Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài trợ của bên thứ ba trong tố tụng trọng tài và tố tụng tòa án trong tranh chấp thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 6 trang )

NGHIÊN cứu - TRAO ĐÓI

LUẬT sư VIETNAM
V 1 E TN AM L A w Y HR JOURNAL

só 7.THÁNG 7-2022

TÀI TRỌ CỦA BÊN THÚ BA
TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI VÀ TỐ TỤNG
TỊA ÁN TRONG TRANH CHẤP THUONG MẠI

TS. CHÂU HUY QUANG
LUẬT Sư ĐIỀU HÀNH RAJAH & TANN LCT
THÀNH VIÊN TÒA TRỌNG TÀI ICC TẠI VIỆT NAM; TRỌNG TÀI VIÊN VIAC

Tóm tắt: Cơ chế “tài trợ của bên thứ ba" (third party funding/TPF) là một trong những cơ chê tài chính pháp lý nhận
được sự quan tâm từ cộng đông luật và trọng tài quốc tế. TPF được thiết kếnhằm cho phép một bên thứ ba - không phải bên
liên quan trực tiêp trong vụ kiện (tại tòa án hoặc trọng tài) - tham gia câp tài chính cho một bên nguyên đơn hoặc bị đơn
vón khơng có đủ nguồn lực theo đuổi vụ kiện của mình.
Tuy nhiên, hiện chưa có một cách hiểu thống nhất vê cơ che'TPF. Một sô'học giả xem TPF là một thương vụ đau tư tài
chính, cho vay thương mại, sô'khác xem TPF như một dạng hợp đơng bảo hiểm tài chính. Hiện nay, định nghĩa vê TPF vẫn
đang được nghiên cứu phát triển, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn. Bài viết phân tích, làm rõ những khái niệm và cung
cấp một SỐ thông tin liên quan đêh TPF.
Từ khóa: Tranh châp thương mại quốc tế, trọng tài quốc tế, tài trợ của bên thứ ba.
Abstract: Nowadays, Third-Party Funding (TPF) is becoming one of the most credible legal funding options gaining
traction across both the international legal and arbitration communities. TPF is designed to enable a third party - who is
neither related to nor closely connected with the commercial dispute (in litigation or international arbitration) - to provide
financing for a party (either the claimant or the respondent) that has sought funding for costs related to the litigation/
arbitration proceedings.
However, there is currently no consensus on how the TPF would operate. Some legal practitioners view this mechanism as
a commercial investment/loan whilst others view it as a form offinancial assurance. At present, the TPF is being defined and


developed to suit the current needs of the legal profession. This article analyzes how the TPF would operate internationally
in the context of international dispute settlement through litigation and arbitration proceedings.
Keywords: International commercial dispute, international arbitration, third-party funding.


V I E T*N AM L A w V E ft JOURNAL

SỐ 7.THÁNG 7-2022

ự hình thành cơ chế
TPF song hành với q
trình tồn cầu hóa của
thương mại quốc tế,
theo đó trọng tài quốc tế trở thành
cơ chế giải quyết tranh chấp đầu
tư, thương mại chiếm ưu thế. Tính
đến năm 2018, thị trường tài trợ
cho tố tụng có giá trị được ước
tính vào khống 50-100 tỷ USD, thị
phần này thu hút sự quan tâm của
các hãng luật quốc tế, quỹ phòng
hộ, quỹ đầu tư mạo hiểm, các
nhà tài phiệt, quỹ mở với phương
châm chung "rủi ro càng lớn - lợi
nhuận càng cao". Theo thống kê
trên hệ thống giải quyết tranh chấp
giữa các nhà đầu tư của Hội nghị
Liên hiệp quốc về Thương mại
và Phát triền (UNCTAD'S ISDS
Navigator), đến thời điểm tháng

4/2021, có 34 vụ tranh chấp đầu tư
quốc tế (ISDS) (trong đó 26 vụ kiện
đã hồn thành và 08 vụ kiện chưa
hồn thành) mà bên ngun đơn có
nhận tài trợ TPF.
Khoản tài trợ sẽ được dùng để
chi trả toàn bộ hoặc một phần các
chi phí pháp lý phát sinh từ vụ
kiện. Đổi lại, nhà tài trợ sẽ nhận
được khoản bồi hoàn tính theo tỷ
lệ phần trăm trên khoản tiền mà
bên nhận tài trợ được hưởng theo
phán quyết của tòa án hoặc trọng
tài, hoặc theo sự dàn xếp hòa giải
của các bên. Thực tế, các nhà tài trợ
có thê nhận lại số tiền đã đầu tư tài
trợ cộng thêm một khoản tiền (dao
động từ 60% đến 500% trên tổng số
tiền đã đầu tư) tính theo tỷ lệ phần
trăm trên khoản tiền được tun
theo phán quyết, cịn bên nhận tài
trợ sẽ khơng phải trả bất kỳ khoản
chi phí nào kê’ cả trong trường hợp
kết quả chung thẩm bất lợi.
Mơ hình TPF được nhìn nhận
là phương tiện bổ trợ tư pháp điển
hình trong các vụ tố tụng. Tranh
chấp đầu tư thương mại quốc tế
thu hút sự quan tâm của các nhà
tài trợ vì sức hút từ giá trị của các

vụ tranh chấp đó sẽ rất lớn, phán
quyết mang tính chung thẩm và

nhất là việc thi hành phán quyết
trọng tài quốc tế được thừa nhận
rộng rãi qua cơ chế công nhận và
thi hành phán quyết của Công ước
New York (1958).

