Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tổng hợp đường lối cách mạng ĐH Kinh tế luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.44 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
NHÓM 6 – NỘI DUNG 5
Câu 1: Những vấn đề cần giải quyết nhằm hoàn thiện thể chế KTTT định
hướng XHCN?
Câu 2: So sánh nền Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa?
Câu 3: Vai trị, vị trí của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi trong
nền kinh tế nước ta hiện nay?
Trả lời:
Câu 1: Những vấn đề cần giải quyết nhằm hoàn thiện thể chế KTTT định
hướng XHCN
I/Khái niệm kinh tế thị trường:
Là nền kinh tế dựa trên sản xuất hàng hoá phát triển và hoạt động theo cơ chế thị
trường, ra đời từ phương thức sản xuất TBCN.
Ngày nay nền kinh tế thị trường được áp dụng khá phổ biến ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế dựa trên sản xuất hàng hoá phát
triển và hoạt động theo cơ chế thị trường ra đời từ phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ thị trường điều tiết mọi quan hệ kinh
tế - xã hội trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, sản xuất, thương mại,
tài chính, tín dụng, tiền tệ, lao động, kể cả một phần quan trọng trong văn hoá, giáo
dục, y tế... Người sản xuất, người tiêu dùng, mọi thành viên xã hội tự chủ hoạt
động trên thị trường, bị chi phối bởi các quy luật của thị trường.
Kinh tế thị trường không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản, cũng không tự phát lên
chủ nghĩa xã hội.


II/Thể chế kinh tế -thể chế kinh tế thị trường
1) Thể chế kinh tế:
Là hệ thống các quy phạm pháp luậtnhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành
vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế.


2) Thể chế kinh tế thị trường:
Bộ quy tắc luật lệ với hệ thống các thực thể tổ chức kinh tế điều chỉnh hoạt đông
giao dịch và trao đổi trên thị trường.
III/ Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự
lãnh đạo của Đảng CS và chịu tác động bởi hai hệ thống quy luật:
1/Quy luật kinh tế của nền KTTT.
2/Quy luật đặc thù của định hướng XHCN.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu là một kiểu tổ chức
nền kinh tế của một xã hội đặc biệt - xã hội đang ở trong thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội với xuất phát điểm thấp. Do đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa chịu tác động bởi hai hệ thống quy luật: (1) quy luật kinh tế của nền
kinh tế thị trường; và (2) quy luật đặc thù của định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển theo hướng nuôi dưỡng
và tạo điều kiện để các nhân tố mới xã hội chủ nghĩa ngày một lớn mạnh và phát
triển.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một nền kinh tế
thị trường mới, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và sự quản lý
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, nó phát huy ưu thế của cả hai thể chế là kế
hoạch và thị trường nhằm phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
không phát triển một cách tự phát, mà phát triển trong quá trình nhận thức, phấn


đấu rất cao của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đó
là quá trình chuyển đổi đặc biệt, chưa từng có trong lịch sử. Một mặt đó là q
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch chỉ huy tập trung, (kỳ thị, tẩy chay thị
trường) sang nền kinh tế thị trường; mặt khác là quá trình phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, sự chuyển đổi lại đặt trong bối cảnh của tồn

cầu hố và thế giới đang bước sang giai đoạn phát triển nền kinh tế tri thức.
IV/Quan điểm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Để thực hiện các mục tiêu trên, đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả,
bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết nêu 5 quan điểm cần quán
triệt trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta trong những năm tới là:
*Quan điểm thứ nhất:Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy
luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện
phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Thực hiện quan điểm này nhằm khắc phục tư tưởng chủ quan, duy ý chí, vi
phạm sự vận động của quy luật khách quan, cũng như khắc phục chủ nghĩa
giáo điều, rập khn, máy móc, bắt chước nước ngồi, khơng tính tới đặc
điểm và trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta; chạy theo các chỉ tiêu
kinh tế thuần túy, coi nhẹ định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng phát
triển của nền kinh tế nước ta.
*Quan điểm thứ hai:Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể
chế kinh tế.
Theo quan điểm này cần bảo đảm đồng bộ giữa các yếu tố thị trường và các
loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà
nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hố và bảo vệ mơi trường.
*Quan điểm thứ ba:Chủ động, tích cực với quyết tâm chính trị cao, tập trung giải
quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước
đi vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm.


