DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
1. Hình 1.1: Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Micheal Porter.
2. Bảng 2.1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm
Sơn từ 2003 – 2008.
3. Bảng 2.2: Sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần xi
măng Bỉm Sơn từ 2003 – 2008
4. Bảng 2.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 2003 – 2008
5. Bảng 2.4: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam từ năm 2003 – 2008
6. Bảng 2.5: Cơ cấu vốn điều lệ tại thời điểm 01/5/2006 của CTCP xi măng
Bỉm Sơn
7. Bảng 2.6: Cơ cấu vốn điều lệ tại thời điểm hiện nay của CTCP xi măng
Bỉm Sơn
8. Bảng 2.7: Hiệu quả sử dụng vốn của CTCP xi măng Bỉm Sơn giai đoạn
2003 – 2008
9. Biểu đồ 2.1: Biểu đồ doanh thu của CTCP xi măng Bỉm Sơn qua các năm
2003 – 2008.
10. Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nộp ngân sách của CTCP xi măng Bỉm Sơn giai đoạn
2003 – 2008.
11. Biểu đồ 2.3: Mức tăng thu nhập bình quân/ tháng của CBCNV CTCP xi
măng Bỉm Sơn giai đoạn 2003 – 2008.
12. Biểu đồ 2.4: Tốc độ tăng trưởng doanh thu của CTCP xi măng Bỉm Sơn
giai đoạn 2003 – 2008
13. Biểu đồ 2.5: Tốc độ tăng lợi nhuận của CTCP xi măng Bỉm Sơn giai
đoạn 2003 - 2008
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
PHẦN MỞ ĐẦU
I - TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước trong thời kỳ Công nghiệp
hóa – Hiện đại hóa đã kéo theo sự phát triển rất nhanh chóng của ngành xây
dựng và do đó sản xuất và kinh doanh xi măng là ngành đang thu hút được rất
nhiều sự quan tâm của nhiều ngành, nghề trong cả nước. Điều đó đã và đang đẩy
ngành kinh doanh xi măng vào sự cạnh tranh rất mạnh mẽ.
Tồn tại, trưởng thành và phát triển gần 30 năm, Xi măng Bỉm Sơn đã đóng
góp rất đáng kể vào sự phát triển của Tổng công ty xi măng Việt Nam cũng như
vào ngân sách của Quốc gia. Tuy vậy, khả năng cạnh tranh của Công ty nói
chung vẫn còn yếu so với không chỉ các Công ty thành viên trực thuộc Tổng mà
còn với các Công ty tư nhân khác. Công ty xi măng Bỉm Sơn về cơ bản còn thiếu
chiến lược cạnh tranh, thiếu kinh nghiệm tiếp cận thị trường, thiếu đội ngũ cán
bộ có kinh nghiệm cũng như trình độ trong công tác thị trường, marketing.
Nguồn tài chính dành cho hoạt động marketing, quảng cáo của Công ty còn rất
hạn chế.
Trong điều kiện phát triển và bối cảnh nền kinh tế hội nhập như hiện nay
thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty là một đòi hỏi cấp thiết. Nếu
không có đủ năng lực tiếp cận thị trường, thiếu một chiến lược cạnh tranh linh
hoạt thì Công ty sẽ khó có khả năng cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh
trong ngành, sẽ bị loại khỏi cuộc chơi trong việc tiếp cận thị trường và thu hút
khách hàng.
Hơn nữa, sau cổ phần hóa Công ty có điều kiện để mở rộng mạng lưới
hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư xâm nhập vào các lĩnh vực kinh doanh
mới. Chính vì vậy, hoạt động nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ quyết định đến sự
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
tồn tại và phát triển của Công ty trong tương lai.
II - MỤC TIÊU, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ
TÀI
1. Mục tiêu nghiên cứu:
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn,
về năng lực cạnh tranh của Công ty trong giai đoạn sau cổ phần hóa, từ đó có thể
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty để thu hút
khách hàng cũng như thúc đẩy sự phát triển của Công ty trong giai đoạn sau cổ
phần hóa.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh trong Doanh nghiệp. Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh trong
Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn. Đưa ra các định hướng chiến lược và giải pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty, cũng như tăng cường vị thế trên thị trường
để thu hút khách hàng trong giai đoạn sau cổ phần hóa.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài giới hạn nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi
măng Bỉm Sơn trong giai đoạn sau cổ phần hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để hoàn thành đề tài này, em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
phương pháp điều tra, thu thập thông tin, phương pháp phân tích tổng hợp,
phương pháp thống kê và phương pháp dự báo.