Hướng tiếp cận của một số
quốc gia, trung tâm
trọng tài quốc tê đối với
mơ hình TPF
TPF vẫn còn là một cơ chế non
trẻ, chưa được kiểm sốt cũng
như quản lý chặt chẽ dưới góc độ
pháp luật. Một số nhà hoạch định
chính sách ở Australia, Hồng Kơng
và Singapore đã thực hiện những
bước tiếp cận ban đầu nhằm kiểm
sốt mơ hình TPF.
Australia
Trước năm 2006, các nước theo
hệ thống thơng luật như Australia
có quan điểm rằng, việc bên thứ
ba tham gia chống lại, ủng hộ,
hoặc hỗ trợ tài chính cho một bên
đương sự trong q trình tranh
tụng vói bên đương sự khác sẽ bị
xem là trái pháp luật do ảnh hưởng

của học thuyết "Maintenance and
Champerty"™. Tuy nhiên, sau này
Tòa án tối cao của Australia đã ban
hành các phán quyết cho phép tiến
hành mơ hình TPF. Các phán quyết
này đã tạo cơ hội để các nhà tài trợ
cấp tài chính cho bên đương sự
khơng có khả năng thanh tốn chi
phí tố tung.
Năm 2011, Chính phủ Australia
ban hành một đạo luật hợp pháp
hóa việc nhận tài trợ từ bên thứ
ba. Nhà tài trợ phải tuân theo các
điều khoản của Luật về úy ban
Chứng khoán và Đầu tư Australia
năm 2001 (Đạo luật ASIC), gồm các
biện pháp bảo vệ chống lại các thỏa
thuận không công bằng, hành vi
gây nhầm lẫn... Các điều khoản này
giúp khắc phục những thiếu sót
hoặc yếu tố gây nhầm lẫn trong các
thỏa thuận tài trợ tố tụng.
Tiêu chí cho nhà tài trợ: Nhà tài
trợ cần đáp ứng một số u cầu
như phải có giấy phép dịch vụ

tài chính (Australian Financial
Services License - AFSL) và mỗi
thỏa thuận, kế hoạch tài trợ tố tụng
đều phải được đăng ký như một

thỏa thuận đầu tư chung trừ một
vài trường hợp được miễn trừ đăng
ký như tài trợ tố tụng trong vụ kiện
phá sản, hoặc vụ kiện chi có một
nguyên đơn tham gia. Việc ký kết
hợp đồng cung cấp tài chính cho
một bên trong vụ kiện sẽ là căn cứ
phát sinh mối quan hệ giữa nhà tài
trợ với bên nhận tài trợ.
Một điểm đáng chú ý là
Australia khơng có bất kỳ điều luật
hoặc quy định nào về giá trị nhận
tài trợ. Do đó, tịa án sẽ quyết định
liệu một hoặc một số điều khoản
trong thỏa thuận TPF có trái các
chính sách cơng hay khơng tùy vào
từng trường hợp cụ thể.
Nghĩa vụ tiết lộ: Pháp luật
Australia khơng buộc tiết lộ danh
tính của nhà tài trợ đối với thỏa
thuận/kế hoạch đầu tư không được
xem là thỏa thuận đầu tư chung.
Tuy nhiên, đối với các thỏa thuận
đầu tư cịn lại thì nhà tài trợ phải
thực hiện đăng ký, qua đó tiết lộ
các thơng tin các bên liên quan và
nội dung thỏa thuận tài trợ.
HôngKông
Hồng Kông và Singapore tiên
phong trong việc xây dựng mơ

hình TPF thơng qua việc thiết kế
các quy định về tài trợ từ bên thứ
ba trong trọng tài quốc tế.
TPF vẫn là một vấn đề tương
đối mói ở Hồng Kơng. Đến năm
2017, khi Pháp lệnh số 6 về Trọng
tài và Hòa giải (tài trợ của bên thứ
ba) (sửa đổi) được thông qua (Pháp
lệnh Trọng tài & Hịa giải) thì TPF
trong tố tụng tịa án, tố tụng trọng
tài, hịa giải và các quy trình tố tụng
liên quan mới được hợp pháp hóa
tại Hồng Kơng. Pháp lệnh này đã
tạo hành lang pháp lý chính thức
cho các thỏa thuận tài trợ. Các quy
định chi tiết cũng được quy định
trong Quy tắc Quản lý trọng tài do
Trung tâm Trọng tài quốc tế Hồng
Kông (HKIAC) ban hành năm 2018,

