Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Những mối quan hệ đặt ra giữa nhà nước và trong đời sống pháp luật 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 18 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
Số phách

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐỀ TÀI: NHỮNG MỐI QUAN HỆ ĐẶT RA GIỮA NHÀ
NƯỚC VÀ TRONG ĐỜI SỐNG PHÁP LUẬT

HỌC PHẦN: Lý luận Nhà nước và pháp luật ( Phần chung )
GIẢNG VIÊN PHỤ TRÁCH HỌC PHẦN: Th.S Mai Thị Diệu Thúy

THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2021




Ă


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN………………………………………………………………2
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………3
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Lý do chọn đề tài………………………………………………………...3


Tổng quan tình hình nghiên cứu…………………………………………3
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………....3
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu………………………………………….3
Phương pháp nghiên cứu………………………………………………...3
Đóng góp đề tài………………………………………………………….4
Kết cấu đề tài…………………………………………………………….4

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NHÀ NƯỚC……………………………...4
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN TRONG ĐỜI SỐNG PHÁP LUẬT………….8
1. Bộ phận tích cực của đời sống pháp luật…………………………………8
2. Bộ phận tiêu cực của đời sống pháp luật…………………………………8
3. Yếu tố tác động đến pháp luật……………………………………………9
4. Bàn luận về hai bộ phận của đời sống pháp luật…………………………10
5. Mối quan hệ giữa các bộ phận của đời sống pháp luật…………………..11
CHƯƠNG III: NHỮNG MỐI QUAN HỆ ĐẶT RA GIỮA NHÀ NƯỚC
VÀ TRONG ĐỜI SỐNG PHÁP LUẬT……………………………………..12
1. Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế…………………………………...13
2. Mối quan hệ giữa pháp luật và cá nhân…………………………………..13
3. Mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị………………………………….14
4. Mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước………………………………....15
KẾT LUẬN…………………………………………………………………..16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….17

1


LỜI CẢM ƠN
Với sự chân thành nhất, cho phép em xin gửi lời cảm ơn đến Nhà trường, các
thầy cô giáo đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập vừa
qua. Vì ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên em chưa thể học tập trực tiếp tại

trường, chính vì thế bản thân em cần phải cố gắng, nổ lực nhiều hơn. Trong
suốt thời gian bắt đầu học tập đến nay, em đã nhận được sự quan tâm cũng
như giúp đỡ của thầy cô, bạn bè và các anh chị khóa trên. Bài tiểu luận thực
hiện trong khoảng thời gian tương đối nên còn nhiều hạn chế và khơng tránh
khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp của thầy
cơ để bài làm của em được hoàn thiện hơn, đồng thời củng cố lại kiến thức
của mình. Em xin chân thành cảm ơn!

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Những mối quan hệ đặt ra giữa Nhà nước và trong đời sống pháp luật là đề tài
sâu sắc, đáng để tìm hiểu. Đây là một trong những chủ đề chính của ngành
luật pháp. Muốn tìm hiểu sâu về pháp luật thì phải biết những mối quan hệ
giữa Nhà nước và pháp luật. Chính vì lý do trên đã thúc đẩy em lựa chọn đề
tài “ Những mối quan hệ đặt ra giữa Nhà nước và trong đời sống pháp luật “
làm bài tiểu luận kết thúc học phần của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Nhà nước là một tổ chức đặt biệt của quyền lực chính trị, nhưng quyền lực
đó chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu quả trên cơ sở của pháp luật.
Vậy nên mối quan hệ giữa Nhà nước và trong đời sống pháp luật cần phải
chặt chẽ, khắng khít với nhau.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1: Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ khái niệm, đặc trưng của Nhà nước và trong đời sống pháp luật. Tìm
hiểu sâu hơn về những mối quan hệ đặt ra giữa Nhà nước và trong đời sống
pháp luật.
3.2: Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Nghiên cứu về Nhà nước.
- Nghiên cứu về đời sống pháp luật.
- Nghiên cứu về những mối quan hệ đặt ra giữa Nhà nước và trong đời
sống pháp luật.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
*Phạm vi về nội dụng nghiên cứu:
- Nhà nước.
- Đời sống pháp luật.
*Phạm vi về không gian nghiên cứu: Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:

3


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.Đóng góp đề tài:
- Đóng góp về mặt lý luận: cung cấp hệ thống lý thuyết, cơ sở lý thuyết
về mối quan hệ giữa Nhà nước và trong đời sống pháp luật.
- Đóng góp về mặt thực tiễn: Nhà nước Việt Nam.
7.Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, đề tài có kết cấu
3 chương:
- Chương I: Tổng quan về Nhà nước.
- Chương II: Tổng quan trong đời sống pháp luật.
- Chương III: Những mối quan hệ đặt ra giữa Nhà nước và trong đời
sống pháp luật.