5. Nội dung nghiên cứu:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Ngoài phần Mở đầu, kiến nghị và phần Kết luận thì đề tài này gồm 3
chương:
Chương I: Năng lực cạnh tranh và sự cần thiết nâng cao năng lực của Doanh
nghiệp.
Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi măng Bỉm
Sơn trong giai đoạn 2003 – 2008.
Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xi
măng Bỉm Sơn sau cổ phần hóa.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN TRONG GIAI ĐOẠN
SAU CỔ PHẦN HOÁ
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Chương I: Năng lực cạnh tranh và sự cần thiết nâng
cao năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp
I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH:
1. Khái niệm và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
1.1. Khái niệm về cạnh tranh:
Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất,
trao đổi hàng hóa và phát triển kinh tế thị trường. Trong bất kỳ một lĩnh vực,
ngành nghề nào thì khái niệm về cạnh tranh cũng xuất hiện nhưng ở các góc độ
và mục đích khác nhau. Chính vì vậy, mặc dù cạnh tranh không phải là một khái
niệm mới song rất khó để đưa ra một định nghĩa cụ thể, rõ ràng và thống nhất.
Theo Các Mác: “Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh
gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận cao nhất”.
Theo từ điển kinh tế: “Cạnh tranh là quá trình ganh đua hoặc tranh giành
giữa ít nhất hai đối thủ nhằm có được những nguồn lực hoặc ưu thế về sản phẩm
hoặc khách hàng về phía mình, đạt được lợi ích tối đa”.
Theo từ điển kinh doanh của Anh, cạnh tranh được hiểu là “sự ganh đua,
kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một
loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Với những quan niệm trên, phạm trù cạnh tranh được hiểu là quan hệ kinh
tế, ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn
thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường,
giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất.
Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa
hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu
dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với lợi
nhuận và cạnh tranh. Cạnh tranh tác động đến mọi thành phần trong nền kinh tế.
Đối với toàn bộ nền kinh tế
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế và nâng cao năng suất lao động xã
hội. Như chúng ta đã biết, kết quả của cạnh tranh là loại bỏ các doanh nghiệp có
chi phí sản xuất kinh doanh cao, kinh doanh không hiệu quả. Một nền kinh tế
mạnh là khi có các công ty, doanh nghiệp vững mạnh và có khả năng cạnh tranh
cao.
Cạnh tranh sẽ đảm bảo việc điều chỉnh quan hệ cung - cầu. Cạnh tranh sẽ là
tiền đề thuận lợi làm cho sản xuất thích ứng linh hoạt dưới sự biến động của cầu
và công nghệ sản xuất. Cạnh tranh tác động một cách tích cực đến việc phân
phối thu nhập tạo sự cân bằng trên thị trường.
Bên cạnh đó, cạnh tranh còn là nguyên nhân thúc đẩy sự đổi mới về mọi mặt
của nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là điều tất yếu
và bất khả kháng. Cạnh tranh là cuộc đua mà trong đó các doanh nghiệp luôn
phải tìm cách để vươn lên chiếm ưu thế và giành thắng lợi. Muốn vậy, doanh
nghiệp cần phải xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh hợp lý. Coi cạnh
tranh như là một công cụ, là bàn đạp vươn lên.
Cạnh tranh buộc các nhà sản xuất phải tìm mọi cách để làm ra sản phẩm có
chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn, có tỷ lệ tri thức khoa học,
công nghệ trong đó cao hơn... để đáp ứng với thị hiếu của khách hàng. Điều này
đã khiến các doanh nghiệp cần phải lựa chọn phương án chiến lược tối ưu như:
chi phí sản xuất thấp nhất, công nghệ hiện đại, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực để giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm...
Cạnh tranh thúc đẩy sản xuất và phát triển, cạnh tranh sẽ đào thải những
doanh nghiệp hoạt động yếu kém, giúp doanh nghiệp tìm tòi và khắc phục những
yếu điểm để vươn lên nắm giữ thị trường. Doanh nghiệp nào có các chính sách
cạnh tranh hiệu quả sẽ tạo ra được vị thế trên thị trường, tăng doanh thu và lợi
nhuận. Tuy nhiên, vị thế cạnh tranh chỉ mang tính tương đối, không hoàn toàn
triệt để. Vì vậy, doanh nghiệp phải luôn nhìn nhận cạnh tranh, điều kiện cạnh
tranh là các căn cứ quan trọng để xây dựng chiến lược phát triển cho doanh
nghiệp.
