã hội mà lại
nghèo. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước cần cấp thiết có một chiến lược thiết thực chăm lo đời
sống người công nhân, nhất là đội ngũ công nhân trẻ mới vào nghề, tập trung đông ở các
khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong đó, trước hết, là các chính sách mới về việc làm, nhà
ở và tiền lương. Có như thế, giai cấp cơng nhân mới thốt khỏi những bức bách của đời
sống, có điều kiện học tập, rèn luyện nâng cao tay nghề và ý thức xã hội. Chỉ khi đó, đội
ngũ cơng nhân trẻ này mới gắn bó sâu sắc với sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước, có
ý thức giai cấp, có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với cuộc vận động thực hiện Quy chế Dân
chủ ở cơ sở và chống tham nhũng. Xây dựng và phát triển giai cấp công nhân phải được
thực hiện trong một môi trường kinh tế - xã hội mà mỗi người công nhân ln có điều kiện
phát huy năng lực của mình và được thụ hưởng thành quả lao động do chính mình làm ra.
Muốn thế, cần thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế Dân chủ trong các loại hình doanh nghiệp
khác nhau. Một khi người công nhân được tôn trọng, được thực sự góp phần vào q trình
phát triển doanh nghiệp thì sẽ tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, công nhân
yên tâm và hăng say làm việc, sáng tạo mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và bản
thân. Cùng với thực hiện nghiêm túc Quy chế Dân chủ trong các doanh nghiệp, đấu tranh
chống tham nhũng cũng là một vấn đề gây bức xúc trong khơng ít các doanh nghiệp, nhất
là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần. Tham nhũng đang tạo ra khoảng cách
giàu - nghèo giữa công nhân, viên chức và người lãnh đạo doanh nghiệp, gây nên sự bất
bình trong dự luận cơng nhân, mất đồn kết nội bộ, mâu thuẫn trong doanh nghiệp. Nếu
không kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng sẽ dễ dẫn tới tình trạng bất ổn, làm sản xuất
đình đốn. Kiên quyết đấu tranh loại trừ tệ tham nhũng ra khỏi các doanh nghiệp đó là một
việc làm vừa có ý nghĩa phát triển sản xuất, kinh doanh vừa có ý nghĩa bảo vệ cán bộ và
cơng nhân khơng bị rơi vào trạng thái mâu thuẫn trên. Đó chính là một con đường thiết
thực góp phần xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong các doanh nghiệp.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội
trong các doanh nghiệp; đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội
trong các doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp được đề cập ở đây là trong các doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa. Trong q trình chuyển đổi vừa qua,
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với doanh nghiệp cũng như đối với các tổ chức chính
trị - xã hội trong các doanh nghiệp cịn lúng túng, có nhiều bất cập. Chính vì vậy, vị thế, vai
trị của Đảng trong các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp đã cổ phần hóa khá mờ nhạt.
Các tổ chức chính trị - xã hội trong nhiều doanh nghiệp hầu như rất lúng túng trong phương
hướng hoạt động, không hoạt động hoặc hoạt động chỉ mang tính hình thức.
Vấn đề đặt ra là, Đảng cần có phương thức lãnh đạo mới, một cơ chế mới để vừa
thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình vừa thúc đẩy sự hoạt động một cách có hiệu quả
của các tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp. Trong đó, đặc biệt tạo lập mối
quan hệ mới giữa Đảng và tổ chức cơng đồn, từng bước góp phần đưa Cơng đồn trở
thành một tổ chức hùng mạnh, thực sự xứng đáng là tổ chức hoạt động vì quyền lợi chính
đáng của tồn thể cơng nhân, lao động. Sự lãnh đạo sát sao của Đảng đối với tổ chức công
đồn sẽ là một sức mạnh mới thiết thực góp phần bảo vệ, chăm sóc và phát triển giai cấp
cơng nhân trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Bảo vệ quyền lợi
chính đáng của công nhân cũng là một cách xây dựng và phát triển giai cấp công nhân
trong giai đoạn hiện nay.
C. KẾT LUẬN
Giai cấp công nhân nước ta đã và đang có sự biến đổi quan trọng, đang tiếp tục
phát huy vai trị là giai cấp lãnh đạo cách mạng thơng qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Phát triển giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng,
không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp tay nghề, nắm bắt khoa học kỹ thuật, nâng cao tác phong công
nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật lao động góp phần tăng năng suất lao động, phát triển bền
vững doanh nghiệp, đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước để giai cấp
công nhân Việt Nam xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là lực lượng đi đầu trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học - Chủ biên: Gs.Ts. Hồng Chí Bảo
2. Đề tài “Nghiên cứu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp
công nhân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong lịch sử và thời đại
ngày nay; đề xuất bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh
mới”, thuộc Chương trình KX.02/16-20; Chủ nhiệm PGS,TS Nguyễn Viết
Thảo.
3. PGS, TS Nguyễn An Ninh: Một số nhận thức mới cần được bổ sung về GCCN
và CNXH hiện nay, Tạp chí Cộng sản, 8-2016