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NHÀ NƯỚC
Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật thì tương đương với một quốc gia, là một

tổ chức xã hội quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực
hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước vì thế mang bản chất giai cấp.
Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã hội loài người bị phân chia thành những lực
lượng giai cấp đối kháng; nhà nước là bộ máy do lực lượng nắm quyền thống
trị ( kinh tế, chính trị, xã hội ) thành lập nên nhằm mục đích điều khiển, chỉ
huy tồn bộ hoạt động của xã hội trong một quốc gia do vậy nhà nước mang
vai trị xã hội, trong đó chủ yếu để bảo vệ các quyền lợi của lực lượng thống
trị. Nhà nước xuất hiện khi có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xuất hiện
những giai cấp đối kháng nhau do vậy mà nó cần một tổ chức chính trị đứng
ra để điều hịa những mâu thuẫn ấy và để quản lí xã hội.
Theo quan điểm của học thuyết Mác – Lênin, nhà nước mang bản chất giai
cấp. Nhà nước chỉ ra đời từ khi xã hội phân chia giai cấp. Giai cấp nào thì nhà
nước đó. Do trong xã hội ngun thủy khơng có phân chia giai cấp, nên trong
xã hội ngun thủy khơng có Nhà nước. Cho đến nay, đã có 4 kiểu nhà nước
4


hình thành: Nhà nước chủ nơ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà
nước vô sản ( Nhà nước xã hội chủ nghĩa ). Nhà nước được giai cấp thống trị
thành lập để duy trì sự thống trị của giai cấp mình, để làm người đại diện cho
giai cấp mình, bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình. Bản chất nhà nước có hai
thuộc tính: tính xã hội và tính giai cấp cùng tồn tại trong một thể thống nhất
khơng thể tách rời và có quan hệ biện chứng với nhau. Tính giai cấp là thuộc
tính cơ bản, vốn có của bất kỳ nhà nước nào. Nhà nước ra đời trước hết phục
vụ lợi ích của giai cấp thống trị; tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà
nước là đại diện chính thức của tồn xã hội, và mức độ này hay mức độ khác
nhà nước thực hiện bảo vệ lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia dân tộc và cơng
dân mình.
Theo quan điểm của học thuyết Mác – Lênin, nhà nước có 5 đặc trưng cơ bản
sau đây:

- Nhà nước có quyền lực chính trị cơng cộng đặc biệt; có bộ máy cưỡng
chế, quản lý những công việc chung của xã hội.
- Nhà nước có quyền quản lý dân cư, phân chia lãnh thổ thành các đơn
vị hành chính.
- Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
- Nhà nước có quyền xây dựng, sáng tạo pháp luật và có quyền điều
chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật.
- Nhà nước có quyền ban hành các sắc thuế và thu thuế.
Vai trò của nhà nước:
- Ban hành pháp luật và văn bản dưới luật;
- Ban hành các chính sách kinh tế vĩ mơ, điều tiết, điều phối các chính
sách kinh tế - xã hội;
- Đầu tư, cung cấp sản phẩm, dịch vụ xã hội cơ bản ( cấp phép, kiểm
dịch, kiểm định, giám sát, kiểm tra,…);
- Gỉai quyết các vấn đề xã hội ( người già, trẻ em, người tàn tật…);
- Bảo vệ môi trường, giao thơng, phịng chống thiên tai, lũ lụt…
Bộ máy nhà nước được tổ chức thành các cơ quan nhà nước để thực hiện các
nhiệm vụ và chức năng Nhà nước. Có thể phân loại thành ba hệ thống cơ quan

5


Nhà nước, đó là hệ thống các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ
quan tư pháp.
- Hệ thông các cơ quan lập pháp là các cơ quan quyền lực Nhà nước, bao
gồm Quốc hội ( hoặc Nghị viện ) và các hội đồng địa phương.
- Hệ thống các cơ quan hành pháp là các cơ quan hành chính Nhà nước,
bao gồm Chính phủ ( hay Nội các ), các Bộ và cơ quan ngang Bộ, các
cơ quan trực thuộc Chính phủ, các chính quyền địa phương.
- Hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm các cơ quan xét xử ( các hệ

thống tòa án ) và các cơ quan kiểm sát ( ở các nước Xã hội chủ nghĩa )
Hình thức của Nhà nước được xác định thơng qua chính thể, cấu trúc lãnh thổ
và chế độ chính trị.
Hình thức theo chủ quyền:
- Nhà nước độc lập.
- Nhà nước lệ thuộc.
Theo nguyên thủ:
Machiavclliv ( 1469 – 1527 ) phân chia hình thức nhà nước theo cách thức mà
người đứng đầu nhà nước ( president of the state/ Staatsoberhaupt ) được lập
nên: Nhà nước Cộng hòa ( Republik ), tức người đứng đầu nhà nước qua bầu
cử và Nhà nước quân chủ ( Monarchie ), tức người đứng đầu nhà nước qua
cha truyền con nối.
➢ Nhà nước quân chủ:
- Nhà nước quân chủ tuyệt đối ( absolute Monarchie ); đây là hình thức
Nhà nước tập trung hồn toàn trong tay nhà vua ( nguyên thủ quốc gia )
theo nguyên tắc thế tập ( truyền ngôi ).
- Nhà nước quân chủ hạn chế ( konstitutionelle Monarchie ): còn gọi là
Nhà nước quân chủ lập hiến hay quân chủ đại nghị, quyền lực của nhà
Vua bị hạn chế, nhường quyền lực cho các thiết chế khác của Nhà nước
( Quốc hội, Nghị viện, Chính phủ ). Hiến pháp là văn bản thể hiện sự
hạn chế này.
➢ Nhà nước cộng hịa: Trong chính thể cộng hịa, ngun thủ quốc gia là
do bầu cử.