Đối với khách hàng
Cạnh tranh làm cho người tiêu dùng được tiêu dùng hàng hóa cũng như dịch
vụ có chất lượng cao hơn với giá thành hợp lý hơn và nhu cầu của người tiêu
dùng cũng được đáp ứng tốt hơn. Có được như vậy là vì có cạnh tranh nên hàng
hóa trong nước và trao đổi quốc tế trở nên phong phú và đa dạng về chủng loại,
bao bì, mẫu mã và hơn hết là chất lượng ngày càng tốt hơn mà giá lại rẻ hơn.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
2. Phân loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua: Trong thị trường sẽ xuất hiện hai đối
tượng là người bán và người mua. Người bán đại diện cho bên cung còn người mua
đại diện cho bên cầu. Người bán thì muốn bán giá cao, người mua mong mua được
giá thấp, họ cạnh tranh với nhau nhằm thu được lợi ích cao nhất về mình.
- Cạnh tranh giữa người mua với nhau: Người mua là những người tiêu
dùng hàng hóa. Họ không chỉ cạnh tranh với nhau về tiêu dùng những loại hàng
hóa giống nhau mà còn về những loại hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng khác nhau.
Họ cạnh tranh để mua được nhiều loại hàng hóa, dịch vụ với một mức chi phí
nhất định, nhưng lợi ích tiêu dùng lại lớn nhất.
- Cạnh tranh giữa người bán với nhau: Người bán là những người cung cấp
hàng hóa. Cũng giống như người mua, không chỉ những người cung cấp một loại
hàng hóa, dịch vụ giống nhau mới cạnh tranh nhau mà những người cung cấp
hàng hóa, dịch vụ khác nhau cũng cạnh tranh với nhau. Họ cạnh tranh để bán
được nhiều hàng hóa với giá cao hơn và thu được nhiều lợi nhuận hơn.
2.2. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các công ty, doanh
nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa nhằm thu được lợi nhuận siêu ngạch. Do
đó, để thu được lợi nhuận các doanh nghiệp sẽ thi đua cạnh tranh nhau về khoa
học kỹ thuật, phải luôn cải tiến công cụ sản xuất, máy móc thiết bị.
- Cạnh tranh ngoài ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng
minnh các doanh nghiệp của một ngành với những ngành khác nhằm đạt được
lợi nhuận cao nhất và tìm kiếm được nơi đầu tư có lợi.
2.3. Căn cứ vào thị trường:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
- Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà
trong đó không phải chỉ có một người tiêu dùng hay sản xuất nào đó, là bộ phận
lớn của thị trường có ảnh hưởng cá nhân đến giá cả của thị trường.
Đặc điểm của thị trường này:
+ Có vô số người bán và người mua độc lập trên thị trường.
+ Hàng hóa có tính đồng nhất cao, dễ thay thế cho nhau trên thị trường.
+ Người bán và người mua đều không ảnh hưởng đến giá cả, thị trường của
sản phẩm, tức là họ phải chấp nhận giá của thị trường.
+ Trong thị trường của cạnh tranh hoàn hảo thì người bán và người mua đều
có thể tự do tham gia hay rút khỏi thị trường mà không bị ràng buộc.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là thị
trường gồm cạnh tranh độc quyền và cạnh tranh tập đoàn, mà trong đó chỉ có
một số hãng cung ứng mức cung ứng của toàn bộ thị trường về mọi loại hàng
hóa và dịch vụ nào đó.
+ Cạnh tranh độc quyền: được hiểu là thị trường trong đó có nhiều hãng sản
xuất và bán những sản phẩm tương tự như nhau, các sản phẩm này có thể thay
thế cho nhau nhưng không hoàn hảo. Các hãng cạnh tranh với nhau bằng việc
bán những sản phẩm “dị biệt hóa”.
+ Cạnh tranh tập đoàn: trong thị trường, hàng hóa và dịch vụ có thể giống
nhau một ít, có thể khác nhau một ít, các hàng hóa mới thì khó gia nhập thị
trường và giá cả thì luôn cứng nhắc.
II – NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN
NĂNG LỰC CẠNH TRANH:
1. Khái niệm năng lực cạnh tranh:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Năng lực cạnh tranh là thuật ngữ ngày càng được sử dụng rộng rãi trong
rất nhiều các lĩnh vực nhưng đến nay vẫn là khái niệm khó hiểu và rất khó đo
lường.
Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học, năng lực cạnh tranh là khả năng
giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả
năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa năng lực cạnh
tranh là “khả năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia hoặc khu
vực siêu quốc gia trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện
cạnh tranh quốc tế trên cơ sở bền vững”.
