Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.31 KB, 137 trang )

MỞ ĐÂU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai cấp công nhân đang hoạt động trong tất cả các ngành nghề, các
thành phần kinh tế, “là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước”
1
, là hạt nhân của liên minh công nông và khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng. Xây dựng giai cấp
công nhân vững mạnh là vấn đề quan trọng có ý nghĩa chiến lược của Đảng.
Trong công cuộc đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều
đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội. Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm
13% dân số, gần 23% lực lượng lao động xã hội, song hàng năm đã tạo ra
khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước, đảm bảo 60% nguồn thu ngân
sách nhà nước. Những đóng góp của giai cấp công nhân khẳng định vị trí,
vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân trong sự nghiệp đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Giai cấp công nhân nước ta đang có sự phát triển nhanh cả về số lượng
và chất lượng, song trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, trong điều kiện khoa học công nghệ ngày càng phát triển
nhanh, toàn cầu hoá diễn ra như một xu thế khách quan, tình hình thế giới có
những thay đổi hết sức nhanh chóng, âm mưu ''diễn biến hoà bình'' của các
thế lực thù địch đối với nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp, tác động mặt trái
của kinh tế thị trường và sự du nhập của các luồng văn hoá độc hại đang
từng ngày, từng giờ tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, giai
cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn.
Tình trạng trạng thất nghiệp, lao động không ổn định, thời gian làm việc kéo
dài và cường độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn
lao động gia tăng đe dọa giai cấp công nhân. Hàng chục vạn công nhân, lao
động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất phải thuê nhà ở, sinh hoạt trong
điều kiện tạm bợ thiếu thốn và không đảm bảo an toàn. Đặc biệt là tiền lương,


1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2006,
tr.118.
1
thu nhập của người lao động chưa tương xứng với cường độ và thời gian lao
động, thậm chí có nơi lương công nhân không đủ nuôi sống bản thân, đời sống
gặp nhiều khó khăn.
Điều kiện sinh hoạt tinh thần cũng rất thiếu thốn. Công nhân lao động
không có thời gian, điều kiện sinh hoạt, học tập nâng cao nhận thức chính trị
và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy, trình độ học vấn, chuyên môn
nghề nghiệp của một bộ phận công nhân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; ý thức tổ chức kỷ luật, tác
phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế. Có
một bộ phận công nhân sống thiếu lý tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã
hội, dẫn đến tha hóa về phẩm chất lối sống, phai nhạt phẩm chất của giai cấp
công nhân, giảm lòng tin và sự gắn bó với Đảng và Công đoàn.
Đã xảy ra tranh chấp lao động và đình công ồ ạt trong công nhân lao
động thời gian qua, phản ánh sự bức xúc về quyền lợi và thiếu am hiểu pháp
luật của công nhân lao động.
Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên
nhân cơ bản là những năm qua, Đảng và Nhà nước chưa quan tâm thoả đáng
đến xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân, đặc biệt, sự lãnh đạo của
Đảng đối với vấn đề xây dựng giai cấp công nhân còn nhiều bất cập. Từ nhận
thức về vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân
đến tổ chức lãnh đạo trong thực tiễn đều có những bất cập. Tình hình giai cấp
công nhân đặt ra nhiều vấn đề mới cần có định hướng của Đảng, nhưng chủ
trương, chính sách xây dựng giai cấp công nhân chậm đổi mới, Đảng chưa có
chiến lược về xây dựng và phát triển giai cấp công nhân hiện đại; trong quá
trình chuyển sang cơ chế mới đã có những biểu hiện coi nhẹ vị trí, vai trò giai
cấp công nhân, một số cấp uỷ có trách nhiệm nhưng chưa quan tâm đúng mức

đến vấn đề xây dựng giai cấp công nhân, chưa tập trung lãnh đạo giải quyết
những vấn đề bức xúc của công nhân trong phạm vị trách nhiệm; Công đoàn
còn lúng túng trong đổi mới tổ chức, hoạt động, chưa phát huy tốt vai trò trong
xây dựng giai cấp công nhân…
2
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất
nước và chuyển đổi cơ cấu lao động sang hướng công nghiệp và dịch vụ, giai
cấp công nhân nước ta sẽ phát triển rất nhanh, không chỉ là lực lượng chính
trị, xã hội quan trọng mà còn là người nắm giữ cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại nhất của nền kinh tế, có vai trò quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tăng cường xây dựng giai cấp công nhân
có giác ngộ và bản lĩnh chính trị, có trình độ học vấn và nghề nghiệp ngày
càng cao trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
2
. Thực
hiện chủ trương đó, Đảng phải đặc biệt quan tâm lãnh đạo xây dựng giai cấp
công nhân.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập, tăng cường có hiệu quả sự lãnh
đạo xây dựng giai cấp công nhân của Đảng phải có những giải pháp đồng bộ,
trong đó cần có những nghiên cứu khoa học về vấn đề này, làm rõ nội dung,
phương thức, trách nhiệm trong việc lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân của
Đảng.
Thực tế đó cho thấy, việc nghiên cứu đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng
giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay” có tính cấp thiết cả về lý luận và
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề xây dựng và vận động giai cấp công nhân là một nhiệm vụ
quan trọng có ý nghĩa chiến lược của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng,
được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng từ khi thành lập đến nay, trong đó

có vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Những năm gần đây,
trước những vấn đề đặt ra đối với giai cấp công nhân do công cuộc đổi mới và
sự biến đổi của thế giới đem lại, nhiều cơ quan có trách nhiệm, nhà nghiên cứu
lý luận và thực tiễn quan tâm nghiên cứu vấn đề xây dựng giai cấp công nhân
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, H,
2006, tr.305.
3
và Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Sau đây xin lược qua những tài
liệu và công trình tiêu biểu:
* Báo, Tạp chí
1. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (Phát biểu tại Đại hội IX Công đoàn
Việt Nam), Xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn vững mạnh là
trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, Ngày 13/10/2003.
Trước yêu cầu của tình hình mới, để giai cấp công nhân xứng đáng là
giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Tổng Bí thư nêu một số vấn đề cơ hội lớn và cả
những thách thức lớn đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và đặc biệt là tổ chức
công đoàn có trách nhiệm tạo các điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần,
xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực khuyến khích công
nhân, lao động khắc phục khó khăn, tự giác rèn luyện tích cực tham gia các
chương trình đào tạo, đào tạo lại và tự đào tạo, từng bước trí thức hóa công
nhân và hình thành xã hội học tập. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Xây dựng giai
cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh là trách nhiệm không chỉ
của riêng tổ chức công đoàn mà còn là của Đảng và Nhà nước”.
2. Văn Tạo, Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam của Văn
kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Cộng sản tháng 5/2006.
Tác giả cho rằng từ đầu những năm 1980 đến nay, giai cấp công nhân
nước ta đã có những nét đổi mới như sau: 1)Về cơ bản, giai cấp công nhân

đã được trí thức hóa. Một bộ phận lớn giai cấp công nhân đã là trí thức; 2)
Trong tất cả các lĩnh vực lao động sản xuất, người công nhân không còn
thuần túy là người làm thuê (chỉ có quyền được bán sức lao động để sống),
mà đã có phần nào làm chủ, chí ít là làm chủ đất nước, góp phần làm chủ
Nhà nước (định ra Hiến pháp, pháp luật...), nhằm làm chủ trong cả sản xuất
lẫn phân phối sản phẩm lao động. 3) Đại bộ phận công nhân không còn hoàn
toàn là vô sản như hồi đầu thế kỷ XX, mà đã là hữu sản, trong đó một số
công nhân tri thức đã có sở hữu trí tuệ - một thứ sở hữu có thể tạo ra của cải
4
làm giàu cho xã hội và cho bản thân mình; một số công nhân đã có cổ phần
xí nghiệp, được hưởng lợi nhuận từ cổ phần góp vào theo đúng pháp luật nhà
nước của chính giai cấp mình quy định; 4) Giai cấp công nhân vẫn đóng vai
trò tiền phong, đang trên đà đưa “khoa học, kỹ thuật trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp”, đang đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nắm những vị trí then chốt về khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động
cao và một lượng sản phẩm xã hội cao nhất trong nền kinh tế quốc dân; 5)
Giai cấp công nhân Việt Nam đã có một vị thế quốc tế của một nước có nền
kinh tế sánh vai được với 5 châu, một trong những nước tăng tiến nhanh về
xuất khẩu, tăng trưởng nhanh về khoa học, công nghệ, kể cả về tin học; 6)
Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam đang lãnh đạo thành công công cuộc
đổi mới của dân tộc.
3. Nguyễn Hòa Bình (Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam), Xây dựng, phát triển toàn diện giai cấp công nhân Việt Nam theo tinh
thần Đại hội X của Đảng, website của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả cho
rằng “Xây dựng, phát triển toàn diện giai cấp công nhân luôn là mối quan
tâm thường trực của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta”.
Tác giả đánh giá sự đổi mới tư duy của Đảng ta về vai trò, vị trí giai
cấp công nhân từng bước được bổ sung, hoàn thiện trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, tạo nền tảng cho sự hoàn thiện đường lối, chủ trương xây
dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân. Khẳng định đó được minh chứng

bằng các quan điểm thể hiện qua các văn kiện của thời kỳ đổi mới. Nhờ
những chủ trương, chính sách đúng đắn đó, giai cấp công nhân không ngừng
lớn mạnh và ngày càng thể hiện vai trò đóng góp to lớn và quyết định sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
4. Thạc sỹ Dương Thị Thanh Xuân, Giải pháp nâng cao ý thức chính
trị cho công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạp chí
Xây dựng Đảng, số 10/2005. Theo tác giả, đội ngũ công nhân trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (CVĐTNN) hình thành và không
ngừng lớn mạnh. Bài nghiên cứu đề cập đến số lượng, chất lượng và vai trò
5
ngày càng quan trọng của đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp này. Họ
là một bộ phận không thể tách rời của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó,
cần quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân này về mọi mặt, đặc
biệt là giáo dục, nâng cao ý thức chính trị.
* Sách tham khảo
1. PGS, TS Phan Thanh Khôi (chủ biên), Ý thức chính trị của công
nhân trong một số doanh nghiệp ở Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2003. Trên cơ sở luận giải ý thức chính trị của giai cấp công nhân và
thực trạng ý thức chính trị của công nhân doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Hà Nội, tập thể tác giả đưa ra những dự
báo xu hướng biến động về ý thức chính trị của công nhân trong 2 loại doanh
nghiệp trên ở Hà Nội và đưa ra 6 giải pháp nhằm nâng cao ý thức chính trị
của công nhân, trong đó có đề cập đến nội dung đổi mới công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng cho công nhân của các cấp uỷ đảng, tổ chức công đoàn
trên địa bàn và doanh nghiệp, đồng thời nhấn mạnh cần tăng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giúp công nhân nhận thức rõ quyền lợi,
nghĩa vụ của mình, nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật lao động, ý thức chấp
hành pháp luật của nhà nước và những nội quy làm việc tại doanh nghiệp.
2. Cù Thị Hậu, Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là
giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước (Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), tham luận tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội).
Tác giả chỉ rõ những thách thức đối với giai cấp công nhân Việt Nam
trong tình hình hiện nay như việc làm, thời gian làm việc kéo dài và cường
độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn lao động gia
tăng. Tiếp đó, chỉ rõ những hạn chế, yếu kém của giai cấp công nhân hiện
nay (trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận công nhân
còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu
biết pháp luật còn rất hạn chế, có một bộ phận công nhân sống thiếu lý
6
tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến tha hóa về phẩm chất lối
sống, phai nhạt phẩm chất của GCCN, giảm lòng tin và sự gắn bó với Đảng
và Công đoàn). Tình trạng tranh chấp lao động và đình công của công nhân
xảy ra ngày càng nhiều phản ánh sự bức xúc về quyền lợi và thiếu am hiểu
pháp luật của công nhân lao động, sự hạn chế của tổ chức Công đoàn và sự
chưa quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với công nhân lao động.
Tác giả nêu kiến nghị về cần xây dựng chiến lược tổng thể, toàn diện
xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Đảng cần
đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội
trong GCCN. Đồng thời, tăng cường lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu của
Đảng, Nhà nước, của các đoàn thể chính trị - xã hội, tập hợp trí tuệ của các
nhà khoa học để nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tế về giai cấp công nhân.
3. Viện Công nhân và Công đoàn (2003), Nâng cao hiệu quả hoạt
động công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nxb Lao
động, Hà Nội (do TS Dương Văn Sao chủ biên). Các tác giả phân tích thực
trạng đội ngũ công nhân; thực trạng hoạt động của tổ chức công đoàn trong
các doanh nghiệp này và đưa ra hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động công đoàn. Tuy nhiên, do phạm vi, đối tượng nghiên cứu công
trình, các tác giả mới chỉ dừng ở việc nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ

chức công đoàn trong các doanh nghiệp này, chưa gắn nội dung nghiên cứu
với việc xây dựng giai cấp công nhân trong loại hình doanh nghiệp đặc biệt
này, chưa làm rõ sự cần thiết hình thành tổ chức đảng trong doanh nghiệp để
lãnh đạo công đoàn, các tổ chức chính trị khác trong doanh nghiệp đối với
việc xây dựng đội ngũ công nhân ở doanh nghiệp giỏi chuyên môn, nghiệp
vụ, có tinh thần yêu quê hương, đất nước, có tư tưởng, lập trường chính trị
vững vàng, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, góp phần thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Luận văn, luận án:
7
1. Võ Châu Thảo (2005), Công tác phát triển đảng viên trong công nhân
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong luận văn, tác giả chủ yếu tập trung khảo sát công tác phát triển
đảng viên trong công nhân các DNNQD ở các KCN trên địa bàn tỉnh Bình
Dương, Đồng Nai giai đoạn 1995 đến 2005 và đề xuất giải pháp cho nhiệm kỳ
tiếp theo.
2. Bùi Thị Kim Hậu (2004), Trí thức hoá công nhân trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (qua thực tế của một số doanh
nghiệp nhà nước), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa
học.
Luận văn xây dựng được khái niệm trí thức hoá công nhân và phân
tích thực trạng quá trình trí thức hoá giai cấp công nhân Việt Nam trong
những năm đổi mới, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện nhiệm
vụ trí thức hoá giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Trong đó đề cập đến việc phát huy nội lực của giai cấp
công nhân, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công nhân, hoàn
thiện và thực hiện tốt hệ thống chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân,
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức vào quá trình trí thức hoá công nhân.
Luận văn chưa đề cập đến vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong

doanh nghiệp cũng như chưa làm sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
quá trình trí thức hoá công nhân.
3. Phạm Thi Xuân Hương (2001), Vấn đề đình công của công nhân ở
nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học.
Luận án tập trung trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn về các khía cạnh
kinh tế - xã hội liên quan đến vấn đề đình công, phân tích thực trạng, nguyên
nhân và dự báo xu hướng đình công của công nhân nước ta trong những năm
tiếp theo và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phòng ngừa, giải quyết
đình công ở nước ta. Dưới góc độ triết học, luận án không giải quyết những
nội dung cụ thể liên quan đến việc lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với việc
8
nâng cao ý thức, trách nhiệm của giai cấp công nhân đối với sự phát triển ổn
định, bền vững của doanh nghiệp, của đất nước, nhất là những kiến nghị về
chính sách vĩ mô nhằm giải quyết triệt để tình trạng đình công của công
nhân.
Các công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân, xây dựng giai cấp
công nhân và lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân nêu trên đã đề cập nhiều
nội dung với các góc độ khác nhau, có những đóng góp quan trọng về vấn đề
xây dựng giai cấp công nhân. Tuy nhiên, các công trình đó cũng còn một số
hạn chế như:
+ Hầu hết các công trình nghiên cứu đề cập ở trên chưa trực tiếp đi sâu
về phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với giai cấp công nhân,
chưa chỉ rõ nội dung lãnh đạo gồm những vấn đề gì? trách nhiệm của các cấp
uỷ đảng trong việc tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, cán
bộ, đảng viên và chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai chủ
trương của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp công nhân. Trong đó, vai trò,
nhiệm vụ của tổ chức công đoàn, lãnh đạo các loại hình doanh nghiệp trong
việc góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, hiện đại chưa được
cụ thể hoá, thiếu sự tổng kết thực tiễn để chỉ đạo.
+ Còn quá ít các công trình nghiên cứu về bản chất giai cấp công nhân