6


- Nhà nước cộng hịa q tộc: đây là hình thức Nhà nước trong dó các cơ
quan đại diện là do tầng lớp quý tộc bầu ra.
- Nhà nước cộng hịa dân chủ: đây là hình thức Nhà nước trong đó các cơ

quan đại diện là do nhân dân bầu ra. Hình thức này lại chia làm ba loại
dưới đây:
• Nhà nước cộng hịa đại nghị
• Nhà nước cộng hịa tổng thống
• Nhà nước cộng hịa lưỡng tính
Hình thức cấu trúc:
➢ Nhà nước đơn nhất: Trong Nhà nước hình thức này, hệ thống cơ quan
Nhà nước được tổ chức thống nhất từ trung ương tới địa phương, hệ
thống pháp luật thống nhất, các chính quyền địa phương hoạt động trên
cơ sở các quy định của chính quyền trung ương và thường được xem là
cấp dưới của chính quyền trung ương và thường được xem là cấp dưới
của chính quyền trung ương. Ví dụ: Việt Nam, Pháp, Trung Quốc.
➢ Nhà nước liêng bang: Trong Nhà nước hình thức này, ngồi hệ thống
pháp luật chung của tồn quốc, mỗi địa phương có thể có hệ thống cơ
quan Nhà nước chung, mỗi địa phương có thể có hệ thống cơ quan Nhà
nước riêng. Quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương là quan hệ đối đẳng. Ví dụ: Nhà nước liên bang Hoa Kì, Nhà
nước Cộng hịa liên bang Đức.
➢ Nhà nước liên hiệp ( hay còn gọi là nhà nước lien minh ): Đây là sự
lien kết tạm thời giữa các nhà nước để nhằm thực hiện một nhiệm vụ
nhất định. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ các nhà nước có thể trở thành
các nhà nước đơn nhất hoặc nhà nước lien bang.
Chế độ chính trị: Chế độ chính trị của nhà nước có hai dạng:
➢ Chế độ chính trị dân chủ;
➢ Chế độ chính trị phản dân chủ: bao gồm các hình thức Nhà nước phát
xít, Nhà nước độc tài, Nhà nước chuyên chế.
Kiểu nhà nước:
➢ Nhà nước chủ nô;
➢ Nhà nước phong kiến;
7



➢ Nhà nước tư bản;
➢ Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN TRONG ĐỜI SỐNG PHÁP LUẬT
Đời sống pháp luật là một hình thức của đời sống xã hội, được thể hiện phần
lớn trong các văn bản pháp luật và trong các quan hệ pháp luật, thể hiện các
đặc điểm và trình độ phát triển pháp luật của xã hội nhất định, quan hệ của
các chủ thể đối với pháp luật và mức độ làm thỏa mãn các lợi ích của các chủ
thể đó.
Đời sống pháp luật là tổng thể các loại và hình thức hoạt động và hành vi đa
dạng của mọi người, của các tập thể của họ trong lĩnh vực hoạt động của pháp
luật nhằm bảo đảm các điều kiện và phương tiện của sự tồn tại, của việc thực
hiện các lợi ích tư và các lợi ích cơng, các lợi ích cá nhân và các lợi ích nhóm,
của sự khẳng định các giá trị phù hợp với các lợi ích đó.
1. Bộ phận tích cực của đời sống pháp luật:
Đời sống pháp luật chứa đựng tổng thể tất cả các hiện tượng pháp lý, bao gồm
cả các bộ phận tích cực lẫn các bộ phận tiêu cực.
Các bộ phận tích cực gồm: chính sách pháp luật (cái phản ánh quyền con
người, các tư tưởng công bằng, nhân đạo, tự do,…); hệ thống pháp luật nói
chung; cơ chế điều chỉnh pháp luật; các văn bản pháp luật họp pháp (các hoạt
động hợp pháp, các kết quả của các hoạt động hợp pháp, các tài liệu pháp lý);
các hành vi pháp lý (với tư cách là một dạng của hành vi hợp pháp - của sự
kiện pháp lý) và các sự kiện với tư cách là sự kiện pháp lý; các chế độ pháp
luật và các phương tiện pháp luật cấu thành đầu tiên của chúng (các tru đãi,
các khuyến khích, sự cho phép, các điều cấm, hình phạt, nghĩa vụ,…); các
quan hệ pháp luật và thực tiễn pháp lý; ý thức pháp luật và văn hóa pháp luật;
khỗ học pháp lý; giáo dục và đào tạo pháp luật,..
2. Bộ phận tiêu cực của đời sống pháp luật:
Bộ phận của đời sống pháp luật bao gồm các hiện tượng tiêu cực, vi phạm