2. Phân loại năng lực cạnh tranh:
Đã có rất nhiều những nhà chuyên môn đã nghiên cứu và có những công
trình nghiên cứu công phu về năng lực cạnh tranh. Chẳng hạn như Momaya
(2002), Ambastha và cộng sự (2005), hoặc các tác giả người Mỹ như Henricsson
và các cộng sự (2004)… đã hệ thống hóa và phân loại các nghiên cứu và đo
lường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo 3 loại: nghiên cứu năng lực
cạnh tranh hoạt động, năng lực cạnh tranh dựa trên khai thác, sử dụng tài sản và
năng lực cạnh tranh theo quá trình.
Năng lực cạnh tranh hoạt động là xu hướng nghiên cứu năng lực cạnh tranh
chú trọng vào những chỉ tiêu cơ bản gắn với hoạt dộng kinh doanh trên thực tế
như: thị phần, năng suất lao động, giá cả, chi phí v.v… Theo những chỉ tiêu này,
doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là những doanh nghiệp có các chỉ tiêu
hoạt động kinh doanh hiệu quả, chẳng hạn như năng suất lao động cao, thị phần
lớn, chi phí sản xuất thấp…
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Năng lực cạnh tranh dựa trên tài sản là xu hướng nghiên cứu nguồn hình
thành năng lực cạnh tranh trên cơ sở sử dụng các nguồn lực như nhân lực, công
nghệ, lao động. Theo đó, các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao là những
doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực hiệu quả như nguồn nhân lực, lao động,
công nghệ, đồng thời có lợi thế hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực này.
Năng lực cạnh tranh theo quá trình là xu hướng nghiên cứu năng lực cạnh
tranh như các quá trình duy trì và phát triển năng lực năng lực cạnh tranh. Các
quá trình bao gồm: quản lý chiếc lược, sử dụng nguồn nhân lực, các quá trình tác
nghiệp (sản xuất, chất lượng…).
3. Các cấp độ năng lực cạnh tranh:
3.1. Năng lực cạnh tranh của Quốc gia:
Năng lực cạnh tranh của Quốc gia hay của một nền kinh tế được hiểu là thực
lực và lợi thế mà nền kinh tế hay quốc gia đó huy động được để duy trì và cải
thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường thế giới một
cách lâu dài và có ý nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế hay
cho quốc gia mình.
3.2. Năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế
cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử
dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.
3.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm:
Năng lực cạnh tranh sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh
chóng trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng một thị
trường. Hay nói cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị
phần của sản phẩm đó.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
III – CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA DOANH NGHIỆP:
Hình 1.1: Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Micheal Porter
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Khách hàngNgười cung cấp
Sản phẩm
thay thế
Các công ty
trong ngành
Kinh tế
Công nghệ
Chính trị
Xã hội
Đối thủ cạnh
tranh tiềm ẩn
Môi trường vĩ mô
Môi trường ngành
1. Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp:
1.1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô:
1.1.1. Yếu tố kinh tế:
Các nhân tố kinh tế có vai trò quan trọng hàng đầu và ảnh hưởng có tính
quyết định đến hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế
ảnh hưởng mạnh nhất đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thường
là: tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ lãi suất.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là sự so sánh về giá trị của đồng tiền trong nước với đồng
tiền của các quốc gia khác. Thay đổi về tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp đến
tính cạnh tranh của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất trên thị trường quốc tế.
Khi giá trị của đồng tiền trong nước thấp hơn so với giá trị của các đồng tiền
khác, hàng hóa sản xuất trong nước sẽ tương đối rẻ hơn, còn hàng hóa sản xuất
ngoài nước sẽ tương đối đắt hơn.
Tỷ lệ lạm phát
Lạm phát gây xáo trộn nền kinh tế làm cho sự tăng trưởng kinh tế chậm lại,
tỷ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở nên không lường trước được.
Nếu lạm phát tăng liên tục, các hoạt động đầu tư trở thành công việc hoàn toàn
may rủi. Thực trạng của lạm phát là làm cho tương lai kinh doanh trở nên khó dự
đoán được, khi đó nó sẽ hạn chế sự hoạt động của nền kinh tế, gây nên tình trạng
thất nghiệp, và cuối cùng thì đẩy nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Tỷ lệ lãi suất
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Tỷ lệ lãi suất có thể tác động đến mức cầu đối với sản phẩm của doanh
nghiệp. Tỷ lệ lãi suất rất quan trọng khi người tiêu dừng thường xuyên vay tiền
để thanh toán các khoản mua bán hàng hóa của mình. Tỷ lệ lãi suất còn quyết
định mức chi phí về vốn và do đó quyết định mức đầu tư. Chi phí này là nhân tố
chủ yếu khi quyết định tính khả thi của chiến lược.