Việt Nam trên cơ sở kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội của Việt Nam, vì vậy
mà chưa làm rõ được đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay để
từ đó có các biện pháp nâng cao chất lượng của giai cấp công nhân phù hợp
với yêu cầu của thời kỳ mới.
+ Các công trình nghiên cứu ít có sự khảo cứu thực chứng, việc nghiên
cứu phần lớn còn mang tính suy luận. Nhiều công trình còn in dấu của chủ
nghĩa kinh viện với những lập luận còn thiếu thuyết phục. Chính vì vậy mà
chưa làm rõ hết được nội dung, bản chất và sự biến đổi nhanh chóng của giai
cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay. Các biện pháp xây dựng giai cấp công
nhân mới chỉ dừng lại ở tầm vĩ mô chứ ít quan tâm đến các biện pháp mang
tính vi mô.
9
+ Các công trình nghiên cứu ít có sự tiếp cận với những quan niệm
hiện đại về bản chất, nội dung của giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân cũng như các biện pháp xây dựng giai cấp công nhân
hiện đại đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Còn thiếu những công trình so sánh, đối chiếu một cách có hệ
thống vấn đề giai cấp công nhân ở Việt Nam với các nước trên thế giới. Vì
sao giai cấp công nhân Việt Nam vẫn chưa rèn luyện được phong cách làm
việc khoa học, tác phong công nghiệp như ở các nước đang phát triển khác,
đấu tranh, đình công không đúng quy định của pháp luật? Do vậy, mà các
kinh nghiệm và bài học xây dựng giai cấp công nhân hiện đại ở các nước
chưa được khai thác triệt để.
+ Ở nước ta, việc xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước trong quá trình xây dựng giai cấp công nhân đã bỏ qua nghiên cứu
và phân tích về môi trường sinh hoạt, học tập và làm việc cụ thể của giai cấp
công nhân ở từng ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, chưa xây dựng được
những dự báo khoa học về sự thay đổi trong giai cấp công nhân Việt Nam,
làm cơ sở để hoạch định chủ trương, chính sách mới phù hợp với yêu cầu
của sự phát triển.

+ Chưa đưa ra những chính sách cụ thể để khuyến khích, thúc đẩy
người sử dụng lao động đóng góp kinh phí để không ngừng nâng cao phẩm
chất chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động trong
doanh nghiệp. Đồng thời, chậm sửa đổi, bổ sung chính sách về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước, về tiền lương, bảo hiểm… để giải quyết những kiến
nghị của một số công nhân dẫn đến đình công, bãi công bất hợp pháp ở một
số doanh nghiệp liên doanh gây khó khăn cho chủ doanh nghiệp hoặc không
bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp và chính đáng của công nhân ở những
doanh nghiệp được cổ phần hoá…
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu trên đây, chúng tôi hy vọng,
kết quả nghiên cứu của chúng tôi sẽ kế thừa những thành tựu của các công
trình nghiên cứu trước, cung cấp thêm một số hệ thống luận cứ để đánh giá
10
đúng thực trạng giai cấp công nhân, thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với
giai cấp công nhân ở nước ta, chỉ rõ những ưu, khuyết điểm về chủ trương,
chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp công nhân, dự
báo những biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu của giai cấp công nhân
trong những năm tiếp theo và đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân Việt Nam trong quá
trình hội nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu.
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây
dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, bao gồm: vai trò, đặc điểm
của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, sự cần thiết, nội dung, phương thức
lãnh đạo, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đối tượng lãnh đạo.
- Đánh giá đúng thực trạng Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công
nhân, rút ra nguyên nhân, kinh nghiệm (qua khảo sát trên một số địa bàn Hà
Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh).
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện

nay. Trên cơ sở lý luận và khảo sát thực tiễn, đưa ra được những dự báo cần
thiết về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam trong khoảng
10 năm tới, đề xuất phương hướng và hệ giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân, cùng những kiến nghị cụ thể
cho Đảng, Nhà nước, Công đoàn về xây dựng giai cấp công nhân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân (qua
khảo sát trên một số địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh) từ 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng ta về giai cấp công
nhân và xây dựng giai cấp công nhân; và dựa trên thực tiễn xây dựng giai
cấp công nhân trên một số địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh hiện nay.
11
- Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng Mác-xít; phương
pháp nghiên cứu: lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp và tổng kết kinh
nghiệm.
6. Đóng góp khoa học của đề tài
- Quan niệm về Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân Việt
Nam, nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công trong
giai đoạn hiện nay;
- Những thời cơ và thách thức đối với giai cấp công nhân Việt nam
trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chủ động, tích cực hội nhập nền kinh tế thế giới.
- Một số kinh nghiệm bước đầu rút ra từ thực trạng Đảng lãnh đạo xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm qua.
- Những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả lãnh đạo xây dựng
giai cấp công của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của tổng quan
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, tổng quan

gồm 3 chương, 6 tiết.
12
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VỀ ĐẢNG LÃNH
ĐẠO XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1.1. Khái quát về giai cấp công nhân Việt Nam
1.1.1. Vai trò, đặc điểm và xu hướng biến đổi, phát triển của giai cấp
công nhân Việt Nam
1.1.1.1. Vai trò của giai cấp công nhân
Tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là hơn 20 năm lãnh đạo
công cuộc đổi mới đất nước, nghiên cứu kết quả của các công trình khoa học
về giai cấp công nhân, tại Hội nghị Trung ương 6 khoá X, Đảng ta đã đưa ra
khái niệm khoa học về giai cấp công nhân. Đây là cơ sở khoa học để xác
định vị trí, vai trò, đánh giá thực trạng và đề ra giải pháp xây dựng giai cấp
công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết chỉ rõ: “Giai cấp
công nhân Việt Nam là một lực lượng to lớn, đang phát triển bao gồm những
người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình
sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và
dịch vụ có tính chất công nghiệp”
3
. Từ khái niệm khoa học đó, thấy rằng:
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đem lại
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử: Đời sống của nhân dân được
cải thiện; tình hình chính trị - xã hội ngày càng ổn định; quốc phòng, an ninh
được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày một được nâng cao.
Đây là kết quả tổng hợp của nhiều lực lượng, nhiều yếu tố dưới sự lãnh đạo
đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta, trong đó, có vai trò của giai cấp công
nhân.
Trong quá trình chủ động và tích cực hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương

mại thế giới (WTO), đã đem lại cho giai cấp công nhân thời cơ lớn và những
thử thách không nhỏ phải tận dụng và vượt qua. Đây thực sự là giai đoạn
cách mạng đầy cam go đối với Đảng, với dân tộc, với các tầng lớp nhân dân
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết Hội nghị trung ương 6 khoá X, Nxb CTQG, H, tr. 43.
13
ta, trong đó có giai cấp công nhân. Để có được những thành tựu nêu trên,
giai cấp công nhân nước ta đã phát huy bản chất cách mạng của mình, đi đầu
trong sự nghiệp đổi mới, góp phần tạo nên những thắng lợi, từng bước
trưởng thành và phát triển toàn diện.
Từ khái niệm khoa học nêu trên, có thể xem xét và khẳng định vai trò
của giai cấp công nhân nước ta trong giai đoạn hiện nay qua các mối quan hệ
chủ yếu sau đây:
Một là, đối với phát triển kinh tế
Giai cấp công nhân là lực lượng quan trọng hàng đầu trong phát triển
kinh tế, thúc đẩy xã hội phát triển, là lực lượng nòng cốt trong thực hiện chủ
trương đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nên
cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội đã có những biến đổi mới, làm cho giai cấp
công nhân dần dần trở thành “giai cấp công nhân hiện đại” khác hẳn với giai
cấp công nhân trong thế kỷ XIX về nhiều mặt. Tỉ lệ số người làm dịch vụ so
với số người sản xuất trực tiếp tăng lên; trình độ văn hóa chung và tay nghề
chuyên môn cao hơn; mức thu nhập khá hơn trước, làm cho nhiều người lao
động trở thành “trung lưu”. Một bộ phận trong giai cấp công nhân đã mua cổ
phần và được chia lợi nhuận với giai cấp tư sản. Tầng lớp quản lý ngày càng
có vai trò quan trọng và kiêm nhiều chức năng phụ của giới chủ. Ngày nay
trong điều kiện mới, khi lực lượng sản xuất đang trên đà phát triển mạnh,
giai cấp công nhân không chỉ bao gồm những người lao động chân tay mà
còn cả lao động trí óc thông qua các máy điện toán với những thành tựu của
tin học. Giai cấp công nhân có sự phát triển về chất lượng để đảm đương

nhiệm vụ trong điều kiện mới, hay nói cách khác “công nhân hóa trí thức”
và “trí thức hóa công nhân” là xu thế tất yếu của nền đại công nghiệp, của
quá trình tự động hóa, tin học hóa. Giai cấp công nhân đang lớn lên với đội
ngũ trí thức của mình và giai cấp công nhân luôn luôn là người trực tiếp sản
xuất, tham gia vào quá trình tạo ra những giá trị vật chất, những của cải to
lớn cho xã hội.
14
Về sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai
trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng giai cấp công
nhân chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư (khoảng 8 đến 10%) và
khoảng trên 13% lao động xã hội nhưng lại nắm giữ những cơ sở vật chất và
các phương tiện sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng
phát triển chủ yếu của nền kinh tế; giai cấp công nhân là lực lượng lao động
đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước. Hằng năm họ đóng góp
khoảng 50% tổng sản phẩm xã hội bảo đảm trên 60% ngân sách nhà nước.
Giai cấp công nhân đi đầu trong lao động sáng tạo xây dựng đất nước.
Chúng ta tự hào về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với những
thành tựu kinh tế, văn hóa, cơ sở hạ tầng mà rất nhiều năm trước đây do
nhiều nguyên nhân, chúng ta chưa làm được. Đó là những công trình đô thị
hóa với các khu dân cư, nhà cao tầng, các siêu thị, đường giao thông, hệ
thống điện nước, dịch vụ... tuy chúng còn những bất cập nhưng đã tạo nên
diện mạo mới khang trang. Hệ thống đường giao thông quốc gia, đường
xuyên Việt dọc dãy Trường Sơn hùng vĩ; đường điện 500KV xuyên quốc
gia; hệ thống cầu cảng sân bay hiện đại vượt sông, vượt biển, vượt đại
dương trước đây ít ai ngờ tới. Công nghiệp điện tử, tin học khai khoáng, hóa
chất, khai thác dầu khí v.v.. tuy non trẻ nhưng rất cường tráng, tất cả đều
đóng vai trò trụ cột của nền kinh tế quốc dân.
Giai cấp công nhân có mặt trong các ngành kinh tế: công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giao thông vận tải, trong đó công nhân công
xưởng, nhà máy sản xuất công nghiệp hiện đại, tiên tiến là bộ phận nòng cốt,

tiêu biểu. Cùng với quá trình phát triển của giai cấp công nhân, bộ phận trí
thức gắn trực tiếp với lao động công nghiệp, với quy trình sản xuất công
nghiệp tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Trong điều kiện hiện nay, cơ
cấu của giai cấp công nhân hiện đại rất đa dạng, có nhiều trình độ khác nhau
và không ngừng biến đổi theo hướng không thuần nhất: công nhân kỹ thuật
ngày càng tăng, công nhân ngày càng được nâng cao về trình độ, đóng vai
trò chính trong quá trình phát triển, công nhân truyền thống giảm dần.
15
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người làm ra của cải vật chất
trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện
đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu cho sự giàu có và sự
phát triển của xã hội. Giai cấp công nhân vừa là người lãnh đạo, đồng thời cùng
với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp lao động khác, hợp thành
lực lượng tổng hợp của quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó.
Giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang là lực lượng xã hội đi đầu
trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trong
điều kiện hiện nay phải xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam tiên tiến,
hiện đại, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, mở cửa, hội nhập với bên ngoài
nhằm phát huy tốt nhất bản chất và những đặc điểm của giai cấp công nhân.
Hai là, đối với xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
Giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt trong liên minh công – nông
– trí, là lực lượng kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Lòng tin của giai cấp
công nhân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới ngày càng được
củng cố vững chắc. Tham gia vào đủ các thành phần kinh tế rất phong phú,
đa dạng và phức tạp, giai cấp công nhân luôn giữ vững bản chất cách mạng,
bản lĩnh chính trị, lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh để phấn đấu; lấy việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế làm phương châm và nguyên