pháp luật như: các tội phạm và các vi phạm pháp luật khác; các chủ thể của
các tội phạm và của các vi phạm pháp luật khác và cơ cấu của tình hình tội
phạm; tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn; sự biến dạng của ý thức
8


pháp luật; tình trạng coi thường pháp luật; chủ nghĩa duy tâm, chính sách mị
dân, những sai lầm trong pháp luật và những yếu tố khác cản trở hoạt động
pháp lý tích cực,....
3. Yếu tố tác động đến đời sống pháp luật
Xét trên phương diện lý luận và thực tiễn có nhiều yếu tố khác nhau tác động
đến dịng chảy của đời sống pháp luật. Đó là: những yếu tố kinh tế - tài chính,
tổ chức - vật chất, chính trị - tư tưởng, tôn giáo - đạo đức, lịch sử - dân tộc, tư
tưởng - văn hóa, giai cấp - xã hội, thông tin - kỹ thuật, khoa học - tinh thần,
địa lý - tự nhiên và các yếu tố khác.
Chẳng hạn, các điều kiện khí hậu và địa lý của một đất nước cụ thể, tất yếu, sẽ
để lại dấu ấn của mình trong tính chất của các tập quán, trong bản chất của
các văn bản pháp luật. Khơng một ai có thể phủ định được vai trị của các
nguồn lực kinh tế - tài chính và tổ chức - vật chất với tư cách là các bảo đảm
quan trọng nhất cho các quy định và các cơ chế pháp lý.
Chẳng hạn, điện tốn hóa và các phương tiện khác của q trình thơng tin tạo
điều kiện cho việc xây dựng các hệ thống pháp luật thông tin - các hệ thống
cho phép sử dụng có nghiệp vụ, chuyên nghiệp và hiệu quả hơn các khả năng
pháp lý. Tính chất và nội dung của đời sống pháp luật ở mức độ đáng kể được
phân biệt với nhau tùy thuộc vào cơ cấu xã hội của xã hội, mức độ căng thẳng
trong các quan hệ giai cấp, dân tộc và tôn giáo. Rõ ràng rằng, trong nhà nước
dân chủ thực thụ, mà nhân dân có thể tác động một cách hiện thực đến quyền
lực, nơi mọi người dân có được các địn bẩy pháp lý cần thiết, thì trong đời
sống pháp luật sẽ có sự đồng thuận, đồn kết và kỷ luật, pháp chế hơn.
Để tham gia tích cực và có hiệu quả vào đời sống pháp luật, cần phải có

những hiểu biết, năng lực và kỹ năng, tính thẩm quyền và tính nghề nghiệp
của các chủ thê’ thực hiện hoạt động pháp lý, bởi vì, "lĩnh vực pháp luật là thế
giới chỉnh thể có ngơn ngữ, hệ thống các khái niệm, các truyền thống, lịch sử,
văn hóa của mình".
Do đó, đời sống pháp luật tùy thuộc vào mức độ hiểu biết hiến pháp, các luật
và các văn bản dưới luật của các chủ thể của xã hội, vào trình độ phát triển ý
thức pháp luật của xã hội, vào tính tích cực pháp lý - xã hội của những con
người cụ thể. Do đó, sự hiểu biết pháp luật của nhân dân là một bộ phận cấu
thành của đời sống pháp luật. Nhân dân cần phải hiểu biết tốt nhất các luật và
các văn bản quy phạm pháp luật khác của đất nước mình. Nếu như con người
9


muốn nhìn thấy các quyền cá nhân của mình được bảo đảm, được thực hiện,
được bảo vệ, thì bằng ý thức pháp luật của mình, con người có trách nhiệm
tham gia vào đời sống pháp luật của xã hội và thấu hiểu đời sống đó.
4. Bàn luận về hai bộ phận của đời sống pháp luật
Qua nghiên cứu cho thấy, từ trước đến nay trong khoa học pháp lý chưa có
phạm trù nào bao qt hết tồn bộ lĩnh vực tồn tại của pháp luật với tất cả các
biểu hiện tích cực và tiêu cực của nó. Các biểu hiện tích cực và tiêu cực được
phân biệt với nhau theo bản chất và định hướng, ví dụ, vói tư cách là hành vi
hợp pháp và hành vi vi phạm pháp luật. Tuy vậy, theo tính chất của mình, các
hành vi pháp luật thể hiện với tư cách là các bộ phận hợp thành của môi
trường pháp luật, là các bộ phận của lĩnh vực pháp luật. Cần phải hiểu rằng,
"sự khác biệt cơ bản trong phạm vi của hành vi pháp luật - đó là sự khác biệt
giữa hành vi hợp pháp và hành vi vi phạm pháp luật".
Đồng ý với quan điếm cho rằng, "hành vi chống đọi pháp luật cũng là hành vi
pháp luật (nhưng không hợp pháp), cũng giống như các văn bản không đúng
pháp luật cũng được gọi là các văn bản pháp luật". Ở đây khơng phải nói về
tính hợp pháp hoặc tính khơng hợp pháp, mà là nói về việc quy các hiện

