Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

2 tài liệu thuyết minh tuyến điểm đà lạt tp hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.33 KB, 7 trang )

 Thuyết Minh Trên Tour
NỘI DUNG CÁC ĐIỂM THAM QUAN TOUR TP. HCM –TP.ĐÀ LẠT
VÀI NÉT VỀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
Thành phố Hồ Chí Minh(viết tắt TP.HCM) là thành phố lớn nhất đồng thời cũng là trung
tâm kinh tế, du lịch, văn hóa, giáo dục lớn nhất của Việt Nam, với dân số 8.5 triệu người. Thành
phố Hồ Chí Minh được thành lập năm 1976 trên cơ sở thủ đơ Sài Gịn cũ của Việt Nam Cộng
hịa gồm ba khu là Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định.
Phân chia hành chính
Năm 1976, sau khi đổi tên Sài Gịn thành Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố được chia thành
13 quận và 5 huyện gồm: Quận 1, Quận 3, Quận 4, Quận 5, Quận 6, Quận 8, Quận 10, Quận
11, Quận 12, Quận Tân Bình, Quận Gị Vấp, Quận Bình Thạnh, Quận Phú Nhuận, Quận Thủ
Đức, Huyện Bình Chánh, Huyện Nhà Bè, Huyện Củ Chi, Huyện Hóc Mơn và Huyện Cần Giờ.
Hiện nay Thành phố Hồ Chí Minh là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt
Nam, được mở rộng và chia thành 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành; cấp quận được chia
thành nhiều phường, cấp huyện chia thành nhiều xã, và thị trấn.
·Lịch sử hình thành Sài Gịn
Năm 1698 Nguyễn Phước Chu - tức chúa Minh – sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính(thườn đọc
Cảnh) vào Nam kinh lý và lập phủ Gia Định nhưng trước đó, có lẽ hàng thế kỷ, nhiều sử liệu cho
thấy người Việt Nam đã tới buôn bán và khẩn hoang lập đất rải rác trong đồng bằng sông Mê
Công ở châu thổ miền Nam và sông Miên Nam bên Xiêm rồi.
Biên niên sử Khơ Me chép: Năm 1618, vua Chey Chettha II lên ngôi. Ngài liền cho xây cung
điện nguy nga tại U Đông, rồi cử hành lễ cứơi trọng thể với một công chúa Việt Nam rất xinh
đẹp con chúa Nguyễn (người ta phỏng đốn đó là cơng nữ Ngọc Vạn con chúa Sãi, Nguyễn
Phước Ngun). Hồng hậu Sam Đát Việt Nam cho đem nhiều người đồng hương tới
Campuchia, có người được làm quan lớn trong triều, có người làm các nghề thủ cơng và có
người bn bán hay vận chuyển hàng hoá.
Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế
tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Ka Krobei (Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng
cũng là địa điểm qua lại và nghĩ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia và Xiêm La.
Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành thị tứ trên bến dưới quyền, công nghiệp và thương
nghiệp sầm uất.


Giáo sĩ Ý tên Christoforo Boni sống tại thị trấn Nước Mặn gần Qui Nhơn từ năm 1681 đến năm
1622, viết hồi ký “Chúa Nguyễn phải chuyên lo việc tập trận và gởi quân sang giúp vua
Campuchia – cũng là chàng rễ lấy con gái hoang (fille batarde) của chúa! Chúa viện trợ cho vua