(1) Học thuyết “Maintenance and Champerty” là học thuyết phổ biến tại các nước theo thơng luật, frong đó: Maintenance là việc một bên không liên quan tiếp tay, chống lại, ủng
hộ hay khuyến khích một bên trong một vụ kiện; Champerty là sự hồ trợ tài chính bởi một bên khơng liên quan đến vụ kiện, nhằm giúp nguyên đơn thực hiện tố tụng, và nếu
thắng kiện, nguyên đơn sè trả cho họ một phần tiền thu được từ vụ kiện.

©-


NGHIÊN CỨU - TRAO Đổi

LUẬT SƯ VIETNAM

VIETNAM LAWYER JOURNAL ■

SỐ 7.THÁNG 7-2022

nhằm hướng dẫn rõ ràng hơn cho
Hội đồng trọng tài, các bên tham gia
tố tụng trọng tài và các nhà tài trợ.
Tuy TPF đã được hợp pháp hóa
và có thể áp dụng cho tố tụng trọng
tài, vẫn còn tồn tại các quan ngại
rằng các bên có thể lạm dụng TPF
khi thực hiện các thú tục tố tụng
tại tòa án vói một số lý do như: (i)
khơng có khn khổ pháp lý hoặc
bộ quy tắc hành nghề cho việc tài
trợ của bên thứ ba đối với tố tụng
thông thường tại tịa án. Tịa án
cũng khơng có thẩm quỳên ban
hành bất ky bộ quy tắc hành nghề
liên quan nào; (ii) các biện pháp
bảo vệ theo luật định quan trọng
đối với TPF trong tố tụng trọng
tài đã được áp dụng đê hạn chế
trường hợp bên tài trợ lạm dụng
bên nhận tài trợ, nhưng những biện
pháp bảo vệ không cần thiết phải
được thực hiện bởi tịa án. Cơ quan
chun mơn, tịa án cũng khơng có
khả năng giải quyết các vấn đ'ê liên
quan đến điều kiện hoạt động của

nhà tài trợ, việc thực hiện các thỏa
thuận tài trợ và giám sát các hoạt
động tài trợ đê ngăn chặn việc lạm
dụng trên; và (iii) các tịa án Hồng
Kơng khơng có khn khơ pháp lý

khả thi đê xem xét và thẩm định các
điều khoản tài trợ của bên thứ ba
trong các vụ tố tụng tại tòa.
Tiêu chí cho nhà tài trợ: Theo
Pháp lệnh sửa đổi, nhà tài trợ được
định nghĩa là (i) một bên trong thỏa
thuận tài trợ nhằm tài trợ cho bên
đương sự tham gia vào q trình tố
tụng trọng tài; và (ii) khơng nhận
được bất kỳ lợi ích nào khác từ
q trình tố tụng ngồi các lợi ích
trong thỏa thuận tài trợ. Ngồi ra,
nhà tài trợ còn phải đáp ling một
số quy định tại thỏa thuận tài trợ,
chẳng hạn, nhà tài trợ phải đáp ứng
mức vốn tối thiếu, đồng thời phải
bảo đảm rằng trước khi ký kết, bên
nhận tài trợ biết mình có quyền
th tư vấn pháp lý đê’hiểu rõ thỏa
thuận tài trợ. Nếu bên nhận tài trợ
xác nhận bằng văn bản họ đã nhận
được tư vấn pháp lý trước khi ký
kết thỏa thuận tài trợ, yêu cầu này
được xem đã được đáp ứng.

Nghĩa vụ minh bạch: Pháp lệnh
Trọng tài & Hòa giải cũng yêu
cầu các bên phải gửi văn bản cho
cơ quan trọng tài nhằm thông báo
thỏa thuận tài trợ đã được ký kết
(thể hiện rõ tên của nhà tài trợ)
hoặc thông báo việc chấm dứt thỏa

thuận tài trợ (kèm thời điểm chấm
dứt thỏa thuận). Thông báo này
phải được gửi vào ngày bắt đầu tố
tụng trọng tài (nếu thỏa thuận tài
trợ được ký trước ngày đó) hoặc 15
ngày kê từ khi thỏa thuận tài trợ
được ký kết (nếu thỏa thuận tài trợ
được ký sau ngày bắt đầu tố tụng
trọng tài). Như vậy, các bên khơng
có nghĩa vụ tiết lộ chi tiết nội dung
thỏa thuận tài trợ trừ trường hợp
các điều khoản của thỏa thuận tài
trợ yêu cầu, hay có quyết định của
cơ quan trọng tài hoặc theo quy
định khác của pháp luật.
Singapore
Kê’ từ năm 2017, Singapore đã
hợp pháp hóa cơ chế TPF thơng
qua Đạo luật Dân sự (The Civil Law
Act), quy định này cho phép một
bên nhận tài trợ TPF trong tố tụng
trọng tài, hòa giải và tố tụng tại