tượng pháp luật tiêu cực về các hiện tượng pháp luật, không phải nói về pháp
luật là như vậy, mà là nói về sự tồn tại pháp lý, về hình thức đặc thù của hoạt
động sống, về các hiện tượng bao gồm trong đó cả phần tiêụ cực. "Đời sống
pháp luật trong nội dung của mình bao gồm cả các hoạt động của cái được gọi
là pháp luật "bất hợp pháp" và các biểu hiện trái pháp luật khác nhau. Bệnh lý
học pháp luật ở nghĩa này cũng là một phần của đời sống pháp luật, là một bộ
phận họp thành của nó".
Mọi đời sống, khơng tùy thuộc vào hình thức của nó, khơng chỉ chứa đựng
các biểu hiện cấu trúc, tích cực, bởi vì, nó bao gồm trong mình tất cả các biểu
hiện có thể có, sự tồn tại hiện thực của các xu hướng khác nhau, các loại hành
vi khác nhau, với tất cả các đặc điểm tích cực và tiêu cực của chúng.
Như phân tích ở trên cho thấy, trong mối liên hệ này, khái niệm "đời sống
pháp luật" cho phép tiếp cận đến hiện thực pháp luật cả ở hai phương diện
tích cực và tiêu cực. Cách tiếp cận như vậy là cần thiết, bởi vì, nó bảo đảm
tính chinh thể, tồn diện của các hiện thực pháp luật. Do vậy, điều quan trọng
là phải nhìn thấy trong đời sống pháp luật khơng chỉ các điểm tích cực mà cịn
cả các điểm tiêu cực. Chính vì vậy mà pháp luật và toàn bộ hệ thống pháp luật
10


có nhiệm vụ đấu tranh với các hiện tượng pháp luật tiêu cực. Phạm trù đời
sống pháp luật đưa ra khả năng xem xét đời sống pháp luật đang tồn tại không
phải chỉ thông qua màu hồng, những đặc điểm tích cực, mà phải xem xét một
cách tổng thể, tồn diện về đời sống pháp luật đang tồn tại với các thành tựu
và mất mát, thành tích và thất bại, sự hoàn thiện và các sai lầm, những mặt
mạnh và mặt yếu của nó.
Từ đây có thể thấy rằng, khơng phải ngẫu nhiên mà trong sự phát triển của
đời sống pháp luật có hai định hướng đối lập trực tiếp lẫn nhau được hiện rõ
là: một định hướng gắn liền với việc tổ chức các mối liên hệ xã hội, trong đó
có sự trợ giúp của chính sách pháp luật; định hướng khác gắn liền vói tính phi

tổ chức các mối liên hệ xã hội. Trong đời sống pháp luật có cả sự hài hịa, cân
đối giữa các yếu tố của nó, nhưng cũng có cả sự khơng đồng bộ nhất định,
tính khơng phối họp, sự vi phạm tính cân bằng.
Giữa các bộ phận tiêu cực và tích cực của đời sống pháp luật luôn luôn diễn
ra cuộc đấu tranh thường xuyên, sự cạnh tranh đặc thù. Quan trọng là cần phải
nhận thức được rằng, không thể khắc phục được hoàn toàn bộ phận tiêu cực
trong đời sống pháp luật. Lịch sử cho thấy rằng, chưa có một hệ thống pháp
luật nào đã khắc phục được hồn tồn tình hình tội phạm và các biểu hiện
khác của hiện thực pháp lý tiêu cực. Chỉ có thể giảm thiếu, chứ khơng thê’
chiến thắng được hồn tồn tình hình tội phạm và các biểu hiện pháp luật tiêu
cực khác. Theo mức độ tuyệt đối, khơng một ai có thể khắc phục được hồn
tồn tình hình tội phạm và các vi phạm pháp luật khác.
5. Mối quan hệ giữa các bộ phận của đời sống pháp luật
Nghiên cứu cho thấy, như một nghịch lý, cả bộ phận tích cực lẫn bộ phận tiêu
cực của hiện thực pháp luật, theo cách của mình, bổ sung cho nhau (như ngày
và đêm, như mùa hè và mùa đông). Hơn thế, đời sống pháp lý tiêu cực có cả ý
nghĩa tích cực nhất định đối với xã hội. Và có thể đặt câu tục ngữ đúng chỗ ở
đây rằng, "trong điều rủi có điều may". Chẳng hạn, ở đây muốn nói về các
tình huống sau đây:
- Về mặt thực tế, tất cả các tư tưởng cách mạng làm thay đổi về chất các quan
hệ xã hội, lúc đầu ra đời trong phạm vi bộ phận tiêu cực (khơng chính thức)
của đời sống pháp luật. Chẳng hạn, các tư tưởng quyền con người, tự do, cơng
bằng, bình đẳng đối với các thân dân lúc đầu không được ghi nhận trong pháp
luật chiếm hữu nô lệ và pháp luật phong kiến. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ
11


và xã hội phong kiến các giá trị đạo đức tiến bộ đó bị coi là tà giáo, nhưng
trong xã hội tư sản các giá trị đạo đức tiến bộ đó được đưa vào pháp luật từ
lĩnh vực khơng chính thức.