Quan điểm này xuất phát từ thực tế của quá trình xây dựng và hồn thiện thể
chế kinh tế thị trường ở nước ta là công việc mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải
vừa làm, vừa tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm. Nhưng
yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, không

cho phép chúng ta lừng chừng, trù trừ khi đã có nhận thức đúng đắn q
trình phát triển của đất nước.
*Quan điểm thứ tư:Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường
của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền
quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
*Quan điểm thứ năm:Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu
quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong q
trình hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm này xuất phát từ bài học kinh nghiệm qua 20 năm đổi mới, xác
định đổi mới là sự nghiệp của tồn dân, do nhân dân thực hiện và vì lợi ích
của nhân dân. Do vậy, hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa phải huy động được sự tham gia của toàn dân, phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định
thắng lợi của cách mạng nước ta.
V/Mục tiêu và hạn chế:
1) Mục tiêu:
+ Đồng bộ hệ thống pháp luật
+ Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, các thành phần kinh tế và các loại
hình doanh nghiệp
+ Đổi mới cơ bản mơ hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công
+ Phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường, từng bước liên thông với thị
trường khu vực và thế giới.


+ Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, bảo
đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
+ Nâng cao hơn hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
2) Kết quả sau 25 năm đổi mới:

+ Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa thành pháp luật. Tạo hành lang
pháp lý cho thể chế kinh tế mới.
+ Các loại thị trường đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước.
+ Chế độ sở hữu nhiều thành phần
+ Việc phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội xóa đói giảm nghèo đạt
hiệu quả tích cực
>>Mục tiêu hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm mục
tiêu thực hiện “dân giầu; nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”;
giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội; Đẩy mạnh cơng cuộc xố đói,
giảm nghèo, khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người vươn lên làm giàu
chính đáng, mọi người giúp đỡ lẫn nhau để người nghèo thoát nghèo vươn
lên khá giả, người khá giả vươn lên làm giàu, mọi người được bình đẳng
trước pháp luật về cơ hội tham gia sản xuất kinh doanh làm ra nhiều của cải
cho xã hội và cải thiện đời sống cho mình, từng bước giảm dần khoảng cách
giữa các tầng lớp dân cư, các khu vực nông thôn, thành thị các vùng trung
du, miền núi vàđồng bằng.
Những mục tiêu trên đều dựa trên cơ sở giải phóng mọi tiềm năng của đất
nước, nhất là tiềm năng con người để thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế
- xã hội, bảo đảm cho mọi người đều được hưởng hành quả do sự phát triển
mang lại. Nói một cách tổng quát là phát triển kinh tế - xã hội do con người
và vì con người. Điều đó khác hẳn với mục tiêu tất cả vì lợi nhuận và lợi
nhuận
đóđược tập trung phục vụ một nhóm người, cịn số đơng được hưởng thụ
không tương xứng với công sức họ bỏ ra.


Từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, chính sách và các điều
kiện bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát
triển thuận lợi.

- Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh
mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; hình thành một số
tập đồn kinh tế, các tổng cơng ty đa sở hữu, áp dụng mơ hình quản lý hiện
đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế.
- Đổi mới cơ bản mơ hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp công.
- Phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả
nước, liên thông với thị trường khu vực và thế giới.
- Giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn
hoá, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của
Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội và nhân dân trong quản lý,
phát triển kinh tế - xã hội.
VI/ Những vấn đề cần giải quyết và giải pháp:
>>>Xử lí lợi ích cục bộ nhóm:
Mơ hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” áp dụng ở nước ta với
một thời gian chưa phải là dài, nếu không nói là cịn q ngắn ngủi nếu so với
nhiều mơ hình kinh tế đã tồn tại hàng trăm năm trên thế giới. Vì thế nên, việc nhận
thức về mơ hình kinh tế này còn đang ở chặng đường đầu, với những nét chấm phá
rất đơn giản; và, tất yếu là cịn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau, thậm chí là trái
ngược nhau.
Với mơ hình kinh tế này, bên cạnh những yếu tố cơ bản mang tính phổ quát của
các nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, yếu tố “định hướng xã hội chủ
nghĩa” với sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng
tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là một mạch
xuyên suốt quá trình xây dựng, vận hành nền kinh tế. Trong đó, có tính nhân văn
xã hội chủ nghĩa mà nếu thiếu vắng nó, sẽ khơng cịn cái gọi là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta theo đuổi.