cả tàu thuyền lẩn binh lính để chống lại vua Xiêm”. Borri cũng tả khá tỉ mỉ về sứ bộ của chúa
Nguyễn đi Campuchia hồi 1620: “Sứ thần là người sinh trưởng tại Nước Mặn, một nhân vật quan
trọng đứng sau chức tổng trấn. Trước khi lên đường ông đã đề nhiều ngày giờ bàn bạc và nhận
lệnh của chúa. Sứ bộ gồm khá đơng người, cả quan lẩn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trên
những chiếc thuyền lớn có trang bị vũ khí và bài trí lộng lẫy. Khi sứ bộ tới kinh U Đơng thì dân
chúng Khơ Me, thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản và Trung Hoa đã tụ hội đơng đảo để đón
tiếp và hoan nghênh. Vì sứ thần này là người quan thuộc, đã lui tới nhiều lần, từng làm đại diện
hường trú từ lâu chứ không phải sứ giả mới tới lần đầu. Borri cịn cho biết tồ sứ bộ khá quan
trọng và đông đúc, nào là thê thiếp, người hầu kẻ hạ của sứ thần, nào binh sĩ giữ an ninh và phục
dịch sứ bộ.
Một giáo sĩ khác người Pháp tên là Chevreuil tới thăm Colompé (tức Pnom Penh, Nam Vang) hồi
1665 đã thấy “hai làng An Nam nằm bên kia sông, cộng số người được độ 500 mà kẻ theo đạo
Công giáo chỉ có 4 hay 5 chục người”. Ngồi Nam Vang, tại các nơi khác cũng có nhiều người
Việt Nam sinh sống, ở thơn q thì làm ruộng, gần phố thì bn bán, làm thủ cơng hay chun
chở ghe thuyền, kể hàng mấy ngàn người. Như ở Đất Đỏ, Bà Rịa, Bến cá, Cù lao Phố, Mỹ Tho,
Hà Tiên, v.v…
Ngoài đồng bằng sơng Mê Kơng, người Việt Nam cịn đến làm ănvà định cư rải rác trong đồng
bằng sông Mê Nam. Lịch sử cho biết: dân tộc Thái mới lập quốc từ thế kỷ VII sau công nguyên ở
giữa bán đảo Đông Dương và chủ yếu trên lưu vực sông Mê Nam. Nước này gọi là Xiêm hay
Xiêm La(Siam), đến năm 1939 mới đổi tên là Thái Lan. Kinh đô Xiêm xưa ở Ayuthia, vây dựng
từ năm 150 trên một khúc quanh của sông Mê Nam cách biển gần 100 km. Theo bản đồ Loubère
vẽ năm 1687, thì kinh đơ Ayuthia nằm trong một hòn đảo lớn, giữa hai nhánh sông Mê Nam.
Đường xá, cầu cống, phố chợ, lâu đài…được ghi khá rõ ràng. Lại có thêm chú thích minh bạch
như: A=Thành phố, B=cung điện, C=bến cảng, D=xưởng thuỷ hải quân, E=xưởng thuỷ ghe
thuyền, F=phố thị, G=chủng viện…Chung quanh hòn đảo chính có những khu vực dành riêng

cho dân Xiêm hay người nước ngồi cư trú: người Xiêm ở phía Bắc và Tây Bắc, người Hoa ở
phía Đơng, người Việt Nam, Mã Lai, Nhật Bản, Hoà Lan, Bồ Đào Nha ở phía Nam. Nơi người
Việt ở cũng là một cù lao khá rộng, qua sông là tới phố thị kinh đơ, việc đi lại giao dịch rất thuận
lợi. Nhìn cách bố trí thơn trại chung quanh Ayuthia, ta có thể phỏng đoán ngừơi Việt ở đây khá
rộng và là một trong những mấy nhóm ngoại quốc tới lập nghiệp sớm nhất. Trên bản đồ có ghi
rõ chữ Cochinchine nơi thơn trại Việt. Đương thời, địa danh này chỉ người Đàng Trong và cũng
có thể chỉ chung người Việt Nam,vì trước đó – trong thời gian chưa phân ranh Trịnh Nguyễn,
Tây phương dùng địa danh ấy, biến dạng bởi Giao Chỉ - Cauchi - Cauchinchina – Cauchinchine
để gọi chung Việt Nam. Đa số nguời Việt ở đây là Đàng Trong, song cũng có người Đàng Ngồi,
họ tới định cư và lập nghiệp có lẽ từ thế kỷ XVI hay đầu thế kỷ XVII tồi, nghĩa là từ thời nhà
Mạc khi trong nước rất là xáo trộn là loại ly. Theo lý sự của Vachet thì cả nam nữ lẫn già trẻ.
Ngồi Ayuthia, người Việt còn tới làm ăn định cư tại Chân Bôn(Chantaburi) và Bangkok là
những thương điểm trung chuyển từ Hà Tiên tới kinh đô Xiêm.
Sử Viêt Nam và sử Khơ Me cùng nhất trí ghi sự kiện: Năm 1674, Nặc Ong Đài đánh đuổi vua
Nặc Ong Nộn. Nộn chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa liền sai thống suất Nguyễn Dương
Lâm đem binh lính đi tiến thảo, thâu phục ln 3 luỹ Sài Gịn, Gị Bích và Nam Vang(trong sử
ta, địa danh Sài Gòn xuất hiện từ 1674 vậy). Đài thua chạy rồi tử trận.Chúa Nguyễn phong cho
Nặc Ong Thu làm Cao Miên quốc vương đóng đơ ở U Đơng, cho Nặc Ong Nộn làm phó vương.