tắc hoạt động.
Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng chính trị - xã hội quan
trọng bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Giai
cấp công nhân có vai trò quan trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
nhất là trong nền công nghiệp quốc phòng, yếu tố quan trọng tạo nên sức
mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân. Là lực lượng lao động tiến bộ đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tổ chức kỷ luật chặt chẽ, giai cấp
công nhân Việt Nam rất nhạy cảm chính trị không hoang mang dao động,
16
luôn cảnh giác với âm mưu thủ đoạn của kẻ địch, làm thất bại âm mưu
"diễn biến hòa bình" giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Giai cấp công nhân nhận thức và có thái độ đúng đắn đối với con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt nam lãnh
đạo- con đường đó đã được lịch sử của Việt Nam công nhận và được đông
đảo các giai cấp, tầng lớp nhân dân ủng hộ - không hoài nghi, dao động
trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và những mặt trái của
cơ chế thị trường. Tham gia tích cực vào đấu tranh chống tham nhũng, lãng
phí và những tệ nạn trong xã hội. Do đó, có thể nói, giai cấp công nhân là
lực lượng quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Điều đó thể hiện thông qua một số hoạt
động thiết thực như: 1) Giai cấp công nhân với bản chất cách mạng và khoa
học của mình, cung cấp nguồn kết nạp đảng viên xuất thân từ công nhân cho
Đảng góp phần giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng – đây là vấn đề đặc biệt quan trọng trong điều kiện hiện nay; 2) Giai
cấp công nhân với bản chất, cách mạng của mình, là người hiện thực hoá
sinh động nhất các chủ trương, đường lối của Đảng, là nhân tố dặc biệt quan
trọng rèn luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chiến lược cho Đảng, kiểm
nghiệm và góp ý để Đảng xây dựng và hoàn thiện đường lối chủ trương của
Đảng phù hợp với yêu cầu mới của cách mạng trong từng thời kỳ; 3) Với số

lượng ngày càng đông đảo, chất lượng ngày tăng, giai cấp công nhân thực sự
là nền tảng chính trị - xã hội quan trọng để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nói cách khác, việc xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là góp
phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, qua đó
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Ba là, trong mối quan hệ với nông dân và trí thức
Gai cấp công nhân là một lực lượng nòng cốt xây dựng và củng cố
vững chắc khối liên công - nông - trí – cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết
17
toàn dân. Nghị quyết Trung ương sáu, khoá X của Đảng khẳng định “Giai
cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Trong điều kiện tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến
đổi phức tạp như, việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân có ý
nghĩa chính trị rất to lớn đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta. Trong khối
đại đoàn kết đó, liên minh công – nông – trí có vai trò là nòng cốt, với sự lớn
mạnh và trưởng thành nhanh chóng của giai cấp công nhân. Giai cấp công
nhân Việt Nam có mối quan hệ tự nhiên, máu thịt với giai cấp nông dân, với
đội ngũ trí thức và nhân dân lao động. Họ là lực lượng nòng cốt xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là những cơ sở rất quan trọng xây dựng
khối liên minh công nông, trí thức bền vững ở nước ta. Đó cũng là cơ sở
vững chắc bảo đảm giữ vững vị trí lãnh đạo của Đảng cầm quyền trong điều
kiện hiện nay.
Từ nhận thức đúng đắn về chính bản thân mình - lực lượng đóng vai

trò chủ chốt trong liên minh công nhân, nông dân, trí thức; lực lượng đi đầu
trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng,dân chủ văn minh, giai cấp công nhân tích cực tham
gia trực tiếp và là những người đi đầu trong các phong trào cách mạng của
nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Giai cấp
công nhân đã thể hiện rõ bản lĩnh chính trị của giai cấp lãnh đạo trong thời
kỳ mới, đã và đang thực sự là nòng cốt của khối liên minh đó.
Bốn là, đối với việc xây dựng tổ chức công đoàn trong sạch, vững
mạnh.
18
Mối quan hệ giữa công nhân và tổ chức công đoàn có mối quan hệ
biện chứng với nhau. Tổ chức công đoàn các cấp, nhất là cấp cơ sở có vai
trò quan trọng đối với sự phát triển của giai cấp công nhân, mục đích chính
của tổ chức công đoàn các cấp trong giai đoạn hiện nay là vận động, tập hợp,
phát huy vai trò của giai cấp công nhân, viên chức lao động hăng hái tham
gia lao động sản xuất, đáp ứng những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá đang diễn ra mạnh mẽ ở nước ta. Công đoàn các cấp phải xây
dựng, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động xứng đáng là “mái
ấm”, là chỗ dựa tin cậy của các đoàn viên.
Đồng thời, giai cấp công nhân phát triển về số lượng và chất lượng là
nền tảng vững chắc để xây dựng tổ chức công đoàn trong sạch, vững mạnh,
để công đoàn thực sự là trường học xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân.
Chỉ khi nào giai cấp công nhân nhận thức và phát huy được vai trò, vị trí của
mình trong thời kỳ mới thì tổ chức công đoàn có nhiều điều kiện để củng cố,
xây dựng, phát triển.
Qua những vụ đình công, bãi công, lãn công trong những năm gần
đây cho thấy, cần tăng cường vai trò của Công đoàn, giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa trình độ giác ngộ giai cấp, ý thức chính trị của giai cấp
công nhân với hiệu quả hoạt động của công đoàn cơ sở. Nơi nào, công đoàn
chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của giai cấp công nhân, trở