Tính nhân văn là yêu cầu, đặc trưng tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nó địi hỏi nền kinh tế
phải vì mục tiêu nhân sinh, hướng tới các giá trị nhân bản của con người, lấy đáp
ứng các nhu cầu của đông đảo nhân dân làm mục tiêu cao cả nhất.
Tính nhân văn địi hỏi nền kinh tế phải huy động các nguồn lực cho phát triển một
cách hợp lý, dân chủ và minh bạch, khơng phải vì lợi ích riêng của một giai cấp,
một nhóm lợi ích hay một tập đồn, một doanh nghiệp. Không thể nhân danh phát
triển để huy động, sử dụng nguồn lực chung của xã hội, của số đông cho mục tiêu
kinh tế và lợi ích cục bộ của một nhóm người.
Tính nhân văn địi hỏi bên cạnh tác động của “bàn tay vơ hình”, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có “bàn tay hữu hình” của Nhà nước để
điều tiết các quá trình vận hành nền kinh tế gắn với phục vụ nhân dân và giải quyết
những vấn đề dân sinh, phúc lợi xã hội; trong đó, dành sự quan tâm đặc biệt tới
những đối tượng yếu thế trong xã hội (như người nghèo, người khuyết tật, người
sinh sống ở vùng sâu, vùng xa...).
Việt Nam đã có nhiều chuyển biến về chất trong nhận thức, cải cách kinh tế và
thiết lập, hoàn chỉnh dần thể chế kinh tế.
Tuy nhiên “Luật chơi” hiện còn thiếu đồng bộ, mâu thuẫn (cả trong thể hiện văn
bản và thực thi) và vẫn chưa thật tương thích với cơ chế thị trường và tiến trình hội
nhập. Lưu ý là tiến trình cải cách và hồn thiện hệ thống pháp luật hiện đã bước
vào giai đoạn khó khăn hơn và có nhiều thử thách hơn do phải đối mặt với những
vấn đề phức tạp và “gắn bó” hơn với định hướng XHCN(khu vực DNNN, các thị
trường nhân tố sản xuất như thị trường đất đai, thị trường tài chính, thị trường lao
động, việc thực hiện cam kết hội nhập kinh tế quốc tế).
Bất cập rõ nhất của bộ máy nhà nước và hành chính là sự yếu kém trong phối hợp
hoạch định, thực thi chính sách và trao đổi phản hồi. Hiệu lực thực thi, khả năng
giải trình yếu và việc thiếu ràng buộc trách nhiệm cũng là những vấn đề nghiêm
trọng. Những tồn tại này đã hạn chế nhiều tác động tích cực của các chính sách tốt
và nhiều khi hoạt động của bộ máy nhà nước mang tính “nhà nước vị nhà nước”
hơn là “nhà nước vị cơng dân và doanh nghiệp”.

Các cơng cụ chính sách kinh tế đã tương đối có đủ “tên”, song hiệu lực và hiệu quả
chưa cao. Mặc dù đã có sự “lồng ghép” các mục tiêu và một số chương trình mục


tiêu, song việc tiên liệu tác động xã hội, môi trường của các chính sách kinh tế cịn
thiếu ngay từ khâu định hình và hoạch định chính sách. Việc thực thi giám sát sau
đó cũng yếu. Trong khi đó, các mục tiêu chính sách thường quá tham vọng, chịu áp
lực cứng nhắc theo nhiệm vụ chính trị, và thiếu linh hoạt cần thiết khi bối cảnh
thay đổi. Nhiều ý tưởng chủ đạo vẫn mang nặng dấu ấn của những quan điểm về
quản lý nhà nước trong một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Chức năng nhà
nước trong nền kinh tế thị trường chưa được đề ra và lập luận sáng tỏ. Sâu xa hơn,
trong khi các mục tiêu phát triển ngày càng gần với cách nhìn nhận có tính phổ
biến trên thế giới thì quan niệm về định hướng XHCN lại chưa được làm sáng tỏ
trong mối quan hệ với các mục tiêu đó.
>>> Doanh nghiệp cần được xử lí bình đẳng:
Kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp cận dưới góc độ tài
chính - ngân hàng đòi hỏi các quan điểm điều hành và phương thức quản lý tài
chính, tiền tệ phải tuân theo các quy luật của KTTT và bản chất của CNXH để có
thể bảo đảm thúc đẩy kinh tế phát triển, giải quyết hài hòa quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và chính sách xã hội. Mạnh dạn xóa bỏ tư duy bao cấp và quản lý
bằng biện pháp hành chính, bằng mệnh lệnh chuyển sang quản, cơng cụ và đòn bẩy
kinh tế. Quyền tự chủ kinh doanh, tự chủ về tài chính của các doanh nghiệp, đơn vị
kinh tế ngày càng được nâng cao.
Hệ thống ngân hàng đã, đang và cần tiếp tục được cải tổ theo mơ hình hiện đại,
tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng và chức năng của một ngân hàng trung ương trong ổn định hệ
thống tiền tệ, kiểm sốt lạm phát, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; từng
bước mở cửa thị trường tín dụng, các dịch vụ ngân hàng phù hợp với cam kết quốc
tế; phát triển một hệ thống các tổ chức tín dụng đa sở hữu với một thể chế tương