Sữ ta còn ghi rõ: năm 1679, chúa Nguyễn Phước Tần Vương cho “nhóm người Hoa” muốn
“phục minh chống Thanh” là Dương Ngạn Địch tới Mỹ Tho, Trần Thượng Xuyên tới Biên Hồ
và Sài Gịn để lánh nạn và làm ăn sinh sống. Những nơi đó đã có người Việt tới sinh cơ lập
nghiệp từ lâu. Như Trịnh Hoài Đức đã chép; các chúa Nguyễn “chưa rảnh mưu tính việc ở xa nên
tạm để đất ấy cho cư dân bản địa ở, nối đời làm phiên thuộc ở miền Nam, cống hiến luôn luôn”.
Nhưng năm 1658, “Nặc Ong Chân phạm biên cảnh”, Hiền Vương liền sai ”phó tướng Tơn Thất
n đem ngàn binh 2 tuần đến thành Mơ Xồi (Bà Rịa), đành phá kinh thành và bắt được vua
nước ấy”. Sau được tha tội và đuợc phong làm Cao Miên quốc vương” giữ đạo biên thần, lo bề
cống hiến, không xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương. Khi ấy địa càu Gia Định là Mơ Xồi và
Đồng Nai đã có lưu dân của nước ta đến ở chung lộn với người Cao Miên khai khẩn ruộng đất”.

Như vậy là từ trước 1658, Mơ Xồi và Đồng Nai đã thuộc “biên cảnh”của Viẹt Nam.
Bốn mươi năm sau (tức 1698), chúa Nguyễn mới sai Nguyễn Hữu Kính vào “kinh lý” miền
Nam. Đó là cuộc kinh lý miền biên cảnh – khi ấy “đất đai đã mỡ rộng khắp miền đông Nam Bộ
nay. Trên cơ sở lưu dân Việt Nam tự phát tới “khẩn hoang lập đất”, Nguyễn Hữu Kính đã lập phủ
Gia Định và 2 huyện Phước Long và Tân Bình (một phần nay là TPHCM). Đúng là dân làng đi
trước, nhà nước đến sau. Và miền biên cảnh Nam Bộ sáp nhập vào cương vực Việt Nam một
cách thật êm thắm và hồ hợp dân tộc vậy.
Củi và Bơng gịn
Có thuyết nói rằng "Sài Gịn" bắt nguồn từ chữ "Sài" theo chữ Hán là củi và "Gịn" là chữ
Nơm chỉ cây bơng gịn.
"Sài là mượn tiếng viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ, Gịn là tiếng Nam chỉ bơng gịn. Người
ta nói rằng tên đó phát sinh bởi sự kiện nhiều cây bơng gịn do người Cao Miên đã trồng chung
quanh đồn đất xưa của họ, mà dấu vết nay vẫn còn ở chùa Cây Mai và các vùng lân cận.... Theo
ý tơi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố.
Tơi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó."
Tương tự có nhiều thuyết cho rằng "Sài Gòn" từ chữ "Prey Kor" (Rừng Gịn) hay "Kai Gon"
(Cây Gịn) mà ra. Nói chung, các thuyết này đều dựa trên một đặc điểm chính: cây bơng gịn.
Nhưng thuyết này phần lớn đã bị bác bỏ vì lý do đơn giản là khơng ai tìm được dấu tích của một
thứ "rừng gịn" ở vùng Sài Gịn, hay sự đắc dụng của củi gòn ở miền Nam, kể cả Trương Vĩnh
Ký. Ngay vào thời của Trương Vĩnh Ký (1885) tức khoảng hơn 100 năm sau mà đã khơng cịn
dấu tích rõ ràng của thứ rừng này, mặc dù lúc đó khơng có phát triển gì lắm. Ngay cả khi Louis
Malleret khảo nghiệm lại, hình như cũng khơng có dấu vết gì của một rừng gịn ở Sài Gịn.
Thêm nữa là cây gịn thời đó dùng làm hàng rào chứ không làm củi. Và theo Lê Trung Hoa
trong Địa Danh thì "sài" chỉ xuất hiện trong các từ ghép Hán-Việt, như "sài Tân" chứ chưa bao
giờ được dùng như một từ đơn, nên khơng thể nói "củi" được, là "sài" được, hay là "củi gòn" là
"Sài Gòn" được.
Vậy, thuyết Sài Gòn là "củi gòn" đã bị bác bỏ bởi thực tế địa lý và ngữ học


