Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Thừa kế thế vị theo quy định pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.29 MB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT DÂN SỰ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH
CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ
TIỂU LUẬN
THỪA KẾ THẾ VỊ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, vấn đề thừa kế là
một vấn đề quan trọng và rất được mọi người quan tâm. BLDS 2015
đã nêu rất đầy đủ các quy định về thừa kế bao gồm thừa kế theo
pháp luật và thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên trong đó vẫn còn nhiều
vướng mắt chưa được làm rõ dẫn đến việc giải quyết tranh chấp
trong thừa kế vẫn còn bị hạn chế. Thừa kế thế vị chính là một trong
những vấn đề cịn nhiều hạn chế và thiếu sót khiến cho việc áp dụng
vào thực tế khá khó khăn.
Thừa kế thế vị thực chất là để bảo vệ quyền nhận di sản cho
cháu, chắt có cha, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
để lại di sản nếu cháu, chắt còn sống ở thời điểm mở thừa kế. Thừa
kế thế vị quy định trong BLDS 2015 chỉ được nêu một cách khiêm
tốn, chung chung không rõ ràng khiến việc áp dụng cho các vụ án
còn nhiều hạn chế. Hằng năm các vụ án về thừa kế không được giải
quyết rõ ràng mà phải xét xử nhiều lần làm tốn rất nhiều thời gian
nhưng lại khơng mang tính thuyết phục cao do các quy định pháp
luật về thừa kế chưa được thống nhất. Đặc biệt trong xã hội phát
triển ngày nay, tài sản của con người ngày càng nhiều, càng phức
tạp cùng với các quy định lại chưa được đồng bộ, không rõ ràng dẫn


đến các tranh chấp về tài sản khó giải quyết. Trên thực tế cũng có
rất nhiều ý kiến khác nhau bình luận về vấn đề này nhưng vẫn chưa
được thống nhất vì vậy cần nhanh chóng đưa ra giải pháp ổn thỏa để
bù đắp vào những thiếu sót giúp việc xét xử khơng bị lưu động và
mang tính thuyết phục cao.
Xuất phát từ lý do đó, thừa kế thế vị là một vấn đề cấp thiết
trong lý luận và thực tiễn cần được làm rõ về các quy định cũng như
cần được hoàn thiện trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam để có
được cái nhìn bao qt, tồn diện, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của mỗi người, dễ dàng giải quyết được các tranh chấp thừa kế
cũng như nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án.
2. Ý nghĩa lý luận và cấu trúc tiểu luận
Bài tiểu luận nhằm phân tích những quy định trong pháp luật và
tìm ra những bất cập, hạn chế trong quy định thừa kế thế vị. Góp ý


về những biện pháp khắc phục góp phần hồn thiện hệ thống pháp
luật giúp việc giải quyết vụ án được thống nhất, bảo đảm tính cơng
bằng và quyền lợi cho chủ thể.
Bài viết gồm phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết
luận và nội dung, trong đó nội dung gồm 3 chương là:
Chương 1: Khái quát về thừa kế thế vị
Chương 2: Quy định pháp luật dân sự Việt Nam về thừa kế thế vị
Chương 3: Những mặt hạn chế và cách khắc phục


CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ
1.1. Khái quát về thừa kế
Trong thời kỳ công xã nguyên thủy, khi xã hội chưa phân giai

cấp, chưa có nhà nước, lồi người sống liên kết với nhau trong lao
động tập thể và trong đấu tranh sinh tồn. Chính vì thế, trong xã hội
ngun thủy khơng có chiếm hữu tư nhân, khơng có người bốc lột và
khơng có bộ máy chính quyền. Do đời sống thấp kém nên tạo nên sự
hợp tác trong lao động, sự bình đẳng về quyền sở hữu ngang nhau.
Khi có người qua đời tài sản của họ sẽ được chuyển lại cho cộng
đồng. Trải qua quá trình phát triển của xã hội, loài người đã biết tạo
ra tư liệu lao động dùng phục vụ cho hoạt động xã hội, kinh doanh.
Từ đó dẫn đến xuất hiện sản phẩm thừa trong xã hội, những người
có địa vị lợi dụng chức phận chiếm đoạt của cải dẫn đến hình thành
sự phân hóa giàu nghèo đồng thời cũng nảy sinh những mâu thuẫn
giai cấp địi hỏi phải có một chế độ chính trị quyền lực cùng với quy
tắc xử sự mang tính bắt buộc chung được đảm bảo bằng sức mạnh
cưỡng chế. Vì thế nhà nước và pháp luật được ra đời, đầu tiên là chế
độ sở hữu tư nhân được xác lập. Lúc này, khi một người ra đời họ
không để lại tài sản cho cộng đồng mà để lại cho một số người có
quan hệ gần gũi nhất với họ. Quá trình tài sản di chuyển từ người
này sang người khác gọi là thừa kế.
Khi có người mất thì phần tài sản của người đó mới được dịch
chuyển cho người khác. Phần tài sản được kế thừa sẽ được xử lý
theo nguyện vọng của người đã mất hoặc theo quy định pháp luật.
Nếu tài sản dịch chuyển dựa trên ý chí người đã mất thì được gọi là
thừa kế theo di chúc, còn nếu tài sản dịch chuyển theo điều kiện,
trình tự của luật pháp quy định thì được gọi là thừa kế theo pháp
luật.
Thừa kế được thực hiện khi xác định được đối tượng hưởng
quyền thừa kế tài sản của người đã mất cũng như thấy quyền sở hữu
tài sản của người này được chuyển cho người khác. Qua đó ta hình
dung sở hữu và thừa kế có mối quan hệ xoay quanh lẫn nhau. Cá
nhân khi đã sở hữu của cải vật chất một cách hợp pháp thì người đó

có quyền sử dụng chúng cho mục đích của bản thân. Sau đó khi


chết, những của cải của họ sẽ được chuyển lại cho cá nhân hay tập
thể khác theo quyền định đoạt của họ hoặc theo quy định pháp luật.
Người nhận di sản sẽ phải thực hiện các quyền cũng như các nghĩa
vụ đối với tài sản mà họ nhận được nhằm bảo vệ và phát huy giá trị
của tài sản đó.
Thừa kế và sở hữu luôn tồn tại song song và gắn bó chặt chẽ
với nhau trong mọi hình thái kinh tế xã hội. Thừa kế và sở hữu là một
vòng luân chuyển tuần hoàn của cải vật chất từ người này sang
người khác. Thừa kế là tiền đề để sở hữu duy trì và phát sinh quan
kế thừa giữa người lại để lại di sản và người nhận di sản. Thừa kế và
sở hữu giúp cho nền kinh tế phát triển, xác định địa vị trong xã hội.
Thừa kế đảm bảo quyền lợi sở hữu cho các chủ thể trong các mối
quan hệ. Như vậy, sở hữu và thừa kế có mối quan hệ mật thiết và hỗ
trợ cho nhau làm cho xã hội ln được duy trì và phát triển.
1.2. Khái niệm và đặc điểm thừa kế thế vị
1.2.1.