- Bộ phận tiêu cực của đời sống pháp luật tạo ra những xung lực mới cho sự
phát triển và hoàn thiện đời sống pháp luật hợp pháp. Những chỗ hổng, những
hạn chế, những sai sót, những sai lầm, các tội phạm mới thể hiện với tư cách
là các yếu tố thuộc bộ phận tiêu cực của đời sống pháp luật, khuyến khích
việc tìm kiếm thuốc chữa, phát minh ra các cấu trúc, các quy tắc, các phương
diện pháp lý mới. Do vậy, hồn tồn đúng khi nói rằng, cần học hỏi những
kinh nghiệm trong sai lầm, thất bại. Chẳng hạn, việc những người phạm tội sử
dụng công nghệ cao để thực hiện tội phạm đã thúc đẩy việc phải đổi mói
tương ứng các cơ quan bảo vệ pháp luật.
- Bộ phận tiêu cực của hiện thực pháp luật, cũng giống như bộ phận hợp pháp,
cũng là định hướng mà chính sách pháp luật hướng đến. Ví dụ, khi trong một
quốc gia nhất định có một số lượng lớn những người bị kết án, thực trạng các
tội phạm nghiêm trọng gia tăng,…, thì nhà nước cần phải có các biện pháp
tương ứng: trong trường họp thứ nhất, có thể tiến hành việc đại xá, đặc xá,
đưa ra chính sách giảm nhẹ, phản ứng một cách mềm dẻo hơn bằng hệ thống
các biện pháp hình sự đối với các tội phạm này hay các tội phạm khác; trong
trường hợp thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp
luật, tăng mức hình phạt, quy định các loại hình phạt nghiêm khắc hơn,...
Có thể và cần phải đấu tranh với bộ phận tiêu cực của đời sống pháp luật. Tuy
vậy, cần tiến hành đấu tranh một cách tinh tế, mềm dẻo, khéo léo. Ở đây
không thể giải quyết được vân đề bằng ý chí chủ quan, bằng cuộc đột kích,
bằng phong trào. Cần phải hiểu biết các quy luật thực hiện của hiện thực pháp
luật tiêu cực đó.
CHƯƠNG III: NHỮNG MỐI QUAN HỆ ĐẶT RA GIỮA NHÀ
NƯỚC VÀ TRONG ĐỜI SỐNG PHÁP LUẬT
Đời sống pháp luật thường xuyên chịu sự chi phối, tác động mạnh mẽ của
hang loạt những nhân tố khách quan và chủ quan thuộc lĩnh vực khác nhau từ
chính trị, kinh tế, xã hội, tự nhiên; văn hóa, tâm lý, đạo đức; tư tưởng; lối
sống; kỹ thuật, khoa học và công nghệ,…


12


1. Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế
Thị trường và luật pháp, thị trường và nhà nước pháp quyền; thương mại và
đạo đức, cơng bằng... liệu có phù hợp với nhau? Nếu như các quan hệ thị
trường được xác lập trong pháp luật đảm bảo tự do và cơng bằng được vận
hành trong hàng lang pháp lý thì khơng có sự đối lập nào giữa thị trường,
thương mại và pháp luật. Sự phát triển của thị trường - pháp luật trong điều
kiện đó chính là biểu hiện của q trình dân chủ thống nhất. Từ triết lý đó mà
xác định vai trò của pháp luật đối với kinh tế thời nay. Tất nhiên, mọi sự đều
mang tính tương đối.
Pháp luật phải được đổi thay căn bản. Sự thay đổi trước hết phải bắt đầu từ
các nhà làm luật. Nhiệm vụ của nhà làm luật là phải xác định được các giới
hạn, các phương thức của điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ, các hoạt
động kinh tế. Pháp luật của nhà nước pháp quyền phải xác định cho các cá
nhân, tổ chức một phạm vi tự do hoạt động, phạm vi xác định không chỉ
những hành vi cần thiết mà cịn là những hành vi có thể. Pháp luật phải thực
sự là đại lượng của công bằng, lẽ phải, là đại lượng (phạm vi) như nhau đối
với những người khác nhau - phạm vi tự do trong khuôn khổ pháp luật. Pháp
luật cần quy định rõ ràng, minh bạch về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các
cá nhân và tổ chức; quy định hợp lý giữa tự do và trách nhiệm, giữa cái bị
cấm và cái được phép làm để từng bước thực hiện các nguyên tắc của pháp
luật trong nhà nước pháp quyền “được làm tất cả những gì luật khơng cấm”
và “chỉ được phép làm những gì luật cho phép”. Tiêu chí cơ bản về hệ thống
pháp luật đúng, tốt sẽ là hệ thống pháp luật nêu được những phương án cho sự
lựa chọn các hành vi xử sự phù hợp quy luật khách quan, phù hợp hài hồ các
loại lợi ích cá nhân, cộng đồng và xã hội, thể hiện các giá trị chân – thiện –
ích - mỹ. Pháp chế thời nay cũng phải được hiểu, được đánh giá và thực hành
theo bộ cơng cụ kiểm định đó.