tòa án. Quyết định quan trọng này
giúp Singapore củng cố vị trí trung
tâm giải quyết tranh chấp quốc tế
hàng đầu ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. Điển hình, Quy tắc
Trọng tài đầu tư 2017 của Trung
tâm Trọng tài quốc tế Singapore
(SIAC) cho phép Hội đồng trọng tài
có quyền ban hành quyết định tiết
lộ sự tồn tại của thỏa thuận tài trợ
mà một trong các bên của tố tụng
trọng tài đã ký kết, tiết lộ thông tin
của nhà tài trợ liên quan và lợi ích
của nhà tài trợ từ kết quả vụ kiện
trọng tài.
Ngày 31/3/2017, SIAC đã ban
hành Quy chế hành nghề về Quy
tắc ứng xử của Trọng tài (Practice
Note on Arbitrator Conduct in Cases
Involving External Funding) áp dụng
cho những vụ kiện liên quan đến
việc nhận tài trợ từ các bên thứ ba.
Quy chế này bao gồm các hướng
dân về tiêu chuẩn hành nghề và quy
tăc ứng xử cho các trọng tài viên
liên quan đến các vấn đề về độc lập
và công bằng, tiết lộ và chi phí.
Theo Bộ Tư pháp Singapore, từ
năm 2021, TPF sẽ được mở rộng sử
dụng trong tố tụng trọng tài trong

nước cũng như sử dụng trong một
SỐ thủ tục tố tụng nhất định tại Tòa
án Thương mại quốc tế Singapore
(SICC). Kê’ từ ngày 28/6/2021,


LUẬT sư VIỆT NAM



NGHIÊN cứu - TRAO Đổi

V 1 E T*N A M L A w Y E t< JOURNAL

SỐ 7.THÁNG 7-2022

Singapore sẽ mở rộng việc nhận tài
trợ TPF trong các lĩnh vực mới như:
tô' tụng trọng tài trong nước, thủ
tục tố tụng tại tòa án phát sinh từ
hoặc liên quan đến tố tụng trọng tài
trong nước, các vụ việc được SICC
thụ lý và các kháng cáo đối với vụ
việc đó, và thủ tục hịa giải liên
quan đến các thủ tục nêu trên. Các
luật sư Singapore và luật sư nước
ngoài làm việc tại Singapore được
phép giói thiệu, kết nối nhà tài trợ
cho khách hàng của mình vói điều
kiện việc giới thiệu không trực tiếp

mang lại cho họ bất kỳ lợi ích tài
chính nào cho bản thân luật sư.
Tiêu chí để trở thành nhà tài trợ:
Để được phép tham gia vào các hợp
đồng TPF, nhà tài trợ phải đáp ling
được các tiêu chí: (i) phải thực hiện
hoạt động kinh doanh (ở Singapore
hoặc nơi khác), (ii) không phải là
một trong các bên của vụ tranh
chấp; và (iii) có cổ phần đã thanh
tốn hoặc "tài sản được quản lý"
không dưới 5 triệu đô la Singapore
hoặc giá trị tương đương.
Nghĩa vụ tiết lộ: Tương tự như
Hồng Kông, Luật Luật sư 2015 (Quy
tắc ứng xử nghề) (Legal Profession
2015 (Professional Conduct)) cũng
yêu cầu các bên phải tiết lộ sự tồn
tại của thỏa thuận TPF. Các luật sư
cũng có nghĩa vụ phải tiết lộ cho
tịa án hoặc hội đồng trọng tài và
các bên tham gia tô' tụng về sự tồn
tại của bất kỳ thỏa thuận tài trợ nào
cũng như danh tính và địa chi của
nhà tài trợ. Việc tiết lộ phải được
thực hiện vào ngày bắt đầu thủ tục
giải quyết tranh chấp (nếu thỏa
thuận tài trợ được ký kết trước
ngày đó) hoặc sớm nhất có thê kể
từ khi thỏa thuận tài trợ được ký

kết (nếu thỏa thuận tài trợ được ký
sau ngày bắt đầu thủ tục giải quyết
tranh chấp).