Khái niệm thừa kế thế vị

Đầu tiên có thể hiểu đơn giản “thế” là thay thế, “vị” là vị trí,
ngơi vị. Thế vị có nghĩa là thay thế vị trí của một ai đó. Theo Điều
739 BLDS nước Cộng hịa Pháp định nghĩa: “Thế vị là một giả định
của luật mà hiệu quả là đưa những người thế vị vào vị trí, vào bậc và
hưởng các quyền của người bị thay thế”.
Điều 680 BLDS 1995 quy định: “Trong trường hợp con của người
để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống;

nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Điều 652 BLDS 2015: “Trong trường hợp con của người để lại di sản
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu
còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với
người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ
của chắt được hưởng nếu còn sống”.Qua hai điều trên ta thấy được
so với BLDS 2015 thì BLDS 1995 không quy định về thừa kế thế vị
khi cháu hoặc chắt có bố, mẹ chết cùng thời điểm với người để lại di
sản. Điều này hồn tồn khơng phù hợp vì thừa kế thế vị là một quy


định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các thế hệ cháu, chắt, như
một điều gián tiếp cho cháu, chắt có quyền thế chân hưởng di sản từ
ơng bà hoặc các cố cũng như để phần di sản ấy khơng bị rơi vào tay
người khác.
Như vậy có thể hiểu thừa kế thế vị là việc mà người khác có thể
thay thế vị trí người vốn dĩ được thừa kế di sản để nhận phần di sản
đó. Nhưng để có thể nhận được di sản thì người thế vị phải còn sống
ở thời điểm mở thừa kế và người vốn dĩ được hưởng di sản phải chết
trước hoặc chết cung thời điểm khi người để lại di sản mất. Người để
lại di sản trong trường hợp này là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, cụ nội, cụ ngoại. Khi cháu nội, cháu ngoại hoặc chắt nội, chắt
ngoại có bố mẹ chết trước hay chết cùng thời điểm với ông bà hay
các cụ thì cháu hoặc chắt sẽ được hưởng phần di sản do ơng bà hay
các cụ để lại.
Ví dụ 1: Trường hợp cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản
của ơng, bà:
T và H có hai người con là M và S, M kết hôn với A và có một

người con là G. Năm 1990, M chết. Năm 1995, T và H chết và không
để lại di chúc. Như vậy phần tài sản của T và H sẽ được phân chia
theo quy định pháp luật. Trong đó, M và S là người thừa kế. Nhưng
do trong trường hợp này M chết trước T và H nên M trở thành người
bị thay thế nhận di sản. G là cháu trở thành người thừa kế thế vị
Ví dụ 2: Trường hợp chắt thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản
của cụ:
Cụ M và N có 3 người con là ông A, bà B và bà C. A kết hơn với
D có con là P, C kết hơn với O có con là L. L kết hơn với K có con là V.
Năm 2005, A, L, C chết do tai nạn. Sau đó năm 2008 cụ M chết
khơng để lại di chúc. Vậy trong trường hợp này là thừa kế theo pháp
luật. Nên A, B, C, N là người thừa kế. Nhưng do A chết trước cụ M
nên phần di sản của A sẽ do P thừa kế, C cũng chết trước cụ M nên
phần di sản của C do L thừa kế. Tuy nhiên, L chết cùng thời điểm với
C nên theo pháp luật, di sản của C sẽ do V thừa kế.
1.2.2.

Đặc điểm


Thứ nhất, thừa kế thế vị chỉ áp dụng đối với trường hợp thừa
kế theo pháp luật, không áp dụng trong trường hợp thừa kế theo di
chúc.
Vì theo Điều 624 BLDS 2015:“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Di chúc được thực hiện theo quyền định đoạt của chủ thể đã chết, là
di nguyện thể hiện ý chí của chủ thể vì thế nếu thừa kế thế vị áp
dụng trong trường hợp theo di chúc thì sẽ khơng tơn trọng ý chí của
chủ thể làm phá vỡ nguyên tắc vốn có của di chúc. Người lập di chúc
có quyền chỉ định bất cứ ai nhận tài sản và giao nghĩa vụ cho họ.

Trong trường hợp người được nhận tài sản theo di chúc chết trước
người lập di chúc thì con cháu của họ khơng được nhận phần di sản
đó nhằm bảo vệ đúng ý chí của người lập di chúc.
Còn đối với các thừa kế theo pháp luật dựa trên các quy định
đối tượng thừa kế từ đó ra suy ra được người thừa kế thế vị. Ở mỗi
thời điểm khác nhau mối quan hệ đó sẽ được quy định khác nhau:
Giai đoạn 1956-1968, theo hướng dẫn trong Thông tư số 1742-BNC
ngày 18-9-1956 của Bộ Tư pháp, người thuộc diện thừa kế bao gồm:
Vợ, chồng, các con đẻ, các con nuôi, các cháu, các chắt, cha, mẹ và
những người thừa kế khác. Giai đoạn 1968-1990, theo hướng dẫn
trong Thông tư số 954-NCPL và Thông tư số 81-TANDTC của Tòa án
nhân dân tối cao, diện thừa kế bao gồm: Vợ góa (vợ cả góa, vợ lẽ
góa); con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi; ông
bà nội ngoại; anh, chị, em nuôi của người để lại di sản. Giai đoạn
1990-1995, theo qui định tại PLTK (1990), diện thừa kế khơng có tất
cả những người theo Thông tư số 81 đã xác định, mà còn bao gồm
những người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ khác, đó
là: Cụ nội, cụ ngoại, chú, bác, cơ, dì, cậu ruột của người để lại di sản
và cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột,
dì ruột. Giai đoạn từ 1995 đến nay: khi BLDS được ban hành (có hiệu
lực từ ngày 1-7-1996), diện thừa kế theo pháp luật cũng bao gồm
những người như PLTK trước đây đã quy định. 1 Điều 676 BLDS 2005
và Điều 651 BLDS 2015 đều quy định: “…Hàng thừa kế thứ nhất
gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người chết;…”. Người đáng ra được nhận di sản là người thuộc
1 tham khảo ngày 07/11/2021


hàng thừa kế thứ nhất và là con của người để lại di sản. Thừa kế
theo hàng thừa kế và thừa kế thế vị có nét giống nhưng cũng khác