·Kinh tế

Góc đường Nguyễn Huệ - Lê Lợi được xem là trung tâm của thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu kinh tế của cả nước, là địa phương đứng đầu về tổng lượng
vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và gián tiếp nước ngoài và trong nước. Trong năm 2007, Thành phố
Hồ Chí Minh dự kiến thu hút một lượng vốn FDI 2,5 tỷ USD. Trong 10 tháng đầu năm 2007,
Thành phố Hồ Chí Minh đã cấp chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 14.100 doanh nghiệp trong
nước với vốn đăng ký 106.600,7 tỷ đồng (xấp xỉ 6,7 tỷ USD). Đến thời điểm đầu tháng 11 năm
2007, Thành phố Hồ Chí Minh có 90.000 doanh nghiệp vốn đầu tư trong nước với tổng số vốn
đăng ký trên 384.000 tỷ đồng (xấp xỉ 24 tỷ USD). Đến đầu tháng 11 năm 2007, tổng số vốn nước
ngoài đã được cấp phép tại thành phố này là 16,6 tỷ USD, chiếm 20% tổng lượng vốn FDI cả
nước.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 18,3 tỷ, chiếm hơn 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước. Số lượng du khách quốc tế đến thành phố này năm 2007 là 3 triệu lượt người, chiếm 70%
tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2007. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2007
đạt gần 84.500 tỷ đồng, tăng 24,2% so với năm 2007. Năm 2007, tại địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh đã có hơn 18.500 doanh nghiệp mới thành lập với tổng vốn đăng ký là 160.000 tỷ đồng.
Đầu tư vào Thành phố Hồ Chí Minh đang có sự chuyển hướng từ các dự án sử dụng nhiều lao
động sang các dự án có kỹ thuật cơng nghệ cao, các dự án bất động sản. Năm 2007, tổng thu
ngân sách của Thành phố Hồ Chí Minh đạt 92.000 tỷ đồng, tăng 30,37% so với năm 2006, giá trị
tăng tuyệt đối 20.600 tỷ đồng so năm 2006. Lượng hàng hóa vận chuyển qua hệ thống các các tại
Thành phố Hồ Chí Minh 50,5 triệu tấn. Các ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu: điện, điện
tử (bao gồm điện tử kỹ thuật cao), cơ khí, hố chất, phần mềm, dệt may, giày da, luyện kim, dầu
khí, sản xuất ơ tơ, đóng tàu, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất giấy, chế biến nông, lâm sản và
nhiều ngành công nghiệp khác. Tuy nhiên, cho đến thời điểm 2007, công nghệ sản xuất nhìn
chung của Thành phố Hồ Chí Minh hiện rất lạc hậu, Thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ có 10% cơ
sở cơng nghiệp có trình độ cơng nghệ hiện đại, trong số đó, có 21/212 cơ sở sản xuất của ngành
dệt may; 4/40 cơ sở sản xuất của ngành da giày; 6/68 cơ sở ngành hóa chất; 14/144 cơ sở chế
biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... có trình độ cơng nghệ, kỹ
thuật sản xuất tiên tiến. Trong thời gian từ năm 1997-2007, ngành cơng nghiệp của Thành phố
Hồ Chí Minh có tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt mức bình quân trên 13%. Đến thời điểm 2007,
Thành phố Hồ Chí Minh đã có trên 38.000 cơ sở sản xuất cơng nghiệp, tăng 35,9% so với năm