Quy tắc ICC (2021) của Tòa
án Trọng tài quốc tế (ICC)
Quy tắc TỐ tụng bô sung, sửa
đổi của ICC (có hiệu lực từ ngày
01/01/2021) bổ sung các quy định
mới với nỗ lực duy trì cơ chế trọng
tài minh bạch thông qua việc bảo

0

đảm sự độc lập và công bằng của
Hội đồng trọng tài. Điển hình như
quy định về tiết lộ những thỏa
thuận TPF cho Tổng thư ký của
ICC, Hội đồng trọng tài và các bên
liên quan khác. Điều 11.7 của Quy
tắc ICC 2021 quy định:
"Nhằm hỗ trợ các trọng tài viên
(sẽ được chỉ định hoặc đã được chỉ
định) trong việc tuân thủ nhiệm vụ
của trọng tài viên đó tại Điều 11.2
và Điều 11.3, mỗi bên phải nhanh
chóng thơng báo Ban thư ký, Hội
đồng trọng tài và các bên còn lại,
sự tồn tại và danh tính của bất kỳ
bên khơng liên quan nào đã xác

lập một thỏa thuận về việc hỗ trợ
tài chính cho các yêu cầu khởi kiện
hoặc các yêu cầu tự bảo vệ và theo
thỏa thuận đó, bên khơng liên quan
đó có lợi ích kinh tế liên quan đến
kết quả của tố tụng trọng tài".
Việc thông báo về TPF là yêu
cầu bắt buộc trong tố tụng trọng
tài ICC, yêu cầu này bảo đảm
nguyên tắc độc lập, khách quan
của trọng tài viên (tại Điều 11.2
của Quy tắc ICC) và nguyên tắc
thông báo khi phát hiện sự không
độc lập khách quan (tại Điều 11.3
của Quy tắc ICC) của trọng tài
viên được chi định.
Việc thông báo về TPF chi giới
hạn ở "có hay khơng có sự tồn tại
của TPF" và danh tính của nhà tài
trợ TPF. Như vậy, các nội dung về
tài chính, quyền và nghĩa vụ của
các bên tại thỏa thuận TPF là các
nội dung không buộc phải thông
báo đến Hội đồng trọng tài và Ban
thư ký của ICC. Quy định này bảo
đảm tính cân bằng giữa việc tơn
trọng sự tồn tại của TPF và sự ảnh
hưởng của TPF tới tơ' tụng trọng
tài, cũng như bảo đảm tính bảo mật
đối với các vấn đề thương mại giữa

các bên trong TPF.

Tiếp cận của Việt Nam
đối với mơ hình TPF
TPF trong hệ thơng tơ' tụng tại
tịa án (kinh tế, dân sự) Việt Nam
Tại Việt Nam, cơ che'TPF chưa
được ghi nhận tại bất kỳ văn bản
pháp luật nào. Theo quy định tại

Bộ luật Tô' tụng dân sự 2015 (Bộ
luật TTDS), đương sự trong vụ án
dân sự bao gồm nguyên đơn, bị
đơn và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Nguyên đơn trong vụ
án dân sự là người khởi kiện yêu
cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự
khi cho rằng quyền và lợi ích họp
pháp của người đó bị xâm phạm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án dân sự được hiểu
là người khơng tham gia vói tư
cách ngun hay bị đơn trong vụ
kiện, nhưng việc giải quyết vụ án
dân sự có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ. Những người liên
quan có thê’ được tham gia tơ' tụng
với tư cách là một bên đương sự, có
quyền và nghĩa vụ tố tụng, có thê’
có yêu cầu độc lập đối với yêu cầu

của nguyên đơn hoặc bị đơn trong
vụ việc.
Xét về bản chất của cơ chế TPF
(đơn thuần như tài trợ cho việc tố
tụng kèm theo thỏa thuận về khoản
lợi nhuận phân chia theo kết quả
phân xử vụ kiện), có thê’ nhận thấy
nhà tài trợ khơng phải người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng
như đối tượng điều chỉnh của Bộ
luật TTDS. Pháp luật tô' tụng dân
sự ghi nhận quyền tự do quyết
định và tự định đoạt của đương
sự về việc khởi kiện. Việc nguyên
đơn nhận tài trợ từ một bên thứ ba
đê’ có được hậu thuẫn về tài chính,
có điều kiện thuận lợi hơn đê’ theo
đuổi vụ kiện nhầm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình có thê’
được xem là thỏa thuận dân sự
giữa nhà tài trợ và bên nhận tài trợ.
Thỏa thuận này nằm trong khuôn
khô’ quyền tự do định đoạt, quyết
định việc khởi kiện của bên nhận
tài trợ.
Mặc dù pháp luật khơng có quy
định cụ thê’ nham hạn chế một số
hiện tượng có thê’bị xem là hành vi
tiêu cực gây ảnh hưởng hoạt động
tư pháp, xét xử như "xui nguyên

giục bị" phát sinh kiện tụng, khiêù
nại kéo dài... Tuy nhiên, Bộ quy tắc
Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
luật sư Việt Nam (ban hành ngày
13/12/2019) yêu cầu luật sư có nghĩa
vụ khuyến nghị khách hàng tránh