nhau. Quan hệ thừa kế theo hàng là sự phân chia di sản theo từng
hàng một dựa trên Điều 651 BLDS 2015 từ những người có quan hệ
gần nhất cho đến những mối quan hệ xa hơn trong khi thừa kế thế vị
chỉ dựa trên các bậc của quan hệ chiếu từ trên xuống dưới: cụ - ông,
bà - bố, mẹ - con (cháu) - cháu (chắt). Dựa trên hàng thừa kế ta biết
được người thế vị .Vốn dĩ thừa kế là nhằm bảo vệ quyền lợi của
những người trong gia đình. Mỗi quốc gia với phong tục tập quán
khác nhau sẽ có các quy định khác nhau về thừa kế.
Thứ hai, Người thừa kế thế vị chỉ có thể được hưởng di sản nếu
bố, mẹ hoặc ông bà của họ được quyền hưởng di sản.
Điều 887 BLDS Nhật Bản quy định con của người để lại di sản là
người thừa kế nếu con của người để lại di sản chết trước, bị truất
quyền thừa kế trước thời điểm mở thừa kế do thuộc các trường hợp
không được hưởng quyền thừa kế quy định tại Điều 891 hoặc do
phán quyết của Tịa án thì con cái của người đó được hưởng thừa kế
thay. [..]Quy định này tương tự với quy định thừa kế thế vị của BLDS
Việt Nam. Cả hai đều đề cập đến việc bảo vệ quyền hưởng tài sản
của cháu khi bố, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông,
bà. Nhưng điểm khác nhau ở chỗ quy định thừa kế thế vị Nhật Bản
cho phép cháu được hưởng tài sản của ông, bà mặc dù bố, mẹ
không nằm trong trường hợp được nhận di sản thừa kế. Tương tự
như thế, Điều 755 BLDS Pháp quy định: Con cháu của người không
xứng đáng hưởng thừa kế được thừa kế thế vị người này mặc dù
người này còn sống tại thời điểm mở thừa kế. Cùng theo tinh thần
của Điều 1629 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan thì con của
người để lại di sản được xác định ở hàng thừa kế thứ nhất. Các cháu
của người chết được thừa kế trong trường hợp cha hoặc mẹ cháu
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản là ông,
bà theo pháp luật Thái Lan, trường hợp này được gọi là thừa kế đại
diện.[…].

Nhưng pháp luật Việt Nam quy định người thế vị theo Điều 652
BLDS 2015 có quy định muốn nhận được di sản thì người bị thay thế
phải thuộc trường hợp được hưởng di sản, khơng bị tước quyền hay
khơng bị Tịa án kết tội gì. Điều này đặt ra nhiều ý kiến khác nhau về


việc ảnh hưởng quyền lợi của cháu, chắt khi cháu, chắt không liên
quan đến việc bị tước quyền thừa kế hay vi phạm của bố mẹ. Trong
khi mục đích của việc đặt ra quy định thừa kế thế vị là bảo vệ quyền
lợi hưởng tài sản của cháu, chắt.
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Thừa kế thế vị là sự dịch chuyển tài sản từ người này sang
người khác, nói cách khác là chuyển quyền sở hữu cho người thế vị.
Thừa kế và sở hữu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Sở hữu làm
tiền đề phát sinh thừa kế còn nếu thừa kế là tiền đề thì thừa kế giúp
duy trì và hình thành nên sở hữu. Thừa kế và sở hữu duy trì lẫn
nhau, ln chuyển xoay vịng làm cho nền kinh tế xã hội vừa được
kế thừa vừa phát triển. Quan hệ pháp luật của thừa kế thế vị là mối
quan hệ dựa vào quan hệ huyết thống, hay những mối quan hệ thân
thuộc giữa người để lại di sản là ông bà nội, ông bà ngoại, cố nội, cố
ngoại; người bị thay thế hưởng di sản là bố, mẹ của người thế vị và
người thế vị là cháu, chắt. Thừa kế thế vị chỉ căn cứ theo thừa kế
theo pháp luật chứ không thể áp dụng cho thừa kế theo di chúc. Vì
di chúc thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể lập di chúc. Việc áp
dụng thừa kế thế vị cho di chúc là vi phạm quy tắc tôn trọng di
nguyện của chủ thể, xâm phạm ý chí của chủ thể trong di chúc và
làm mất giá trị di chúc khiến cho di chúc bị hủy bỏ.
Quy định thừa kế được lập ra để bảo vệ quyền lợi của con người
trong việc hưởng tài sản. Thừa kế thế vị là công cụ giúp cho cháu,
chắt được hưởng tài sản từ ông, bà, cố khi bố, mẹ chết trước hoặc

chết cùng thời điểm với ông, bà, các cố. Người thế vị được nhận di
sản khi ở thời ở thời điểm mở thừa kế vẫn còn sống và người bị thay
thế nhận di sản đã chết hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di
sản. Phong tục tập quán ở mỗi nước sẽ khác nhau nên sẽ có các chế
định khác nhau về thừa kế, cùng với sự phát triển của thị trường
kinh tế hiện nay giúp cho các quy định về thừa kế ngày càng được
mở rộng. Thừa kế thế vị chỉ là một trong số ít, góp phần hồn thiện
hệ thống pháp luật trong chế định về thừa kế nói riêng và hệ thống
pháp luật dân sự nói chung.


CHƯƠNG II
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ
2.1. Quy định thời điểm mở thừa kế và thời hiệu khởi kiện
2.1.1. Thời điểm mở thừa kế
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm thừa kế có hiệu lực. Việc
phân chia thừa kế trong trường hợp thừa kế thế vị chỉ bắt đầu sau
khi người để lại di sản đã chết và người bị thay thế nhận di sản đã
chết hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản mà trước đó
người để lại di sản không lập di chúc. Hành vi thừa kế khác với các
hành vi khác ở chỗ sau khi người để lại di sản chết thì các sự kiện
pháp lý mới xảy ra. Theo Điều 882 BLDS Nhật Bản: “Việc thừa kế sẽ
bắt đầu sau khi người quá cố qua đời”. Theo Khoản 1 Điều 611 BLDS
2015: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.
Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở
thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”.
Như vậy thừa kế bắt đầu có hiệu lực khi người để lại di sản qua đời,
trong trường hợp này là thừa kế thế vị thì có thêm điều kiện đó chính
là người đáng ra được nhận di sản phải chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người để lại di sản, lúc đó những người thừa kế thế vị

mới được phép hưởng di sản từ người đã mất.
Ví dụ: ơng A chết hồi 15h00 Ngày 1-1-1992. Vậy thời hiệu khởi
kiện xác định như sau: thời hiệu khởi kiện được xác định từ 0h00
ngày 2-1-1992 và kết thúc vào 24h00 ngày 2-1-2002 (ngày 2-1-1992
là ngày đầu tiên tiếp sau ngày xảy ra sự kiện ông A chết). Như vậy
trong trường hợp này, thời điểm mở thừa kế được tính lùi là 0h00
ngày 2-1-1992. Nếu vậy, những người thừa kế của ông A chết sau
15h00 ngày 1-1-1992 đến trước 0h00 ngày 2-1-1992 đều khơng có
quyền hưởng di sản của ơng A vì khơng bị coi là chết trong cùng một
thời điểm. 2
2.1.2. Thời hiệu khởi kiện
Theo quy định của BLTTDS năm 2015 “Thời hiệu khởi kiện là
thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm;
2 tham khảo ngày
07/11/2021


nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện
vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc
phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác”. Tại khoản 1 Điều 623 BLDS 2015
quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau: “Thời hiệu khởi kiện
để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản,
10 năm đối với động sản, kể thừa thời điểm mở thừa kế. Hết thời
hạn này thì di sản thuộc về người quản lý di sản đó”. Riêng đối với
những việc thừa kế đã mở trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu được
tính từ ngày 10-9-1990 (ngày có hiệu lực của Pháp lệnh thừa kế
1990).
2.2. Các chủ thể trong thừa kế thế vị