2000. Từ năm 1995 đến nay, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng nhiều biện pháp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành cơng nghiệp có
có hàm luợng tri thức, hàm luợng khoa học công nghệ cao và có hiệu quả kinh tế. Ngành hóa
chất tăng từ 12,9% lên 18,7%, điện tử-tin học từ 2,9% lên 3,2%... Đồng thời, tỷ trọng của các
ngành công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động trong tổng sản lượng công nghiệp của thành phố
được giảm xuống như ngành dệt may từ 14,3% xuống còn 13,1%, chế biến thực phẩm-đồ uống
giảm từ 28,9% xuống còn 17%... Tuy nhiên, giá trị gia tăng của các cơ sở sản xuất công nghiệp
tại thành phố trên đơn vị sản phẩm vẫn còn chưa cao. Phần lớn các cơ sở sản xuất công nghiệp
tại Thành phố Hồ Chí Minh là các cơ sở dân doanh có qui mơ nhỏ, vốn đầu tư vào sản xuất ít,
thiết bị lạc hậu... nên việc đầu tư trang thiết bị mới, ứng dụng công nghệ mới ở các ngành cơng
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, các cơ sở công nghiệp thuộc khu vực đầu tư trực
tiếp nước ngồi có tốc độ đổi mới cơng nghệ sản xuất khá nhanh do được chuyển giao công nghệ


từ các cơng ty mẹ từ các nước có nền cơng nghệ tiên tiến. Một ví dụ điển hình là lĩnh vực điện
tử-công nghệ thông tin: trong tổng số 296 cơ sở điện tử-công nghệ thông tin của thành phố thì
chỉ có 18 cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài nhưng lại chiếm trên 80% giá trị sản xuất tồn ngành
tại thành phố. Nhiều cơng ty nhựa lớn của Nhà nước khi chuyển thành các công ty cổ phần như
các cơng ty: Bình Minh, Tân Phú... đã đầu tư hàng triệu USD để nhập công nghệ hoặc mua sắm
các máy móc thiết bị mới để sản xuất các sản phẩm nhựa có chất luợng cao.
Trong những năm qua, nhiều ngành cơng nghiệp liên tục phát triển, trong đó có những ngành
công nghiệp chiếm tỷ trọng đến 50% sản xuất của ngành đó tại Việt Nam. Để đảm bảo phát triển
bền vững và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã có
nghị quyết tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp mũi nhọn là: điện-điện tử-cơng nghệ thơng
tin; cơ khí; hóa chất và chế biến tinh lương thực thực phẩm giai đoạn 2006-2010 với tổng kinh
phí 3,5 tỷ USD. Các cơ sở này được nhanh chóng đầu tư về mọi mặt chuyển sang phát triển về
chiều sâu, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao và giá cả có tính cạnh tranh trên thị trường
nội địa và quốc tế, với mục tiêu đưa Thành phố Hồ Chí Minh trở thành Thành phố cơng nghiệp
có cơng nghệ cao của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của Việt Nam vào năm 2015-2017
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ đề ra.