—ZZI

NGHIÊN CỨU - TRAO Đổi

LUẬT sư VIỆT NAM I

VIETNAM L A w Y B k J o u R N al

_______________________________________________________

SÓ 7.THẤNG 7-2022

việc khiếu nại, tố cáo trái pháp luật,
gây ảnh hưởng đến quản lý nhà
nước về trật tự an tồn xã hội. Như
vậy, nghĩa vụ khuyến nghị nói trên
áp dụng cho đối tượng cụ thể là
luật sư, áp dụng trong trường hợp
luật sư nhận thấy việc khiếu nại tố
cáo là trái pháp luật. Do đó, có thê’
hiểu rằng nghĩa vụ này không ảnh
hưởng đến quyền định đoạt tuyệt

đối của đương sự, không ngăn cản
hay hạn chế việc một bên thứ ba tài
cấp tài chính cho đương sự.
Tuy nhiên, Bộ luật TTDS yêu cầu
mọi cam kết, thỏa thuận giữa các
bên phải tuân thủ điều kiện không vi
phạm điều cấm của luật, cũng nhu
khơng trái đạo đức xã hội. Do đó,
việc triển khai mơ hình TPF tại Việt
Nam có rủi ro nhất định. Cụ thể, việc
nhận hỗ trợ tài chính từ một bên thứ
ba để tiến hành khởi kiện, cũng như
việc cấp tài chính cho đương sự để
kiện chống lại một bên khác có thê’
bị xem là "trái đạo đức xã hội" do
có yếu tố trục lợi hoặc bị xem là có
mục đích hạ bệ, cạnh tranh khơng
lành mạnh bên cịn lại trong vụ
tranh chấp. Việc nhận tài chính đê’
theo đuổi vụ kiện cũng có thê được
nhìn nhận như tác nhân thúc đẩy
chính, tác động đáng kể đến ý chí,
động cơ của đương sự, nhằm mục
đích gây xáo trộn an ninh, trật tự xã
hội. Do đó, cơ chế TPF có khả năng
khó được thừa nhận chính thức, vì
có thê gây hiệu ứng tiêu cực về mặt
xã hội, đe dọa trật tự công cộng, đạo
đức xã hội như đã đề cập.


Bối cảnh thực thi cam kết
quốc tê'
Trong bối cảnh hệ thống pháp
luật nội địa của Việt Nam chưa có
cơ chế pháp lý cho mơ hình TPF,
tại một số hiệp định thương mại
mà Việt Nam là thành viên có ghi
nhận một số nội dung liên quan
đến TPF. Điển hình là Hiệp định
Bảo hộ đầu tư Việt Nam - châu Âu
(EVIPA) - hiệp định thương mại
đầu tư đa phương được ký kết
nhằm bảo vệ các nhà đầu tư của các
nước thuộc Liên minh châu Âu và
các khoản đầu tư của họ trên lãnh

thổ Việt Nam và ngược lại. Ngoài
cam kết về các nguyên tắc cơ bản
như nhà đầu tư và các khoản đầu
tư phải được đối xử cơng bằng và
bình đẳng, EVIPA cũng quy định
các thủ tục giải quyết tranh chấp và
giói thiệu về mơ hình TPF:
“Đĩêu 3.37 - Tài trợ từ bên thứ ba
1. Đôĩ với tài trợ từ bên thứ ba, bên
tranh chấp nhận tài trợ phải thông báo
đến bên tranh châp cịn lại và hội đơng
cáp sơ thẩm hoặc chủ tịch cấp sơ thẩm,
nếu hội đông cấp sơ thẩm không được
thành lập, về sự hiện hữu và bản chất

của thỏa thuận tài trợ, tên và địa chỉ
của bên thứ ba tài trợ.
2. Thông báo này phải được gửi
cùng lúc với việc nộp đơn khiếu kiện,
hoặc khi thỏa thuận tài trợ được ký kết
hoặc sự kêu gọi qun góp hoặc viện
trợ khơng hoàn lại được thực hiện nếu
thỏa thuận được ký kết hoặc quyên góp,
viện trợ đó được thực hiện sau khi đệ
trình khiêu kiện.
3. Khi áp dụng Điêu 3.48 (Biện pháp
bảo đảm chi phí), cấp sơ thẩm phải xem
xét xem có tài trợ từ bên thứ ba không.
Khi quyết định chi phí tơ' tụng căn cứ
khoản 4 Điêu 3.53 (Phán quyết sơ bộ),
cấp sơ thẩm phải xem xét xem các yêu
cáu quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điêu này có được đáp ứng không".
Tuy nhiên, EVIPA chỉ đưa ra các
điều khoản quy định:
- Nghĩa vụ tiết lộ: về sự tồn tại
của TPF trong một vụ việc bất kỳ.
Cụ thể, bên nhận tài trợ sẽ có nghĩa
vụ gửi thơng báo cho chánh án
hoặc hội đồng xét xử kèm theo các
thông tin xác nhận sự tồn tại của
thỏa thuận tài trợ (Chương 3, mục
B, tiếu mục 3, Điêu 3.37.1, EVIPA).
- Nội dung cần tiết lộ: (i) xác
nhận sự tồn tại và bản chất của thỏa