2.2.1. Người để lại di sản và người bị thay thế
Người để lại di sản là người mà sau khi chết di sản của họ được
dịch chuyển sang cho người khác sở hữu. Trong thừa kế thế vị, người
bị thay thế cũng có thể được xem là người để lại di sản. Căn cứ theo
Khoản 8 Điều 372 BLDS 2015: “Khi người để lại di sản mất thì nghĩa
vụ của họ cũng chấm dứt”. Sau khi người để lại di sản mất thì lúc
này thời điểm mở thừa kế bắt đầu có hiệu lực. Những người thừa kế
được phân chia di sản theo quy định pháp luật.
Người bị thay thế nhận di sản là người vốn dĩ được nhận di sản
nhưng do chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản
nên người bị thay thế không thể nhận di sản. Việc xác định một
người đã chết là cơ sở để chấm dứt, phát sinh các quan hệ pháp luật
khác dựa trên Điều 71 BLDS 2015 về tuyên bố chết gồm các trường
hợp như: sau 3 năm kể từ ngày quyết định tun bố mất tích của Tịa
án có hiệu lực pháp luật mà vẫn khơng có tin tức xác thực là cịn
sống; biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh
kết thúc mà vẫn khơng có tin tức xác thực là còn sống; bị tai nạn
hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc
thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn khơng có tin tức xác thực là cịn
sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Người bị thay thế thuộc hàng thừa kế thứ nhất trong Điều 651
BLDS 2015. Theo quy định pháp luật Việt Nam, người bị thay thế là
“con” của người để lại di sản. Việt Nam từ xưa luôn coi trọng truyền


thống gia đình vì thế pháp luật Việt Nam cũng dựa trên phong tục
tập quán đó để xây dựng hệ thống pháp luật dân sự về thừa kế bảo
vệ các quyền hưởng di sản cho con cháu trong quan hệ huyết thống
và quan hệ nuôi dưỡng.
“Con” của người để lại di sản ở đây là ai? Thông tư số 81/TTTANDTC ngày 24-7-1981 của TAND tối cao hướng dẫn về việc giải

quyết các tranh chấp liên quan đến thừa kế có quy định: Người con
nào (kể cả con nuôi) chết trước người để thừa kế, thì các con của
người đó (tức là các cháu của người để thừa kế) sẽ hưởng phần thừa
kế của bố hoặc mẹ mình (thừa kế thế vị). Pháp lệnh thừa kế ngày
30-8-1900 quy định tại Điều 27: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được
thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế tài sản theo quy định
tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này. Điều 653 BLDS 2015:
“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn
được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ
luật này”.
Trong trường hợp bố, mẹ có con riêng, nếu con riêng được bố
dượng, mẹ kế chăm sóc, ni dưỡng, dạy dỗ như cha con, mẹ con thì
con riêng vẫn được nhận di sản từ bố dượng, mẹ kế. Điều 79 LHNGĐ
2014 quy định về quyền, nghĩa vụ của cha dượng, mẹ kế và con
riêng của vợ hoặc chồng: Cha dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa vụ
trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia
cùng sống chung với mình; Con riêng có quyền và nghĩa vụ chăm
sóc, phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình.
Điều 654 BLDS 2015 quy định: con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có
quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được
thừa kế di sản của nhau. Nhưng pháp luật lại không quy định rõ làm
thế nào chứng minh được con riêng được bố dượng, mẹ kế quan
tâm, nuôi dạy như cha con, mẹ con ? Hay dựa vào sự quan sát của
những người hàng xóm xung quanh, những người họ hàng trong gia
đình,…? Điều này vẫn chưa được đề cập chi tiết.
Vậy người bị thay thế nhận di sản trong thừa kế thế vị không
phân biệt ai, điều kiện, khả năng hành vi như thế nào nhưng là người
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Người bị
thay thế bao gồm con đẻ, con nuôi, con riêng nếu như con riêng
được bố dượng, mẹ kế ni dưỡng, chăm sóc như cha con, mẹ con.



Ví dụ: Bản án 07/2018/ds-st ngày 26-29/03/2018 về tranh chấp
thừa kế
Nguyên đơn là ông Đàm Văn V và bị đơn là bà Đàm Thị T, bố đẻ
ông V là cụ Đàm Văn C1 sinh năm 1922, chết năm 1996; mẹ đẻ ông
là cụ Nguyễn Thị B, sinh năm 1928, chết năm 2016; mẹ kế ông là cụ
Nguyễn Thị B1, sinh năm 1921 chết, năm 2008. Cụ Nguyễn Thị B1
và cụ Đàm Văn C1 khơng có con chung; cụ C1 và cụ Nguyễn Thị B
sinh được 3 người con là: Bà Đàm Thị T, ông Đàm Văn V và ông Đàm
Văn C. Ngồi ra, cụ B cịn có một người con riêng là ông Nguyễn Văn
N sinh năm 1959. Cụ C1 và cụ B1 khi chết đều không để lại di chúc.
Từ nhỏ cụ B1 là người nuôi dưỡng và chăm sóc ơng và bà T; năm
1981 bà T lập gia đình ở riêng cịn ơng ở cùng với cụ C1 và cụ B1
cho đến khi các cụ lần lượt qua đời; từ nhỏ ông và bà T sống với cụ
B1 và cụ C1 cịn ơng C sống với cụ B ở nhà khác trên cùng một thửa
đất. Bản án sơ thẩm số 38/2018/TLST-DS xác nhận bà T và ông V tuy
là con của cụ B và cụ C1 nhưng từ lúc còn nhỏ đã sống chung cùng
một nhà và được cụ C1 và cụ B1 chăm sóc, ni dưỡng trực tiếp.
Ông C ở với cụ B tại nhà khác nhưng vẫn cùng một thửa đất, khi cụ
B1 chết bà T, ông V đều cùng có trách nhiệm chung lo tang ma do
đó có căn cứ để xác định giữa cụ B1 bà T, ơng V có quan hệ chăm
sóc, ni dưỡng vì thế trong trường hợp này cụ B1 và ông V, bà T
đều có quyền được hưởng thừa kế di sản của nhau.