đối hoàn chỉnh. Đặc biệt, bên cạnh hệ thống các ngân hàng thương mại đa hình
thức sở hữu thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, đã hình thành một ngân hàng
chính sách xã hội để thực hiện nhiệm vụ cho vay xóa đói, giảm nghèo, thơng qua
các chương trình cho vay hộ nghèo, cho vay sinh viên có hồn cảnh khó khăn, và
hỗ trợ các chương trình an sinh xã hội khác, như chương trình nước sạch và vệ sinh
mơi trường, giải quyết việc làm... Hệ thống chính sách, pháp luật cũng cần khơng
ngừng được sửa đổi một cách tích cực theo hướng nâng cao nguyên tắc thị trường
trong các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh tiền tệ; nâng cao tính độc
lập, tự chủ của các tổ chức trong hệ thống; xóa bỏ hồn tồn khoảng cách đối xử
giữa các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng;


thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trong từng giai đoạn
phát triển.
>>> Chọn mô thức phát triển phù hợp:
Mô thức phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam ngày càng định hình rõ
nét hơn, với ba đặc trưng nổi bật sau:
Thứ nhất, đó là nền kinh tế đa dạng, đa sở hữu, ngày càng tăng cường sự liên kết
và tương tác giữa các loại hình doanh nghiệp, các thành phần kinh tế và các thị
trường.
Đó là nền kinh tế có sự tồn tại và cạnh tranh ngày càng bình đẳng giữa các loại
hình doanh nghiệp và thành phần kinh tế. Kinh tế Nhà nước giảm dần tỷ trọng, và
hoạt động chủ yếu trong những lĩnh vực an ninh quốc phòng, khai thác các tài
nguyên quý, hiếm, kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa
chiến lược. Kinh tế tập thể sẽ tiếp tục được đổi mới và phát triển đa dạng. Kinh tế
tư nhân sẽ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn và có đóng góp ngày càng quan trọng
hơn cho sự phát triển kinh tế tương lai của mỗi địa phương, cũng như cả nước. Sự
hợp tác, gắn kết kinh tế giữa các doanh nghiệp sẽ ngày càng đậm nét và hiệu quả
hơn trong một cơ cấu hai tầng: Tầng trên là các doanh nghiệp lớn, mạnh cả về tài
chính, cơng nghệ, hoạt động xun quốc gia và tổ chức theo mơ hình tập đồn,

cơng ty mẹ - con; tầng dưới là các doanh nghiệp vừa và nhỏ được chun mơn hóa
sâu và có quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn với các doanh nghiệp khác, đồng thời chủ
động tham gia ngày càng sâu và hiệu quả, liên kết toàn diện vào chuỗi giá trị và
cung ứng kinh doanh tồn cầu. Các doanh nghiệp ngày càng có tính quốc tế hóa.
Các cơng ty cổ phần, tập đồn đa sở hữu sẽ ngày càng trở thành hình thức chủ yếu
trong tổ chức của doanh nghiệp.
Thứ hai, đó là nền kinh tế ngày càng hướng vào khai thác các động lực và đáp ứng
các yêu cầu phát triển theo chiều sâu và bền vững.
Nền kinh tế ngày càng chuyển từ phát triển bề rộng sang chủ yếu theo bề sâu, dựa
trên khoa học và công nghệ (nhất là công nghệ sạch, hiện đại). Các doanh nghiệp
ngày càng quan tâm đến xây dựng và bảo vệ thương hiệu, phát triển văn hóa kinh
doanh và thực hiện tốt các trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi sinh, tiết kiệm năng
lượng, giảm thiểu chất thải và phế liệu sản xuất. Sự phát triển các tiềm năng, tự do
kinh doanh, sự hợp tác và thịnh vượng về kinh tế, sự đồng thuận, dân chủ và gắn
kết về xã hội, hòa hợp và thân thiện hơn với môi trường sẽ vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển.