Thành phố cũng là nơi tiếp nhận lượng kiều hối lớn nhất nước, khoảng 60% lượng kiều hối gửi
về nước hàng năm. GDP năm 2005 tăng 12,2% và GDP đầu người đạt 1,850 USD (hoặc 8,900
theo chỉ số PPP), gấp 3 lần mức bình quân cả nước và xếp hàng đầu cả nước, thành phố là hạt
nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Sang năm 2006, GDP tăng 12,2% so với năm 2005,
bằng tốc độ tăng của năm 2005 và cao hơn tốc độ năm 2004. Năm 2007, tăng trưởng GDP đạt
mức 12,6%, GDP bình quân đầu người đạt 2100 USD và dự tính đạt 3000 USD vào năm 2010.
Tỷ lệ hộ nghèo có thu nhập dưới 6 triệu đồng mỗi người một năm cịn 1,9%.
Thành phố Hồ Chí Minh có 3 khu chế xuất, 12 khu cơng nghiệp, 1 khu công nghệ cao và công
viên phần mềm Quang Trung.
Sở Giao dịch Chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh, có mã giao dịch là VN-Index, được thành
lập vào ngày 11 tháng 7 năm 1998. Cho đến cuối tháng 1 năm 2007, tại Trung tâm có 107 cơng
ty niêm yết với tổng vốn hóa thị trường gần 245,000 tỷ đồng, chỉ số VN-Index tăng trưởng 144%
khiến thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh trở thành thị trường chứng khốn tăng
trưởng nhanh nhất thế giới).
Thành phố có hệ thống nhiều trung tâm thương mại, siêu thị, chợ, cửa hàng. Chợ Bến Thành là
biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa của thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh là một
trung tâm tiêu thụ lớn với mức tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ gấp 10-13 lần so với các tỉnh Tây
Bắc, 6 lần các tỉnh Tây Nguyên, gấp 1,5 lần Hà Nội. Lĩnh vực kinh doanh địa ốc, đặc biệt là các
tòa nhà cao tầng phục vụ cho kinh doanh thương mại, văn phòng đang được đầu tư ồ ạt. Hiện tại,
tòa nhà cao tầng nhất tại thành phố là Trung tâm thương mại Sài Gòn cao 33 tầng trên
đường Tôn Đức Thắng, Quận 1 và cũng là tòa nhà cao nhất Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, kỷ lục
này sẽ bị sớm phá vỡ khi tòa nhà The Times Square 42 tầng, được dự kiến hoàn thành trong năm
2007 và đặc biệt là khi The Financial Tower (Tháp Tài chính), 72 tầng, được hồn thành.
·Giao thơng vận tải


· Đường bộ: Hệ thống đường bộ dày đặc nhưng do sự gia tăng dân số quá nhanh và qui hoạch
chưa hợp lý nên chưa đáp ứng được yêu cầu. Để giải quyết vấn nạn tắc nghẽn giao thông, Thành
phố đã triển khai và hoàn tất nhiều dự án giao thông quan trọng như: đại lộ Đông Tây, cầu Thủ
Thiêm, hầm Thủ Thiêm, cầu Phú Mỹ, đường xuyên Á, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí

Minh - Long Thành - Dầu Dây và Thành phố Hồ Chí Minh - Vũng Tàu, đường Trường
Chinh, đường cao tốc đi Trung Lương, đường cao tốc liên vùng phía Nam, đường Nam Kỳ Khởi
Nghĩa. Một số dự án lớn đang giai đoạn chuẩn bị triển khai: Các đường vành đai 1, 2, 3; đường
trên cao Thị Nghè - Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất;cầu Bình Triệu... và đặc biệt là dự án đường
bộ cao tốc Bắc - Nam với tổng số vốn dự kiến lên tới trên 30 tỷ đô la. Khi dự án này hoàn thành
sẽ kết nối thành phố với tất cả các vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước.
· Đường thủy: Các hệ thống cảng Sài Gòn, Tân Cảng đáp ứng được yêu cầu tiếp nhận các tàu
trọng tải lớn. Tuy nhiên, do nằm trong nội đô nên ảnh hưởng lớn đến giao thông đô thị và đang
được di dời ra khỏi nội thành. Các cảng container mới, hiện đại đang được triển khai có: cụm
cảng Hiệp Phước, cảng Cát Lái...
· Đường sắt: Ga Sài Gòn là đầu mối giao thông quan trọng và nhộn nhịp nhất nước, phục vụ
các tuyến vận tải Bắc Nam. Do mật độ giao thông nội thị cao, việc xây dựng các tuyến tàu điện
ngầm và đường sắt trên cao (monorail) đang được triển khai như các tuyến: Bến Thành - Biên
Hoà, Bến Thành - Bến xe Miền Tây, Bến Thành - Tân Sơn Nhất - An Sương... đang được các đối
tác nước ngoài như (Nhật, Pháp, Nga, Đức) đệ trình phương án đầu tư. (Xem thêm Tàu điện
ngầm Thành phố Hồ Chí Minh)
· Đường hàng khơng: Thành phố có Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là sân bay lớn nhất Việt
Nam với diện tích 850 ha, cơng suất nhà ga từ 15-17 triệu khách/năm, năm 2007, có lượng khách
quốc tế đến bằng đường hàng không chiếm 2/3 tổng số lượng khách đến các sân bay quốc tế tại
Việt Nam, sân bay này phục vụ 11 triệu khách thông qua, chiếm 55% trong tổng số 20 triệu
khách sử dụng sân bay tại Việt Nam. Nhà ga quốc tế mới T2 với năng lực 15-17 triệu khách/ năm
vừa hoàn thành vào tháng 8 năm 2007 là nhà ga hàng không lớn nhất và hiện đại nhất Việt Nam
hiện nay. Trong tương lai không xa, Sân bay quốc tế Long Thành với công suất 80-100 triệu
khách năm sẽ được xây dựng 40 km về phía Đơng Bắc thành phố.
Ngồi ra, thành phố cịn đang đầu tư vào hệ thống xe buýt, với hỗ trợ hàng trăm triệu đồng mỗi
năm từ UBND Thành phố Hồ Chí Minh, xe buýt ở Thành phố Hồ Chí Minh họat động với mục
tiêu giảm thiểu số lượng phương tiện giao thông cá nhân.
·Du lịch
Chợ Bến Thành là biểu tượng không chính thức của thành phố
Khẩu hiệu du lịch của thành phố là "TPHCM - điểm đến an toàn và thân thiện". Năm 2005,

thành phố đón 2 triệu khách du lịch quốc tế. Khách du lịch đến thành phố được tham quan ở các
di tích lịch sử khu vực trung tâm như: dinh Xã Tây (tòa nhà UBND thành phố), bến Nhà
Rồng, nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, nhà hát lớn Thành phố, bưu điện Thành phố, dinh Độc Lập, chùa
Vĩnh Nghiêm, chùa Giác Lâm, nhà thờ Huyện Sỹ và hàng chục viện bảo tàng, viện nghiên cứu
lớn nhỏ, hay ra ngoại thành thăm khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, địa đạo Củ Chi, mua sắm hàng


thủ công mỹ nghệ ở đường Đồng Khởi, chợ Bến Thành. Thành phố có "khu phố Tây" ở Khu phố
Phạm Ngũ Lão, thưởng thức ẩm thực khẩn hoang Nam bộ ở khu du lịch Bình Quới. Nếu đến vào
dịp Tết, du khách sẽ được ngắm nhìn đường hoa Nguyễn Huệ và tham dự vào lễ hội bánh tét
thành phố.
Các khu vui chơi giải trí như: khu Du lịch Văn hóa Suối Tiên;cơng viên nước Đại thế giới;cơng
viên giải trí Đầm Sen;Cơng viên Kỳ Hịa;cơng viên Văn Thánh;cơng viên nước Sài Gòn... Các
điểm tham quan hấp dẫn như: khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, địa đạo Củ Chi, Thảo Cầm Viên.
Thành phố vẫn còn tồn tại nhiều làng nghề truyền thống có giá trị lớn về ý nghĩa văn hóa, tạo
được nhiều việc làm cho lao động. Đó là làng hoa Gị Vấp, làng bánh tráng Phú Hịa Đơng, làng
dệt Bảy Hiền...



×