2.2.2. Người thế vị nhận di sản
Người thế vị là người thay thế vị trí của người đáng ra được
nhận di sản nhưng chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để
lại di sản. Người thừa kế thế vị thực chất là người thừa kế và theo
Điều 613 BLDS 2015: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn

sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời
điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản
chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc khơng là cá nhân thì
phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”. Người thừa kế thế vị là con
của người bị thay thế đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người để lại di sản. Để chứng minh là con thì dựa trên quan hệ huyết
thống và ni dưỡng người con đó, việc xác định thừa kế đối với


người bị thay thế đã chết tuy vô nghĩa nhưng nó lại là cơ sở để xác
định người thừa kế thế vị. Theo ngun tắc thì người thừa kế phải
cịn sống ở thời điểm mở thừa kế. Đối với người sinh ra và khơng cịn
sống ở thời điểm mở thừa kế thì sự hiện hữu pháp lý khơng được
cơng nhận nhằm tránh tranh chấp giữa những người thừa kế còn
sống. Trường hợp nếu đã thành thai trước khi người để lại di sản chết
và sinh ra còn sống ở thời điểm mở thừa kế thì đứa trẻ vẫn được
cơng nhận là người thừa kế. Nếu người thừa kế chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người để lại di sản thì phần tài sản sẽ được chia
cho con, cháu theo các bậc trong quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng. Trường hợp bố chết trước hoặc cùng thời điểm với ơng,
bà nội thì cháu là người thế vị được hưởng di sản. Trường hợp mẹ
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ơng, bà ngoại thì cháu cũng
chính là người được nhận di sản. Trường hợp ông, bà chết trước
hoặc chết cùng thời điểm với cụ và bố, mẹ chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với ơng bà thì chắt được nhận di sản của cụ.
Điều 737 BLDS Pháp quy định về các hàng thừa kế: “Con cháu
trực hệ là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, những con
thuộc bậc thứ nhất, cháu thuộc bậc thứ hai và cứ thế cho đến vô
tận”. Pháp xây dựng diện và hàng thừa kế hoàn toàn dựa trên quan
hệ huyết thống. Người thừa kế thế vị phải là người trực hệ của người

để lại di sản. Việc thừa kế thế vị dựa trên quan hệ huyết thống là để
bảo vệ quyền thừa kế của các thế hệ trong gia đình. Theo quy định
của Pháp sự phân chia di sản ưu tiên về trực hệ nhưng ở Việt Nam
không đề cập rõ trong các trường hợp người thừa kế thế vị là con đẻ
của con nuôi hay con nuôi của con nuôi, …
Ví dụ: Vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là
ông Đặng Ngọc H và bị đơn là bà Hoàng Thị L, được TAND tỉnh Nam
Định giải quyết bằng bản án số 50/2018/DS-PT ngày 02-11-2018: Cụ
Đặng Văn C (chết năm 2009) và cụ Ngô Thị Y (chết năm 2014) có 07
người con là ơng Đặng Hữu K (mất năm 1998), ông Đặng Thanh K,
ông Đặng Ngọc H, bà Đặng Thị L, ông Đặng Hữu H, bà Đặng Thị H1,
bà Đặng Thị Q. Ông Đặng Hữu K mất năm 1998, có vợ là bà Hồng
Thị L và có 08 người con là Đặng Thị T, Đặng Thị H1, Đặng Thị H2,
Đặng Thị N, Đặng Thị N1, Đặng Quốc S, Đặng Thị S và Đặng Ngọc
S1. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm giải quyết tranh chấp trên đều xác


định hàng thừa kế của vợ chồng cụ Đặng Văn C và cụ Ngô Thị Y gồm
07 người con là ông Đặng Hữu K (mất năm 1998), ông Đặng Thanh
K, ông Đặng Ngọc H, bà Đặng Thị L, ông Đặng Hữu H, bà Đặng Thị
H1, bà Đặng Thị Q. Xác định thời điểm mở thừa kế là khi cụ Đặng
Văn C mất vào ngày 07-8-2009, cụ Ngô Thị Y mất vào ngày 17-22014 không để lại di chúc nên di sản của hai cụ được chia theo pháp
luật. Ông Đặng Văn K mất ngày 03-11-1998, ông K và vợ là Hoàng
Thị L sinh được 08 người con nên bà L và 8 người con là Đặng Thị T,
Đặng Thị H1, Đặng Thị H2, Đặng Thị N, Đặng Thị N1, Đặng Quốc S,
Đặng Thị S và Đặng Ngọc S1 là người thừa kế thế vị của ông K. Bản
án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm giải quyết vụ việc trên đều xác
định người thừa kế thế vị của ông Đặng Văn K là vợ và các con là
khơng đúng. Ơng Đặng Văn K (chết năm 1998) là con của Đặng Văn
C (chết năm 2009) và cụ Ngô Thị Y (chết năm 2014), chết trước cụ C

và cụ Y nên phát sinh thừa kế thế vị trong trường hợp này. Điều 652
BLDS 2015 quy định chỉ con, cháu của người bị thay thế được thừa
kế thế vị là phù hợp với ngun tắc và mục đích của thừa kế thế vị.
Tịa án xác định vợ ông Đặng Văn K cũng được thừa kế thế vị ông
Đặng Văn K, hưởng di sản của cụ C và cụ Y là xác định người thừa kế
thế vị không đúng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của
người thừa kế thế vị là các con của ông Đặng Văn K.
2.3. Các trường hợp đặc biệt
2.3.1. Người thừa kế thế vị từ chối nhận di sản
Theo Điều 620 BLDS 2015 quy định về người khơng được nhận
di sản:
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc
từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối
với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến
người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao
nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân
chia di sản”.
Người từ chối nhận di sản không được từ chối nhằm trốn tránh
việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình. Khoản 3 điều 620 BLDS
2015 khơng được từ chối sau khi di sản đã được phân chia. Khi từ


chối phải lập văn bản thông báo đến người quản lý di sản, người
được chia di sản để việc phân chia được quyết định theo hình thức
khác. Điều 642 Bộ luật Dân sự 2005 quy định khi một người muốn từ
chối di sản thì phải lập thành văn bản và báo cho cơ quan công
chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm
mở thừa kế về việc không nhận di sản. Trước đây BLDS 2005 quy

định: “…Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở
thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu khơng có từ chối
nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế”. Nhưng đến BLDS
2015 không quy định về việc công chứng, chứng thực văn bản từ
chối không nhận di sản thừa kế. Điều 59 LCC 2014 cũng quy định,
người thừa kế có thể u cầu cơng chứng văn bản từ chối nhận di
sản.
2.3.2. Người thừa kế thế vị không được quyền nhận di sản
Điều 621 BLDS 2015 quy định : “1. Người không được quyền
hưởng di sản
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe
hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di
sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa
kế khác nhằm hưởng một phần hoặc tồn bộ phần di sản mà người
thừa kế đó có quyền hưởng; …”
Pháp luật luôn ưu tiên quyền hưởng di sản của người thừa kế.
Tuy nhiên cũng có những trường hợp có những hành vi vi phạm
nghĩa vụ của mình, trái với đạo đức xã hội hoặc có những hành vi
trái pháp luật xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người để lại
di sản; xâm phạm tính mạng người thừa kế khác để nhằm hưởng
một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền
hưởng... Nhằm đảm bảo giá trị gia đình, đảm bảo truyền thống, đạo
đức xã hội cũng như trật tự và công bằng xã hội thì Điều 621 Bộ luật
dân sự quy định phạm vi những người không được quyền hưởng di
sản do có những hành vi bất xứng.
2.3.3. Người thừa kế thế vị bị truất quyền nhận di sản