thành chỗ dựa tin cậy của công nhân, được công nhân tin cậy, gửi gắm, ủng
hộ mọi phong trào phát động của công đoàn, giữ vững tình hình trật tự và
mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ sử dụng lao động và công nhân, thì các mục
tiêu hoạt động của công đoàn hầu hết đều đạt được. Ngược lại, ở những
doanh nghiệp, cán bộ công đoàn không có bản lĩnh, không thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ của mình, chỉ là “cái bóng” của chủ doanh nghiệp thì
tổ chức công đoàn thiếu sức sống, không nhận được sự ủng hộ tham gia của
đoàn viên; khi có xung đột về lợi ích giữa chủ doanh nghiệp và công nhân,
tổ chức công đoàn không có vai trò gì để giải quyết xung đột đó. Khi đó,
19
dưới con mắt của người lao động, tổ chức công đoàn không có vai trò gì và
trở nên xa lạ đối với họ.
1.1.1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất (1897) và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt nam từ thời
kỳ khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần thứ hai (1924-1929). Cùng với
quá trình phát triển của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhất là qua
hơn 20 năm đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ phận
của đội ngũ giai cấp công nhân quốc tế. Ngoài những đặc điểm chung của
giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có đặc điểm
riêng:
Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp có truyền thống yêu
nước và ý thức tự tôn dân tộc.
Sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc vốn có truyền thống yêu nước và
tư tôn dân tộc, giai cấp công nhân sớm tiếp thu và được thừa hưởng truyền
thống qui báu đó. Mặc dù mới ra đời, còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp
công nhân đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa
nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam ngay sau khi các

phong trào cứu nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu
tư sản thất bại.
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước,
cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, truyền thống tốt đẹp
ấy, đã hội tụ và kết tinh thành bản chất cách mạng của giai cấp công nhân.
Yêu nước, tự tôn dân tộc trong thời đại mới là yêu chủ nghĩa xã hội, giai cấp
công nhân là người đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh
Thứ hai, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất
cách mạng triệt để.
20
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên, đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác - lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân quốc tế, nhanh chóng
trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí
Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam luôn
có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để.
Thông qua Đảng tiền phong của mình- Đảng Cộng sản Việt Nam, giai
cấp công nhân lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện cuộc kháng chiến thần thánh
hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà và đưa cả
nước lên chủ nghĩa xã hội. Bước vào thời kỳ mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn, khó lường, một lần
nữa, tinh thần và bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân Việt
Nam lại được thể hiện và phát huy với tư cách là người đi đầu và lãnh đạo
sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, giai cấp công nhân Việt Nam là thành viên và là lực lượng
lãnh đạo khối liên minh công- nông - trí thức thông qua Đảng tiền phong của
mình
Xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân phong kiến bóc lột, bần
cùng hóa, giai cấp công nhân có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân

và các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, thông qua
Đảng tiền phong của mình, giai cấp công nhân thực hiện sự lãnh đạo của
mình đối với cách mạng và sự nghiệp đổi mới, đồng thời là hạt nhân của
khối liên minh giai cấp: công- nông- trí và khối đại đoàn kết dân tộc Việt
Nam.
Thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu và lãnh đạo
sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn
liền với phát triển kinh tế tri thức
Không chỉ là động lực chủ yếu trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân, giai cấp công nhân thấm nhuần chủ nghĩa Mác- lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, giác ngộ về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chắc
21
chắn bản chất cách mạng triệt để sẽ được phát huy mạnh mẽ trở thành lực
lượng đi đầu và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Điều này đã
được thực tiễn hơn 20 năm đổi mới chứng minh, được Đảng ta khẳng định.
Thứ năm, cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, đội ngũ công nhân trí thức Việt Nam
từng bước hình thành, phát triển
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, hội nhập và phát triển kinh
tế tri thức đã khách quan hoá quá trình “trí thức hoá” giai cấp công nhân.
Với quá trình này, trong kết cấu giai cấp công nhân đã hình thành bộ phận
“công nhân trí thức”. Quá trình trí thức hoá công nhân diễn ra mạnh mẽ tất
yếu thúc đẩy bộ phận “công nhân trí thức” lớn lên nhanh chóng. Và, một kết
quả tất yếu là đội ngũ công nhân trí thức Việt Nam sẽ từng bước hình thành
và phát triển.Việc hình thành đội ngũ công nhân trí thức không có nghĩa chỉ
là sự bổ sung vào lực lượng giai cấp công nhân những công nhân có trình độ
cao mà còn làm cho giai cấp công nhân được nâng cao về trình độ và có sự
thay đổi về tính chất lao động - lao động điều khiển những công nghệ tự