1.1.2. Yếu tố kỹ thuật - công nghệ:
Ngày nay công nghệ được coi là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh và phát
triển. Thay đổi về công nghệ có thể làm cho các sản phẩm hiện đang sản xuất trở
nên lỗi thời trong một khoảng thời gian ngắn. Cũng với thời gian đó có thể tạo ra
được sản phẩm mới. Như vậy, công nghệ đồng thời có thể vừa là cơ hội cũng
như mối đe dọa của doanh nghiệp. Do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ
đã diễn ra xu hướng làm ngắn lại chu kỳ sống của sản phẩm. Bên cạnh đó, công
nghệ cũng tạo ra nhiều phương pháp sản xuất mới, những phương pháp này cũng
sẽ là những cơ hội hoặc thách thức cho doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp
phải lường trước được những thay đổi do công nghệ mang lại.
1.1.3. Các yếu tố chính trị - pháp luật:
Các yếu tố chính trị - pháp luật cũng có tác động lớn đến mức độ thuận lợi
và khó khăn của môi trường kinh doanh trong doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
hoạt động phải tuân theo các quy định của chính phủ về thuê mướn nhân công,
thuế, quảng cáo, nơi đặt nhà máy và bảo vệ môi trường,… Những quy định này
cũng có thể là cơ hội hoặc mối đe dọa với doanh nghiệp. Việc tạo ra môi trường
kinh doanh lành mạnh thông qua luật pháp và quản lý nhà nước sẽ đảm bảo cho
sự phát triển, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là bình đẳng và lành mạnh.
1.1.4. Các yếu tố văn hóa, tự nhiên và xã hội:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Cùng với sự phát triển kinh tế, các yếu tố xã hội ngày càng có tác động
nhiều hơn đến họat động kinh doanh của các doanh nghiệp. Yếu tố xã hội bao
gồm các vấn đề nhân khẩu như quy mô và tốc độ dân số, cơ cấu dân số, tình
trạng hôn nhân và gia đình, sự đô thị hóa,…; vấn đề văn hóa như bản sắc, truyền
thống, phong tục tập quán, lối sống, trào lưu, xu hướng,…
1.2. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô (môi trường ngành):
Sử dụng mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Micheal Porter, theo mô hình này
thì ảnh hưởng đến cầu trúc cạnh tranh trong một ngành gồm có các yếu tố sau:
● Khả năng cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn.
● Sự cạnh tranh của các sản phẩm thay thế.
● Sức ép của khách hàng.
● Áp lực từ phía nhà cung cấp.
● Mức độ cạnh tranh của các đối thủ trong ngành.
1.2.1. Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn:
Đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện không ở trong ngành nhưng có khả
năng nhảy vào hoạt động kinh doanh trong ngành đó. Tác động của các doanh
nghiệp này đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đến đâu hoàn toàn
phụ thuộc vào sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp đó như công nghệ chế
tạo, quy mô…. Sự xuất hiện của các đối thủ mới này có thể là yếu tố làm giảm
lợi nhuận của doanh nghiệp hay còn làm thay đổi bức tranh cạnh tranh ngành.
Dù thay đổi cục diện cạnh tranh kiểu nào thì sự xuất hiện của các đối thủ tiềm ẩn
cũng làm gia tăng mức cạnh tranh của ngành. Do đó, các doanh nghiệp đang hoạt
động tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực
kinh doanh của họ.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Theo M. Porter, những nhân tố tác động đến quá trình tham gia thị trường
của các đối thủ mới đó là: các rào cản thâm nhập thị trường, hiệu quả kinh tế của
quy mô, bất lợi về chi phí do các nguyên nhân khác, sự khác biệt hóa sản phẩm,
yêu cầu về vốn cho sự thâm nhập, chi phí chuyển đổi, sự tiếp cận các cách phân
phối, các chính sách quản lý vĩ mô,…
1.2.2. Sự cạnh tranh của sản phẩm thay thế:
Sản phẩm thay thế là những sản phẩm của các doanh nghiệp trong những
ngành khác nhau nhưng thỏa mãn những nhu cầu của người tiêu dùng giống như
các doanh nghiệp trong ngành. Những doanh nghiệp này thường cạnh tranh gián
tiếp với nhau. Càng nhiều loại sản phẩm thay thế xuất hiện bao nhiêu sẽ càng tạo
ra sức ép lớn đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bấy nhiêu. Đặc
điểm của sản phẩm thay thế như: sản phẩm sẽ được tiếp tục đưa vào sản xuất hay
sẽ được sử dụng trong tiêu dùng cũng như tính chất của sản phẩm thay thế đều
tác động trực tiếp, tạo ra sức ép đối với doanh nghiệp.