Điều 626 BLDS 2015 quy định : “… Người lập di chúc có quyền
chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa
kế…”. Mặc dù phân chia di sản trong thừa kế thế vị không phụ thuộc
vào di chúc nhưng trong trường hợp người để lại di sản chỉ chỉ định
truất quyền thừa kế của người thừa kế thế vị nào đó thì người đấy
cũng khơng được nhận di sản. Phần tài sản đó sẽ bị đem đi chia cho
những người thừa kế khác. Trong trường người bị truất quyền là
người cuối cùng nhận di sản, không cịn ai đứng ra nhận tài sản nữa
thì theo Điều 622 BLDS 2015: “Trường hợp khơng có người thừa kế
theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng khơng được quyền
hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực
hiện nghĩa vụ về tài sản mà khơng có người nhận thừa kế thuộc về
Nhà nước”.


TIỂU KẾT CHƯƠNG II
Quan hệ giữa người để lại di sản và người bị thay thế nhận di
sản là quan hệ giữa bố, mẹ và con ruột, con nuôi và con ngoài giá
thú. Con ngoài giá thú được nhận di sản của bố dượng, mẹ kế khi bố
dượng, mẹ kế và con riêng chăm sóc, yêu thương nhau. Quan hệ
giữa người bị thay thế và người thừa kế thế vị tương đồng với quan
hệ giữa người để lại di sản và người bị thay thế nhận di sản, là quan
hệ bố - con, mẹ - con, người thừa kế thế vị được nhận di sản khi bố,
mẹ được hưởng quyền nhận di sản. Quan hệ giữa người để lại di sản
và người thừa kế thế vị là quan hệ giữa ông - cháu, cụ - chắt, tài sản
của người để lại di sản được dịch chyển sang cho người thừa kế thế
vị khi người bị thay thế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người để lại di sản và người thừa kế thế vị còn sống ở thời điểm mở
thừa kế. Người thừa kế thế vị được hưởng di sản khi không vi phạm

Điều 621 BLDS 2015, không bị truất quyền hưởng di sản hay từ chối
nhận di sản.
Thời hiệu khởi kiện thừa kế tính từ ngày người có quyền yêu cầu
biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Người thừa kế thế vị được phép yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của
mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác. Pháp luật về thừa
kế dựa trên quan hệ huyết thống và quan hệ ni dũng nhằm bảo
vệ cho tài sản ln được dịch chuyển trong thế hệ gia đình theo một
chiều dọc từ trên xuống, đảm bảo cho sự gắn bó giữa đời trước và
đời sau tạo ra sự liên kết cho các thế hệ trong gia đình. Các văn bản
pháp luật về thừa kế ở nước ta quy định về thừa kế thế vị khá đầy
đủ và hoàn thiện. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề chưa được đề cập
một cách rõ ràng và cịn nhiều thiếu sót trong việc nghiên cứu thực
trạng pháp luật và tìm hiểu thực tiễn dẫn đến việc thiếu thống nhất
trong áp dụng pháp luật và ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp
luật trên thực tế.


CHƯƠNG III
HẠN CHẾ VÀ CÁCH KHẮC PHỤC
3.1. Thừa kế thế vị đối với con nuôi, con riêng
3.1.1.Con nuôi
Trong quan hệ về thừa kế thế vị, người thừa kế thế vị là cháu
hoặc chắt của người để lại di sản. Tuy nhiên, pháp luật lại không đề
cập rõ “cháu” trong thừa kế thế vị gồm những ai. Theo như phân
tích, pháp luật quy định con đẻ, con nuôi, con riêng đều được hưởng
di sản của bố, mẹ nhưng lại không đề cập đến con của con ni, con
riêng có được nhận không. Quy định pháp luật cũng không nêu rõ
thừa kế thế vị chỉ dừng ở mối quan hệ cháu, chắt thôi hay kéo dài vô
tận.

Đối với con ruột, cháu ruột thì việc nhận di sản thừa kế là một
lẽ đương nhiên. Điều 737 BLDS Pháp quy định: “Con cháu trực hệ là
những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, những con thuộc bậc thứ
nhất, cháu thuộc bậc thứ hai và cứ thế cho đến vô tận”. Điều 751
BLDS Pháp quy định: “Thừa kế thế vị có thể áp dụng đối với tất cả
các bậc của dòng trực hệ bề dưới. Thừa kế thế vị được chấp nhận
trong tất cả các trường hợp; hoặc các con của người để lại di sản
cùng hưởng thừa kế với các ti thuộc của người con chết trước, hoặc
nếu tất cả con của người để lại di sản đều chết trước thì các ti thuộc
của những người con này sẽ hưởng thừa kế ở những bậc ngang nhau
hoặc không ngang nhau”. Pháp luật Pháp luôn đề cao quan hệ huyết
thống và không giới hạn thừa kế thế vị mà áp dụng cho tất cả các
bậc chút, chít,… Điều 1639 BLDS Thái Lan cũng quy định về vấn đề
này: “Nếu bất cứ người nào có thể là người thừa kế quy định tại Điều
1629 (1), (3), (4) hoặc (6) chết hoặc bị loại trừ trước khi người để lại
di sản chết, thì con cháu của người đó, nếu có, sẽ đại diện cho người
đó để nhận tài sản thừa kế. Nếu bất cứ người nào trong số con cháu
của người đó chết hoặc bị loại trừ theo cùng cách trên, thì con cháu
của người chết đó sẽ đại diện cho người đó để nhận tài sản thừa kế,
và việc đại diện như vậy sẽ được thực hiện đối với phần của từng
người, một cách liên tiếp cho đến khi hết dịng dõi đó”. Pháp luật
Thái Lan và Pháp luật Pháp có nét tương đồng khơng giới hạn người


thừa kế thế vị mà để cho tất cả con cháu thế vị trực hệ ở các thế hệ
đều có thể hưởng di sản.
Tuy nhiên trong thực tế, có những trường hợp cả hai vợ chồng
cùng muốn nhận nuôi con nuôi nhưng một người không đủ điều kiện
theo quy định tại Điều 69 LHNGĐ thì chỉ cịn một người được nuôi
nên người con nuôi kia là con nuôi riêng của vợ hoặc chồng. Nhưng