2. Mối quan hệ giữa pháp luật và cá nhân
Đây là một trong những công cụ cơ bản về điều chỉnh hành vi và các quan hệ
xã hội, pháp luật không thể liên quan đến con người – chủ thể sáng tạo, thực
hành pháp luật. Nhưng có gì khác nhau khi đặt vấn đề: “nhà nước và cá nhân”
với “pháp luật và cá nhân”?. Trong khi lý luận lâu nay đã khẳng định mối
quan hệ biện chứng không thể thiếu nhau của nhà nước và pháp luật, ấy là
13


chưa kể đến việc pháp luật thì lại cũng do nhà nước định ra, “được nhà nước
đảm bảo thực hiện”...? Bên cạnh những điểm tương đồng, thống nhất, ví như
khi đề cập đến “nhà nước” thì khơng thể khơng đề cập đến pháp luật trong
mối quan hệ với cá nhân. Đã lựa chọn như một tất yếu là xây dựng nhà nước
pháp quyền, phát triển xã hội theo lý tưởng nhà nước pháp quyền thì cần phải
đi sâu nghiên cứu, khảo sát mối quan hệ giữa pháp luật và cá nhân, một pháp
luật nhân văn vì con người và bởi chính con người – chủ thể sáng tạo và hồn
thiện pháp luật. Mọi tư duy, hành động coi nhà nước cao hơn pháp luật, chỉ
huy, định đoạt tuyệt đối hay bất chấp pháp luật đều phải bị dỡ bỏ. Cả bên
trong và bên ngoài với xã hội, nhà nước đều được pháp luật quy định, có thể
nói một cách hình ảnh - nhà nước là một chế định pháp luật bao quát nhất,
một "đại chế định pháp luật". Chỉ khi nào nhà nước được thiết lập như một tổ
chức pháp lý hoạt động trên cơ sở pháp luật và phục tùng pháp luật thì khi đó
tư tưởng nhà nước pháp quyền mới thực sự trở thành hiện thực.
Pháp luật thời hiện đại cần kết hợp hài hoà những phẩm chất tự nhiên của cá
nhân với tư cách là một thực thể tự nhiên, sinh học và xã hội, cần hài hoà cả
hai mặt để trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật. Thực hiện nguyên tắc
được làm tất cả những gì luật khơng cấm và kết hợp với ngun tắc đạo đức
sẽ đảm bảo việc thực hiện yêu cầu đó. Chuyên sâu về vấn đề này xin được để
ở một diễn đàn khoa học khác.
3. Mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị

Đây là một vấn đề phức tạp, đa dạng, xét một cách chung nhất, chính trị thể
hiện các mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp, các nhóm lợi ích; các dân
tộc, đảng phái; các tôn giáo; các quốc gia, sự tham gia của con người vào hoạt
động của các thiết chế nhà nước và xã hội. Xu hướng của thế giới đương đại
là nhà nước ln phải ghi nhận, tìm kiếm sự đồng thuận của các thiết chế xã
hội. Sự đa dạng về đời sống chính trị khơng làm mất đi vị thế quyền lực vốn
có của nhà nước. Chính trị là hiện tượng xã hội rộng hơn nhiều so với hoạt
động của nhà nước. Bên cạnh các thiết chế chính trị truyền thống như các
đảng chính trị, thời hiện đại ngày càng có thêm nhiều thiết chế xã hội khác. Sẽ
là cần thiết khi đặt vấn đề nghiên cứu, khảo sát về mối quan hệ giữa pháp luật
và xã hội dân sự song hành cùng mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội dân sự.
Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự đều cùng vận hành trong khuôn khổ
14