Như vậy, sự tồn tại những sản phẩm thay thế hình thành một sức ép cạnh
tranh rất lớn, nó giới hạn mức giá mà một doanh nghiệp có thể định ra và do đó
giới hạn mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu sản phẩm của một
doanh nghiệp có rất ít các sản phẩm thay thế, doanh nghiệp đó có cơ hội để tăng
giá và lợi nhuận.
1.2.3. Sức ép từ khách hàng:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Khách hàng của doanh nghiệp là những người có cầu về sản phẩm hay dịch
vụ do doanh nghiệp cung cấp. Đối với mọi doanh nghiệp, khách hàng không chỉ
là các khách hàng hiện tại mà phải tính đến cả khách hàng tiềm ẩn. Khách hàng
là người tạo ra lợi nhuận, tạo ra sự thắng lợi của doanh nghiệp. Họ được xem
như là sự đe dọa mang tính cạnh tranh khi đẩy giá cả xuống hoặc khi họ yêu cầu
chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn làm cho chi phí hoạt động của doanh
nghiệp tăng lên. Ngược lại, nếu người mua có những yếu thế sẽ tạo cho doanh
nghiệp cơ hội để tăng giá và kiếm nhiều lợi nhuận hơn. Người mua có thể gây áp
lực với doanh nghiệp đến mức nào phụ thuộc vào thế mạnh của họ trong mối
quan hệ với doanh nghiệp.
Theo M. Porter, những yếu tố tạo áp lực cho người mua đó là:
Khi ngành cung cấp gồm nhiều doanh nghiệp nhỏ còn người mua chỉ là số
ít doanh nghiệp nhưng có quy mô lớn.
Khi người mua mua với số lượng lớn, họ có thể sử dụng sức mua của
mình để yêu cầu được giảm giá.
Khi người mua có thể lựa chọn đơn đặt hàng giữa các doanh nghiệp cung
ứng cùng loại sản phẩm.
1.2.4. Áp lực từ phía nhà cung cấp:
Người cung cấp được coi là sự đe dọa với doanh nghiệp khi họ có thể đẩy
mức giá hàng hóa cung cấp cho doanh nghiệp lên, làm tăng chi phí và ảnh hưởng
đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường quan hệ với các tổ
chức cung cấp các nguồn hàng khác nhau như thiết bị vật tư, nguồn lao động và
tài chính. Yếu tố làm tăng thế mạnh của các tổ chức cung ứng cũng tương tự như
các yếu tố làm tăng thế mạnh của người mua sản phẩm.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Các nhân tố tác động trực tiếp và tạo ra sức ép từ phía các nhà cung cấp tới
hoạt động mua sắm và dự trữ cũng như tuyển dụng lao động của từng doanh
nghiệp: số lượng nhà cung cấp nhiều hay ít, tính chất thay thế của các yếu tố đầu
vào khó hay dễ, tầm quan trọng của các yếu tố đầu vào đối với hoạt động của
doanh nghiệp, khả năng của các nhà cung cấp và vị trí quan trọng đến mức độ
nào của doanh nghiệp đối với nhà cung cấp.
1.2.5. Sự cạnh tranh nội bộ ngành:
Cạnh tranh nội bộ là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện đang có mặt
trong ngành. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành là yếu tố quan
trọng tạo ra cơ hội hoặc mối đe dọa cho các doanh nghiệp. Nếu sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp trong ngành yếu, các doanh nghiệp có cơ hội nâng giá
nhằm thu được lợi nhuận cao hơn. Nếu sự cạnh tranh này là gay gắt thì sẽ dẫn
đến cạnh tranh quyết liệt về giá, nguy cơ làm giảm lợi nhuận của các doanh
nghiệp. Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành chịu tác động tổng hợp của 3 yếu tố cấu
thành: cơ cấu ngành, mức độ cầu và những trở ngại ra khỏi ngành.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
- Cơ cấu ngành: đó là sự phân bố về số lượng và quy mô của các công ty
trong ngành. Có thể phân biệt hai loại cơ cấu chính: Thứ nhất, ngành phân tán,
bao gồm số lượng lớn các công ty có quy mô vừa và nhỏ, không có công ty nào
có vai trò chi phối toàn bộ ngành như ngành sản xuất lương thực trong nông
nghiệp, ngành dệt, ngành kinh doanh khách sạn, du lịch, nên không có sức mạnh
chi phối thị trường và thường phải chấp nhận mức giá của thị trường. Thứ hai,
ngành hợp nhất, bao gồm số lượng ít các công ty có quy mô lớn hoặc chỉ có một
doanh nghiệp độc quyền như ngành sản xuất ôtô, sản xuất điện. Các doanh
nghiệp trong nhóm ngành hợp nhất hoạt động phụ thuộc vào nhau và do đó hoạt
động cạnh tranh của một doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức lợi nhuận
của các doanh nghiệp khác trong ngành.