việc chăm sóc, ni dưỡng con ni là dùng tài sản chung của vợ
chồng; người không đủ điều kiện nhận ni con ni vẫn thương
u, chăm sóc, nuôi dưỡng con nuôi như cha con (mẹ con). Vậy có
thể xem đó là mối quan hệ giữa con ni và bố, mẹ nuôi không?
Quan hệ thừa kế giữa con nuôi của bố mẹ nuôi cũng không
được đề cập đến trong pháp luật dân sự Việt Nam. Con nuôi của con
nuôi, con nuôi của con đẻ, con đẻ của người con có được thừa kế thế
vị khơng? Đây là vấn đề chưa được đề cập rõ mà chỉ được quy định
chung chung trong pháp luật Việt Nam.
Quy định tại tiểu mục đ Mục 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày
19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 (Nghị quyết
02/HĐTP): “Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha, mẹ
của người nuôi dưỡng và cũng không đương nhiên trở thành anh, chị,
em của con đẻ của người nuôi. Do đó, con ni khơng phải là người
thừa kế theo pháp luật của cha, mẹ và con đẻ của người nuôi”. Và
tại tiểu mục a Mục 6 Nghị quyết 02/HĐTP quy định: “Về phía gia đình
cha ni, mẹ ni: con ni chỉ có quan hệ thừa kế với cha ni, mẹ
ni mà khơng có quan hệ thừa kế với cha, mẹ và con đẻ của người
nuôi. Trong trường hợp người có con ni kết hơn với người khác thì
người con nuôi không đương nhiên trở thành con nuôi của người
khác đó cho nên họ khơng phải là người thừa kế của nhau theo pháp
luật”. Tại tiểu mục b Mục 5 Nghị quyết số 02/HĐTP quy định: “Trong
trường hợp con nuôi chết trước cha ni, mẹ ni, thì con của người
ni (tức là cháu của cha nuôi, mẹ nuôi) được hưởng phần di sản mà
đáng lẽ cha, mẹ của chắt được hưởng nếu cha, mẹ của chắt còn
sống vào thời điểm mở thừa kế”.
Vậy có thể hiểu con ni của người để lại di sản chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì con đẻ của người con



ni đó có được hưởng thừa kế thế vị. Nhưng khi con đẻ của người
để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di
sản, thì con ni của con đẻ của người để lại di sản không được
hưởng thừa kế thế vị và con nuôi của con nuôi cũng không được
hưởng thừa kế thế vị. Quy định trên chỉ nói đến quan hệ giữa con
ni và bố, mẹ ni chứ khơng nói đến con nuôi và bố, mẹ đẻ.
3.1.2.Con sinh ra bằng phương pháp khoa học
Người nhận di sản là người thừa kế thế vị phải còn sống vào thời
điểm mở thừa kế. Đứa trẻ sinh ra sau thời điểm mở thừa kế và thành
thai trước khi người để lại di sản chết thì theo pháp luật đứa trẻ đó
vẫn được thừa kế di sản. Hiện nay với sự phát triển của kinh tế - xã
hội thì kèm theo đó là sự phát triển máy móc, cơng nghệ kỹ thuật
nên bắt đầu phổ biến hình thức có con bằng thụ tinh nhân tạo, thụ
tinh trong ống nghiệm.
Thụ tinh nhân tạo là thụ tinh bằng phương pháp bơm tinh trùng
vào buồng tử cung - được tiến hành bằng cách chọn lọc tinh trùng
khỏe nhất của người chồng hoặc của ngi cho tinh trùng, sau đó
bơm vào buồng tử cung của người vợ ở thời điểm rụng trứng. Kết
quả là cho tinh trùng bơi vào ống dẫn trứng và thụ tinh với trứng của
người vợ, từ đó dẫn đến thụ thai như bình thường. Thụ tinh trong ống
nghiệm là biện pháp hỗ trợ sinh sản cho các cặp vợ chồng hiếm
muộn bằng cách cho trứng và tinh trùng kết hợp ở ngồi cơ thể. Phơi
thai được tạo thành sau khi trứng và tinh trùng kết hợp thành công
sẽ được chuyển lại vào buồng tử cung của người phụ nữ. Phơi sau đó
làm tổ, phát triển thành thai nhi như trong các trường hợp thụ thai tự
nhiên.
Trong trường hợp đứa bé sinh ra và người bố chết đã chết khơng
có quan hệ về mặt huyết thống nhưng theo Điều 20 của Nghị định
số 12/2003-NĐ/CP, người chồng vẫn được xác định là cha của đứa

trẻ:
"1. Trẻ ra đời do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải được
sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ
độc thân.


2. Những người theo quy định tại khoản 1 Điều này điều kiện
xác định là cha, mẹ đối với trẻ sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản".
Theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 12 thì: "Con được sinh
ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không được quyền yêu cầu
quyền thừa kế, quyền được ni dưỡng đối với người cho tinh trùng,
cho nỗn, cho phơi".
Về phương diện sinh học, hồn tồn có thể xác định được cá
nhân được sinh ra theo phương pháp khoa học có mối quan hệ huyết
thống với người đã chết. Tuy nhiên, xét về mặt pháp lý, đứa tẻ sinh
ra từ tinh trùng của người đã chết không được coi là con trong thời
kỳ hôn nhân, không được xác định là còn của người đã chết. Hơn nữa
Điều 613 BLDS năm 2015 quy định: "Người thừa kế là cá nhân phải
là con còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống
sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại
di sản chết...". Như vậy, người thừa kế trước hết phải còn sống tại
thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống vào thời điểm mở
thừa kế (nếu mất trong vịng 24 giờ sau sinh thì khơng thuộc trường
hợp này và người thừa kế phải là người đã thành thai trước khi người
để lại di sản chết. Hơn nữa trong giấy khai sinh của đứa trẻ, phần
khai về người cha vẫn bỏ trống, nên không thể hiện bất cứ mối quan
hệ nào giữa đứa trẻ và người cha về mặt pháp lý. Khơng có cơ sở
pháp lý về mối quan hệ pháp lý cha - con nên đứa trẻ khơng phát
sinh quyền nhân thân, tài sản gì với người cha đã mất. Và như vậy

quyền thừa kế theo pháp luật di sản cho người "cha" đã chết không
đặt ra đối với những đứa trẻ được sinh ra từ tinh trùng của người cha
đã chết. Hơn nữa, "nếu công nhận những đứa trẻ được hình thành
theo phương pháp khoa học là con của người để lại tinh trùng đã
chết thì số lượng người thừa kế của một người chết để lại tinh trùng
không ổn định, không biết khi nào thì một người thừa kế mới nữa ra
đời phụ thuộc vào mong muốn sinh thêm con của người phụ nữ là vợ
của người quá cố". Nên cần có văn bản điều chỉnh vấn đề này. 3

3 />%9F%20th%E1%BB%9Di%20%C4%91i%E1%BB%83m%20r%E1%BB%A5ng%20tr%E1%BB%A9ng., tham khảo
ngày 07/11/2021