thuận tài trợ; và (ii) tên và địa chỉ
của nhà tài trợ.
- Thời điểm gửi thông báo:
thông báo phải được gửi kèm yêu
cầu khởi kiện (nếu yêu cầu khởi
kiện chưa được gửi đi tại thời điểm
ký kết thỏa thuận tài trợ), hoặc gửi
ngay sau khi thỏa thuận được ký
(nếu yêu cầu khởi kiện đã được gửi
đi trước đó).

Đối với CPTPP, mặc dù không
được quy định rõ ràng, tuy nhiên
Hiệp định này cho phép các bên
thỏa thuận về quy tắc và trung tâm
trọng tài nên quy định về TPF có
thê’ sẽ được điều chinh căn cứ vào
thỏa thuận của các bên.
Ưu điểm: Nhìn chung, việc áp
dụng mơ hình TPF theo EVIPA có
thê’ đáp ứng được một số nhu cầu
thực tế của các bên liên quan như:
- Cung cấp hỗ trợ về chi phí
pháp lý, nhất là trong trường hợp
thủ tục tố tụng kéo dài. Nếu bên
khởi kiện khơng có đủ nguồn lực
tài chính đê’ theo đuổi vụ kiện đến
khi đạt được kết quả chung thẩm,
việc nhận các khoản tài trợ TPF có
thể là lựa chọn duy nhất mà họ có.

- Đánh giá đối với khả năng của
bên nhận tài trợ: vì các nhà tài trợ
quan tâm đến mối tương quan giữa
khoản tiền ứng trước cho các chi
phí tố tụng, chi phí pháp lý so với
khoản tiền có thể được hưởng theo
phán quyết, cho nên thông thường
các nhà tài trợ sẽ tiến hành đánh giá
khả năng thắng kiện của các bên.
Q trình phân tích này thường
mất nhiều thời gian vì các nhà tài
trợ sẽ tự mình phân tích hoặc th
các hãng luật tiến hành phân tích
vụ việc, phần tích những yếu tố
ảnh hưởng đến quyết định tài trợ
của họ. Trong một số trường hợp,
những phân tích và đánh giá này
sẽ được nhà tài trợ chủ động tiết lộ
cho bên nhận tài trợ nhu một thành
ý trong việc tài trợ. Bên nhận tài trợ
có thê sẽ khơng cần trả phí nhưng
vẫn nhận được những thơng tin
quan trọng, có giá trị và đáng tin
cậy này.
Hạn chê: Các quy định điều
chỉnh vấn đề liên quan đến TPF ở
Việt Nam chưa được xây dựng đầy
đủ và vẫn còn những hạn chế nhất
định như:
- Việc thiếu các điều khoản cụ

thê’ quy định và điều chinh các vấn
đề xoay quanh TPF khiến các bên gồm nhà tài trợ, bên nhận tài trợ và
bên đối lập của họ trong quá trình
tố tụng phải đối mặt với nhiều vấn
đề phức tạp và tốn kém thời gian
đê’ xác lập thỏa thuận.


LUẬT Sư VIỆT NAM

NGHIÊN cứu - TRAO Đổi

V I E T N A M L A w Y E ft JOURNAL

SĨ 7.THÁNG 7-2022

- Do chưa có quy định cụ thể,
bên cần nhận tài trợ có thể sẽ phải
tự thực hiện thẩm định đối vói nhà
tài trợ của mình (chẳng hạn đánh
giá việc liệu nhà tài trợ có đủ năng
lực tài chính để cấp tài chính cho
việc theo đuổi vụ kiện) và thưong
lượng thỏa thuận tài trợ với sự cẩn
trọng (vì thỏa thuận tài trọ có thê là
cơ sở pháp lý duy nhất điều chỉnh
mối quan hệ trong mơ hình TPF).
- Các bên có thê’ vừa tham gia
vào q trình xử lý tranh chấp, vừa
tốn thêm các gánh nặng phát sinh từ

nhu cầu tìm kiếm tài trợ, thẩm định
năng lực nhà tài trợ, thương thảo với
các bên liên quan cũng như các chi
phí phát sinh trong q trình chuẩn
bị, thực hiện thỏa thuận tài trợ.