động hoá của nền kinh tế tri thức.
1.1.1.3. Xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân cấp
Quá trình đổi mới, xây dựng đất nước, giai cấp công nhân không chỉ
phát huy vai trò của mình, đóng góp vào sự nghiệp đổi mới mà còn là sản
phẩm của quá trình đổi mới; dưới tác động của quá trình đổi mới giai cấp
công nhân đã và đang có nhiều biến đổi và phát triển không ngừng như sự
tăng nhanh về số lượng; đa dạng, phong phú về cơ cấu; trình độ chuyên môn
của công nhân ngày càng được cải thiện; chuyển nghề nhiều lần và sớm ra
khỏi dây chuyền sản xuất và xu hướng phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ
giữa những bộ phận công nhân phổ thông với công nhân bậc cao; giữa công
nhân của từng ngành nghề khác nhau:
22
Tại Đại hội X Đảng ta đã tổng kết 20 năm đổi mới và đề ra mục tiêu
phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006-2010, định hướng cho những
năm tiếp theo và các chủ trương, giải pháp lớn để thực hiện. Trong đó, Đảng
đã định hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta đáp ứng yêu cầu thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: "Đối với
giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao
giác ngộ về bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Thực hiện chương trình công tác toàn khoá, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã ra Nghị quyết Trung ương sáu về tiếp tục xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Nghị quyết chỉ rõ: "Qua hơn 20 năm đổi mới... giai cấp công nhân
nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa
dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo
bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh
đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai
cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế

quốc tế...".
Sự đánh giá khách quan, đúng đắn, khoa học của Đảng về giai cấp
công nhân nước ta, đã bao hàm cả sự xem xét dự báo về sự biến đổi của giai
cấp công nhân trong những năm tới. Những điều dự báo đó có cơ sở khoa
học vững chắc.
Đảng ta kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định con đường xã hội chủ nghĩa - lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, kiên định
và áp dụng phương pháp luận mác xít và phương pháp luận Hồ Chí Minh khi
xem xét đánh giá giai cấp công nhân, cho phép Đảng xác định được xu
hướng biến động của giai cấp công nhân nước ta. Đồng thời, Đảng bám chắc
vào thực tiễn công cuộc đổi mới và những dự báo đúng đắn về sự biến đổi
23
của tình hình thế giới và của công cuộc đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trên đất nước ta trong nhiều năm tới. Đảng cũng đã tham khảo
các tri thức liên quan đến vấn đề này. Bởi vậy, những dự báo lớn của Đảng
về giai cấp công nhân nước ta nêu trên là có cơ sở khoa học. Đó là cơ sở rất
quan trọng để đề tài dự báo một cách cụ thể hơn xu hướng biến đổi giai cấp
công nhân nước ta trong những năm tới.
Trong những năm tới, giai cấp công nhân nước ta sẽ biến đổi theo các
xu hướng chính sau đây:
Một là, số lượng công nhân tăng nhanh trong các thành phần kinh tế,
và nhất ở thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài.
Thực tế cho thấy, từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, phát triển, giai cấp
công nhân đã phát triển, tăng nhanh về số lượng cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của đại công nghiệp. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen luận
chứng một cách khoa học trong tác phẩm nổi tiếng của mình - "Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản" - và trong nhiều tác phẩm khác.
Trong những năm tới nền kinh tế thị trường ở nước ta sẽ ngày càng
được xây dựng và dần dần hoàn thiện hơn, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá sẽ phát triển mạnh mẽ , đạt được những thành tựu lớn hơn với các
ngành nghề đa dạng, phong phú. Hơn nữa, Đảng ta lại luôn nhất quán quan
điểm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
sự bình đẳng của các thành phần kinh tế trước pháp luật nên các thành phần
kinh tế có điều kiện thuận lợi để phát triển.
Qua hơn 20 năm đổi mới, nhất là từ năm 1996, đất nước ta chính thức
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đến nay, Đảng đã
tích luỹ được khá nhiều kinh nghiệm có giá trị về lãnh đạo, xử lý các vấn đề
nảy sinh của nền kinh tế thị trường nước ta. Những kinh nghiệm ấy sẽ được
Đảng phát huy trong những năm tới.
Trong những năm qua chúng ta đã tạo dựng được những cơ sở rất
quan trọng để thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Những cơ sở ấy, sẽ phát huy tác dụng trong những năm tới. Đất nước ta lại
24
chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), đây là điều
kiện rất thuận lợi để chúng ta tiếp thu vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản
lý của các nước phát triển vì sự phát triển của đất nước.
Với một Đảng kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, Đảng lại luôn tích cực đổi mới, tự chỉnh đốn... nên
chắc chắn Đảng ta sẽ xử lý tốt những tác động tiêu cực của việc mở cửa, hội
nhập kinh tế quốc tế, sẽ tận dụng được thời cơ, vượt qua nguy cơ, thách thức.
Và như vậy, chắc chắn sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước sẽ
phát triển mạnh mẽ, đạt thành tựu to lớn hơn.
Các thành phần kinh tế có điều kiện để phát triển mạnh và kéo theo,
lực lượng công nhân trong các thành phần kinh tế cũng sẽ phát triển toàn
diện hơn, trong đó có sự tăng nhanh về số lượng.
Trong những năm tới, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà
nước sẽ tiếp tục giảm mạnh (hiện nay đang giảm khá mạnh), do các doanh
nghiệp này tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chủ trương của Đảng về sắp xếp, đổi

mới theo hướng cổ phần hoá, và bán, khoán, cho thuê những doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ. Cạnh đó, là xu hướng một số không nhỏ cán bộ quản lý, cán
bộ khoa học kỹ thuật có chuyên môn giỏi và nhiều công nhân có tay nghề
cao chuyển sang làm việc trong các thành phần kinh tế khác và nhiều nhất là
sang các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vì ở đó có thu nhập cao,
thường phát huy tốt hơn năng lực, tay nghề của họ. Khi thực hiện chủ
trương sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu
quả sẽ không tồn tại, và đương nhiên là, những người tuổi khá cao, năng lực,
tay nghề không đáp ứng yêu cầu mới sẽ phải rời khỏi doanh nghiệp nhà
nước.
Cùng với quá trình giảm nhanh số lượng công nhân trong các doanh
nghiệp nhà nước là sự tăng nhanh số lượng công nhân trong các thành phần
kinh tế khác, nhất là thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
25

×