- Mức độ cầu: tình trạng về cầu trong ngành cũng là một yếu tố tác động đến
cạnh tranh. Tăng nhu cầu tạo ra cơ hội cho việc mở rộng sản xuất, làm dịu bớt sự
cạnh tranh. Cầu tăng lên khi trên thị trường có thêm người tiêu dùng mới hoặc
làm tăng sức mua của người tiêu dùng hiện tại. Khi đó, các doanh nghiệp có thể
tăng doanh thu mà không làm ảnh hưởng đến thị trường của các doanh nghiệp
khác. Như vậy việc tăng cầu đưa đến cơ hội mở rộng hoạt động cho các doanh
nghiệp.
Ngược lại cầu giảm khi có người tiêu dùng rời bỏ thị trường của ngành,
hoặc sức mua của những người tiêu dùng hiện tại giảm. Khi đó sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp trở nên mạnh mẽ hơn, một doanh nghiệp chỉ có thể đạt tới
sự tăng trưởng mạnh bằng cách lấy đi thị phần của những doanh nghiệp khác. Sự
biến động của mức cầu phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của ngành.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
- Những trở ngại ra khỏi ngành: Những trở ngại ra khỏi ngành đe dọa khi
cầu đang có xu hướng giảm. Nếu như những trở ngại này rất khó vượt qua thì
các doanh nghiệp có thể bị buộc chặt vào nhau, mặc dù hoạt động kinh doanh
không có gì tốt đẹp, và nó sẽ làm cho sự cạnh tranh trở nên gay gắt. Các trở ngại
chính ra khỏi ngành đó là: Thứ nhất, các mày móc thiết bị khó có thể sử dụng
vào ngành khác, do vậy doanh nghiệp không bán được, khi doanh nghiệp ra khỏi
ngành phải bỏ toàn bộ tài sản này. Thứ hai, những chi phí cố định rất lớn khi ra
khỏi ngành như trả lương cho công nhân khi chưa hết hợp đồng. Thứ ba, đó là sự
gắn bó về tình cảm đối với ngành như những công ty thuộc gia đình, dòng họ.
2. Các yếu tố thuộc nội bộ doanh nghiệp:
Phân tích nội bộ doanh nghiệp nhằm làm rõ những điểm mạnh, điểm yếu
của chính doanh nghiệp trong từng lĩnh vực kinh doanh để cuối cùng chỉ ra
doanh nghiệp có những năng lực riêng biệt nào đó và những năng lực riêng biệt
này tạo ra lợi thế cạnh tranh.
2.1. Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp:
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị là tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối
liên hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa, được giao những
trách nhiệm và quyền hạn nhất định và được bố trí theo từng cấp nhằm thực hiện
các chức năng quản trị doanh nghiệp. Trình độ tổ chức và quản lý là yếu tố quan
trọng hàng đầu. Có tổ chức tốt doanh nghiệp sẽ làm tốt mọi việc. Để tổ chức
quản lý tốt cần phải có phương pháp quản lý tốt, có hệ thống tổ chức gọn nhẹ,
linh hoạt, có văn hóa doanh nghiệp tốt. Cần phải có một cơ cấu tổ chức hợp lý,
phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng giữa các bộ phận, các phòng ban
chức năng thì mọi hoạt động sẽ trôi chảy, có năng suất hơn.
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp thì cơ cấu ban lãnh đạo, phẩm chất,
trình độ và tài năng của họ có vai trò rất quan trọng, có ảnh hưởng mang tính
quyết định tới sự thành công của doanh nghiệp. Ban lãnh đạo của một tổ chức là
người nắm toàn bộ nguồn lực của tổ chức, vạch ra đường lối, chiến lược, chính
sách, kế hoạch hoạt động; vạch ra sách lược hoạt động từng thời kỳ; hướng dẫn,
kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động của các phòng ban để đưa hoạt động của doanh
nghiệp đạt hiệu quả cao.