MƠ hình TPF ở Việt Nam
Chi phí pháp lý cho các vụ kiện,
tranh tụng kéo dài gây trở ngại
cho doanh nghiệp trong nỗ lực tìm
kiếm một giải pháp pháp lý hữu
hiệu khi phát sinh tranh chấp. Việc
thiếu các quy định cụ thể về cơ chế
TPF sẽ gây trở ngại lớn trong việc
áp dụng mơ hình này vào thực tế,
tăng gánh nặng tài chính cho các
đương sự. Để bắt kịp xu hướng
quốc tế cũng như đáp ứng nhu
cầu của các bên tham gia tranh
chấp, việc xây dựng hoàn thiện các
quy định liên quan đến TPF trong
khoảng thời gian sắp tới là điều rất

cần thiết. Việt Nam cần nghiên cứu
hồn thiện quy định để triển khai
mơ hình TPF tại Việt Nam theo các
cách tiếp cận như:
Thứ nhất, cần bổ sung các quy
định về nghĩa vụ cụ thể của luật sư
(chẳng hạn, luật sư có được kết nối

nhà tài trợ cho thân chủ của mình
hoặc luật sư có được tiết lộ thơng
tin của nhà tài trợ hay khơng) vì
luật sư có mối liên hệ chặt chẽ với
khách hàng và bên nhận tài trợ.
Thứ hai, quy định về điều kiện
đối với nhà tài trợ và bên nhận tài
trợ. Mơ hình TPF tại Hiệp định
EVIPA chỉ quy định nghĩa vụ của
các bên khi tồn tại việc nhận tài trợ
của bên thứ ba nhưng lại chưa đặt
ra các tiêu chuẩn đối với các bên đê
thực hiện việc tài trợ hoặc nhận tài
trợ (ví dụ, luật Singapore quy định
các tiêu chí để một bên trở thành
nhà tài trợ trong đó có điều kiện về
mức vốn pháp định), các tiêu chuẩn
này cần được cụ thể hóa tương tự
các tiêu chuẩn để thành lập cơng ty
(gồm các điều kiện cụ thể, ngành
nghề kinh doanh, vốn điều lệ...).
Việc đưa ra các tiêu chuẩn này có
thể giúp các bên tránh khỏi một số
rủi ro, đặc biệt là giúp bên nhận tài
trợ an tâm hơn về khả năng hỗ trợ
của nhà tài trợ này cũng như tránh
được rủi ro ký kết thỏa thuận với
nhà tài trợ khơng có năng lực thực
hiện TPF.


Thứ ba, quy định về cơ quan
giám sát TPF: đề xuất này xuất phát
từ thực tế là mô hình TPF tại nhiều
quốc gia chưa có quy định về cơ
quan giám sát. Việc quy định một cơ
quan hay phòng ban có chức năng
giám sát chuyên biệt có thê’ giúp Nhà
nước quản lý mơ hình TPF tốt hơn,
đồng thời cơ quan này cũng có thể
cung cấp thơng tin hỗ trợ hoặc kết
nối các bên có nhu cầu cung cấp và
nhận tài trợ.
Thứ tư, cần thiết nội luật hóa một
số cam kết quốc tế của Việt Nam theo
các hiệp định bảo hộ đầu tư liên quan
cơ chế TPF, mà cụ thể là bô’ sung, sửa
đổi một số đạo luật như Luật Luật
sư, Bộ luật TTDS, Luật Trọng tài
thương mại và quy tắc tố tụng của
các trung tâm trọng tài thương mại
như VIAC (chẳng hạn theo hướng
tiếp cận của Quy tắc ICC 2021, Điều
11.7). Theo đó, cần bơ’ sung quy định
u cầu các bên có nghĩa vụ cơng bố
sự tồn tại của thỏa thuận TPF, đồng
thời tiết lộ danh tính của các bên
tham gia thỏa thuận TPF, nâng cao
tính minh bạch của thỏa thuận này.
Luật cũng cân mở rộng thẩm quyền
của hội đồng trọng tài, theo đó có các

biện pháp ngăn chặn xung đột lợi ích
có thê’ phát sinh từ việc một bên thứ
ba tham gia vào vụ việc tranh chấp,
cụ thê’ là sự tham gia của bên tài trợ
thông qua việc cấp chi phí tố tụng.
C.H.Q

Tài liệu tham khảo:
1 . s. SEIDEL, "Third Party Capital Funding Of International Arbitration Claims: An Awakening And A
Future", Financier Worldwide July 2012
2 . w. Park, c. Rogers, Third-Party Funding in International Arbitration: The ICCA Queen-Mary Task Force,
"The Pennsylvania State University The Dickinson School Of Law, Legal Studies Research Paper" 2014, No.
42, [online] abstract=2507461
3 .HCMP 2728/2017; [2020] HKCFI493 />pdf
4 . Steinitz, 2019
5 .https ://mon i tor mag. ca/a r ticles/thi r d-p ar ty-funding-of-inves tor-state-disputes-at-whatcost#:~:text=Third%2Dparty%20funding%20is%20a,in%20favour%20of%20the%20investor
6 . —third-party-funding-inintemational-arbitration/



×