pháp luật, mặc dù xã hội dân sự đa dạng, phức tạp hơn nhiều. Không thể đề
cập đến nhà nước pháp quyền hay chính trị mà lại thiếu vắng xã hội dân sự
được. Đồng thời, mối quan hệ giữa pháp luật và chính sách cũng là điều
khơng thể khơng nghiên cứu. Lấy chính sách thay cho pháp luật hoặc bỏ qua
chính sách đều khơng thể được.
4. Mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước
Xây dựng nhà nước pháp quyền đã đem đến nhiều vấn đề cần phải đổi mới
quan niệm, phải tư duy lại, trong đó có vấn đề mối quan hệ giữa nhà nước và
pháp luật. Trong việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề xã hội, cần quan tâm
lý giải mối quan hệ hữu cơ giữa các hiện tượng nhà nước - con người - pháp
luật, và “đó là những vấn đề khơng thể xem xét trong sự tách rời nhau”. Nhà
nước và pháp luật trong thực tiễn sinh động nhiều khi có thể đi theo các
hướng khác nhau, mâu thuẫn với nhau ở những mức độ nhất định tuỳ thuộc
vào các điều kiện, hoàn cảnh khách quan và chủ quan. Mâu thuẫn là tất yếu
của các sự vật, hiện tượng ở trong một thể thống nhất. Nhà nước và pháp luật

cũng không thể là ngoại lệ với quy luật khách quan ấy. Biện chứng của mối
quan hệ giữa nhà nước và pháp luật là sự tác động của nhà nước đối với pháp
luật không phải là tuyệt đối và ngược lại.
Trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật không chỉ
quan tâm đến sự thống nhất nội tại, sự cần thiết có nhau của nhà nước và pháp
luật mà còn phải xem xét đến sự khác biệt, sự khơng tương thích, hay những
mâu thuẫn tất yếu của nhà nước và pháp luật. Sự không tương xứng với nhau
của nhà nước và pháp luật được thể hiện ở rất nhiều vấn đề cụ thể, ví như sự
khơng phù hợp giữa cơ cấu, tổ chức của nhà nước với hoạt động xây dựng
pháp luật, áp dụng, giải thích, phổ biến, giáo dục pháp luật. Trình độ, nhận
thức, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ áp dụng pháp luật nhiều khi lạc hậu so
với lý luận khoa học và thực tiễn, thậm chí với chính các quy định pháp luật
mới. Trong điều kiện hiện nay, sự tương xứng giữa vai trò và năng lực là vô
cùng quan trọng trong mọi hoạt động của nhà nước và xã hội. Trong thực tiễn,
việc chăm lo xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước phải thực hiện song
song, đồng bộ với việc hoàn thiện pháp luật, tổ chức thực thi pháp luật.

15


Trong xây dựng văn bản pháp luật, thể hiện mối quan hệ nhà nước và pháp
luật chính là việc quy định rõ không những chỉ về nội dung – các quyền,
nghĩa vụ hay chế tài mà còn phải quy định rõ ràng, minh bạch về cơ chế thực
hiện, chế độ trách nhiệm trong lĩnh vực pháp luật tương ứng. Trong áp dụng,
thực hiện pháp luật nói chung, yêu cầu đặt ra là sự tương xứng giữa quy định
pháp luật với năng lực, phẩm hạnh và kỹ năng của các chủ thể tương ứng. Ví
như các quy định về dân chủ, tự do phải được thực hành bởi những con người
yêu tự do, dân chủ, có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội và với chính bản
thân mình.


KẾT LUẬN
Chạy theo nhịp độ phát triển của xã hội là sự phát sinh những quan hệ xã hội
được pháp luật bảo về. Bởi vậy mà nhu cầu của xã hội càng cao thì đòi hỏi
con người phải đưa ra những quy tắc để điều chirng và thực hiện. Từ đó,
chúng ta thấy rằng “cung-cầu” trong xã hội này. Từ việc đăng ký giấy khai
sinh, đăng ký kết hôn, làm nhà ở, mua đất, thành lập doanh nghiệp, tham gia
giao thông,…kể cả quan hệ mua bán dân sự được thực hiện bằng lời nói. Tất
cả đều thể hiện sự có mặt của pháp luật. Luật giống như một bầu trời bao trùm
lên tất cả lĩnh vực, quan hệ, mọi lứa tuổi, tầng lớp.
Pháp luật và nhà nước là hai thành tố của thượng tầng chính trị - pháp lý, ln
có mối quan hệ khắng khít, khơng thể tách rời nhau. Cả hai hiện tượng pháp
luật và nhà nước đều có nguồn gốc cùng phát sinh và phát triển.
Mối quan hệ giữa nhà nước và trong đời sống pháp luật từ lâu nay luôn là mối
quan tâm của nhiều người. Nhà nước và đời sống pháp luật ln có mối quan
hệ đặc biệt trong lý luận và thực tiễn. Thực tiễn cho thấy, khi chưa có một hệ
thống quy phạm pháp luật về tổ chức đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác
để làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước thì dễ dẫn đến
tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm
quyền của một số cơ quan nhà nước, bộ máy sẽ sinh ra cồng kềnh và kém
hiệu quả.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.


Gíao trình Lý luận Nhà nước và pháp luật
Bách khoa tồn thư trực tuyến
Cơng ty Luật TNHH Minh Khuê
Tạp chí Tuyên giáo
Tạp chí Cộng sản

17



×