Những đứa trẻ được sinh ra bằng cách thụ tinh nhân tạo, thụ
tinh trong ống nghiệm được công nhận là con của người bố nhưng lại
không được hưởng di sản của bố, điều này không công bằng người
con không dù là con ruột của người bố. Trong khi theo mục đích của
pháp luật, quy định thừa kế được đề ra là nhằm bảo vệ quyền kế
thừa di sản của con, cháu và để tài sản của người để lại di sản khơng
bị rơi vào tay người ngồi trừ trường hợp dựa theo ý chí của người để
lại di sản để phân chia di sản.
3.2. Người thừa thế vị có được hưởng di sản nếu bố, mẹ
không được hưởng di sản không?
Trường hợp con riêng nếu bị rơi vào Điều 621 BLDS 2015 thì con
của con riêng có được thừa kế thế vị không? Nếu người bị thay thế
nhận di sản rơi vào các trường hợp như bị truất quyền nhận di sản,
không được quyền hưởng di sản theo Điều 621, từ chối nhận di sản
thì người thừa kế thế vị có được tiếp tục hưởng di sản khơng?
Điều 887 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định con của người để lại
di sản là người thừa kế, nếu con của người để lại di sản chết trước, bị

trất quyền thừa kế trước thời điểm mở thừa kế do thuộc các trường
hợp không được hưởng thừa kế quy định tại Điều 891 BLDS hoặc do
phán quyết của Tịa án thì con cái của người đó được hưởng thừa kế
thay. Quy định này có điểm tương đồng với quy định về thừa kế thế
vị trong BLDS Việt Nam về việc cháu được hưởng di sản thừa kế của
ông, bà trong trường hợp bố mẹ cháu chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với ông bà; song cũng có khác biệt khi BLDS Nhật Bản quy định
cháu vẫn được hưởng thừa kế của ông bà nếu bố mẹ cháu thuộc
những người không được hưởng thừa kế[…]. BLDS Nhật Bản vẫn cho
phép người thừa kế thế vị được hưởng di sản trong trường hợp người
bị thay thế vi phạm quyền thừa kế. Điều này chưa được quy định chi
tiết trong pháp luật Việt Nam vì thế khơng thể xác định chính xác
được vấn đề này.
3.3. Cách khắc phục
Pháp luật nhà nước Việt Nam luôn gắn với sự phát triển của xã
hội nhằm đáp ứng phù hợp nhu cầu của con người. Quan hệ xã hội
ngày càng phức tạp khiến cho các vấn đề giải quyết càng khó khăn.
Vì thế cần có các giải pháp để cải thiện vấn đề này.


3.3.1.

Đối với pháp luật nhà nước

Pháp luật là công cụ quan trọng giúp nhà nước cai quản xã hội.
Tuy nhiên vì ngày càng có nhiều vấn đề phức tạp phát sinh nên hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng vẫn cịn
nhiều bất cập, những mặt hạn chế cần được cải thiện. Hệ thống
pháp luật hoàn thiện là điều kiện giúp cho các vụ việc được giải
quyết nhanh chóng và lưu thơng, thuyết phục được ý chí của mọi

người và phát triển tiến bộ xã hội. Các quy định của pháp luật nên
dựa trên các tiêu chí như: nội dung phải phù hợp với đường lối, chính
sách Đảng và mong muốn của nhân dân, cân bằng được giữa sự
phát triển kinh tế - xã hội và trình độ phát triển về pháp luật, ln
đặt lợi ích nhân dân lên hàng đầu, các quy định phải thể hiện mức
độ hoàn thiện và thống nhất với hêh thống văn bản quy phạm pháp
luật, quy định phải xây dựng khoa học, nội dụng chặt chẽ, ngôn ngữ
rõ ràng đảm bảo trình độ lập pháp. Ngồi việc phát triển quy định
pháp luật cho phù hợp với tiến bộ xã hội thì việc giữ gìn và phát huy,
làm sáng giá trị truyền thống văn hóa dân tộc cũng là một điều hết
sức cần thiết.
3.3.2.

Đối với quy định về thừa kế thế vị

a. Về quy định con nuôi
Pháp luật Việt Nam công nhận mối quan hệ giữa bố, mẹ nuôi và
con nuôi, không phân biệt con đẻ và con nuôi nhưng Điều 653 BLDS
2015 không đề cập chi tiết về thừa kế thế vị giữa con đẻ hay con
nuôi của người nuôi. Các trường hợp, con đẻ của con nuôi, con ni
của con ni có được thừa kế thế vị khơng? Vấn đề này chưa có quy
định pháp luật cụ thể chỉ dựa trên Nghị quyết 02/HĐTP đã ra đời từ
khá lâu khoảng 30 năm về trước và chỉ mang tính chất tham khảo.
Nhưng để đảm bảo cho các vụ việc được giải quyết rõ ràng, mối
quan hệ thừa kế luôn được duy trì tốt và khơng bị pha lỗng q
nhiều bởi các mối quan hệ con ni thì dựa trên Nghị quyết có thể
quy định như sau: Con ni và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di
sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651
và Điều 652 của Bộ luật này. Trong trường hợp con ni chết trước
cha ni, mẹ ni, thì chỉ con đẻ của người con nuôi được thừa kế

thế vị.


b. Về quy định con riêng
Quy định này cho phép giữa bố dượng, mẹ kế và con riêng được
hưởng thừa kế của nhau nếu hai bên có quan hệ chăm sóc, ni
dưỡng lẫn nhau. Theo Điều 654 BLDS 2015 có quy định con riêng
được hưởng thừa kế thế vị nếu con riêng của vợ hoặc chồng chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với cha dượng hoặc mẹ kế thì con
của con riêng được thừa kế thế vị. Nhưng làm thế nào để xác định rõ
giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế có quan hệ tốt với nhau? Có thể
quy định như sau: con riêng và bố dượng, mẹ kế có quan hệ chăm
sóc, ni dưỡng mà có bằng chứng đồng thuận từ những người xung
quanh hay những người thân trong gia đình, khơng phụ thuộc vào
nơi ở thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản
theo quy định định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.
c. Về quy định với con sinh ra bằng phương pháp khoa học
Trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học bằng tinh
trùng của chồng hoặc đối với trường hợp người khác cho dựa theo
Điều 88 và Điều 93 LHNGĐ. Và đứa trẻ sinh ra theo phương pháp
khoa học chỉ được công nhận trong thời hạn không quá 3 năm sau
khi người bố chết và khơng có sự tranh chấp từ các người thừa kế
khác thì được thừa kế thế vị. Việc giới hạn quyền thừa kế là để người
mẹ không lợi dụng phương pháp sinh sản khoa học để thừa hưởng di
sản.
d. Về quyền hưởng di sản khi người bị thay thế không được hưởng di
sản
Mặc dù xã hội ngày càng phát triển hơn trường hợp này ít xảy
ra nhưng vẫn cần có quy định cho các trường hợp cần thiết. Để đảm
bảo cho các cháu, chắt có thể ln được bảo vệ hoàn toàn quyền

hưởng di sản mặc dù người bị thay thế không được quyền hưởng di
sản theo điều 621, từ chối nhận di sản hay bị truất quyền hưởng di
sản, tránh trường hợp “qt làm, cam chịu” thì có thể sửa như sau:
Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một
thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng
chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt
được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu


×