2.2. Hoạt động Marketing:
Chức năng cơ bản của hoạt động Marketing là tạo ra khách hàng cho doanh
nghiệp. Chỉ có marketing mới có vai trog quyết định và điều phối sự kết nối các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với thị trường, tức là đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường –
nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm chỗ dựa cho mọi quyết định kinh
doanh.
Tính chất cạnh tranh của thị trường ngày càng gay gắt, sự thôi thúc của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế là nguyên nhân trọng yếu thúc đẩy các doanh
nghiệp phải hiểu biết và vận dụng marketing một cách linh hoạt vào kinh doanh,
tạo dựng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ngày một cao hơn.
2.3. Nghiên cứu và phát triển:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Trong hoạt động đầu tư thì đầu tư vào nghiên cứu và phát triển thường đưa
lại kết quả rất lớn. Nghiên cứu và phát triển bao gồm việc nghiên cứu tiến bộ
khoa học – kỹ thuật của thế giới để ứng dụng những tiến bộ đó vào hoạt động
của doanh nghiệp mình. Nghiên cứu sáng tạo cái mới, đó là nhân tố cực kỳ quan
trọng, quyết định tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của quốc gia.
Nghiên cứu sáng tạo ở đây là bao gồm sáng tạo công nghệ mới, sản phẩm mới,
tạo ra kết cấu, tổ chức mới, phương pháp quản lý mới và khai thác thị trường
mới.
Để hoạt động nghiên cứu – triển khai tiến hành tốt thì doanh nghiệp không
thể thiếu công tác đào tạo,bồi dưỡng. Đào tạo để nâng cao nhận thức cho mọi
người về hội nhập và toàn cầu hóa, về cạnh tranh, về vị trí vai trò của doanh
nghiệp trong ngành… Sau đó là để nâng cao hiểu biết về công nghệ, kỹ thuật sản
xuất, nâng cao tay nghề làm ra sản phẩm có chất lượng và năng suất ngày càng
cao.
2.4. Năng lực tài chính của doanh nghiệp:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Tài chính là một nguồn lực mà các doanh nghiệp cần phải có trước tiên
trong quá trình thành lập và phát triển. Tình hình tài chính tác động trực tiếp đến
kết quả và hiệu quả kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp.
Mọi hoạt động đầu tư, mua sắm, dự trữ, lưu kho,… cũng như khả năng thanh
toán của doanh nghiệp ở mọi thời điểm đều phụ thuộc vào khả năng tài chính của
nó. Năng lực tài chính là yếu tố rất quan trọng để xem xét tiềm lực của doanh
nghiệp mạnh, yếu như thế nào? Doanh nghiệp có đủ nguồn lực tài chính để tài
trợ cho chiến lược hay không? Doanh nghiệp có thể huy động các nguồn lực tài
chính khi cần hay không? Vấn đề sử dụng vốn của doanh nghiệp như thế nào?
Một doanh nghiệp có năng lực tài chính mạnh, năng lực cạnh tranh cao khi
doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào bằng cách đa dạng hóa nguồn cung vốn,
luôn đảm bảo huy động được vốn trong những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn
huy động hợp lí; bên cạnh đó, doanh nghiệp phải có kế hoạch sử dụng đồng vốn
có hiệu quả để phát triển lợi nhuận; và hơn hết, phải hạch toán chi phí rõ ràng để
xác định được hiệu quả một cách chính xác.
IV – CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
DOANH NGHIỆP:
1. Hiệu quả kinh doanh:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B
Hiệu quả kinh doanh là trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu
xác định. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện thông qua các chỉ
tiêu như: lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, doanh thu, tăng trưởng doanh thu,… Các
chỉ tiêu này phản ánh kết quả sử dụng các yếu tố vốn, trình độ quản lý sản xuất
kinh doanh, lao động, kỹ thuật của doanh nghiệp. Phân tích, so sánh các chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kỳ này với kỳ trước, so
sánh chỉ tiêu trung bình ngành và chỉ tiêu kế hoạch với chỉ tiêu thực hiện, ta đánh
giá được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu
doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao, lợi nhuận cao và theo chiều hướng
phát triển thì nội bộ doanh nghiệp ổn định, mọi thành viên an tâm làm việc,
mang lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp và doanh nghiệp đó sẽ có năng lực cạnh
tranh cao.
2. Thị phần của doanh nghiệp trên thị trường:
GVHD: TS. Nguyễn Thị Kim Dung SVTH: Mai Thị Bích Ngọc -KH47B