Thứ ba, đó là nền kinh tế vận hành theo các nguyên tắc thị trường mở, phù hợp với
các cam kết hội nhập quốc tế và có sự điều tiết của Nhà nước pháp quyền vì mục
tiêu con người.
Các thiết chế thị trường và dân chủ xã hội khác ngày càng được hoàn thiện và phát
triển đồng bộ, lành mạnh phù hợp với các cam kết hội nhập quốc tế. Mơi trường
đầu tư - kinh doanh ngày càng đậm tính thị trường, bình đẳng, minh bạch hơn và
ngày càng đóng vai trị bà đỡ, trực tiếp ni dưỡng, thẩm định và phán quyết hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ
chức xã hội sẽ ngày càng tăng.
Đặc biệt, Nhà nước, với vai trò quản lý, khởi xướng, định hướng và thúc đẩy và
kiểm soát hoạt động chung của nền kinh tế và các doanh nghiệp, sẽ ngày càng
được cải cách theo hướng hiện đại và hiệu quả hơn; can thiệp gián tiếp là chủ yếu

vào đời sống kinh tế - xã hội thông qua các quy hoạch, kế hoạch, đề án và dự án
tổng thể và chuyên ngành, luật pháp và hoạt động tài chính cơng.
>>> Coi trọng phát triên tư nhân:
Trong quá trình đổi mới và phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, khu
vực kinh tế tư nhân (KTTN) có nhiều tiềm năng to lớn và ngày càng được đề cao
như là động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Đến nay,
KTTN đã đóng góp cho đất nước khoảng 60% GDP, giải quyết hơn 80% lực lượng
lao động của xã hội. Đội ngũ doanh nhân trong khu vực này ngày càng có bản lĩnh
và kỹ năng kinh doanh thị trường...
Phát triển nhanh chóng và hiệu quả khu vực KTTN là địi hỏi cấp thiết từ cuộc
sống và cũng là quyết tâm lớn của Đảng, Nhà nước; đồng thời, phải xuất phát từ
thực tiễn đặc thù, các nguyên tắc của cơ chế kinh tế thị trường, cũng như các cam
kết và thông lệ quốc tế trong xu hướng mở cửa, tăng cường, hội nhập quốc tế.
Điều quan trọng không phải là ban cho KTTN những đặc quyền, đặc lợi, mà là tạo
môi trường bảo đảm khu vực doanh nghiệp tư nhân thật sự bình đẳng, cơng bằng
với các khu vực doanh nghiệp khác, kể cả trong đấu thầu. Nhà nước cần có nhiều
đột phá mới, táo bạo, tháo gỡ, giải quyết căn bản các vướng mắc, bất cập, bức xúc
đang tồn tại hoặc sẽ phát sinh trong thực tiễn. Quản lý nhà nước đối với khu vực
KTTN cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tự do kinh doanh theo pháp luật,
bình đẳng, cùng có lợi; coi trọng định hướng, hỗ trợ, kiểm tra, kiểm sốt đối với
KTTN bằng chính sách, thơng tin thị trường và khuyến khích q trình tái cơ cấu
kinh tế. Đặc biệt, cần thật sự đẩy mạnh cải cách nền hành chính quốc gia, sàng lọc,
kiểm sốt và trừng trị những kẻ nhũng nhiễu, vô trách nhiệm, sợ trách nhiệm đối


với KTTN; kiện tồn tổ chức, nâng cao vai trị, năng lực, trách nhiệm của các hiệp
hội ngành hàng, hiệp hội doanh nghiệp trong bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh
nghiệp và người lao động, tạo sự đồng thuận, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh
trong kinh doanh trên cơ sở pháp luật và truyền thống dân tộc; giáo dục lòng yêu
nước, tự hào dân tộc và trách nhiệm xã hội, bản lĩnh kinh doanh cho doanh nhân và

người lao động; xây dựng một số thương hiệu chủ lực quốc gia và địa phương.
Trước mắt, cần tập trung giải quyết các khó khăn của khu vực KTTN về nợ đọng,
nợ xấu, mặt bằng sản xuất, kinh doanh, nguồn vốn, năng lực khoa học - công nghệ
và về thị trường...; tổ chức các đường dây nóng, các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc định kỳ
và không định kỳ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nhân, doanh
nghiệp; mở rộng, phát triển đồng bộ và nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh nghiệp vụ, nhất là cung cấp thông tin thị trường (chất lượng, giá cả và
cung- cầu cũng như triển vọng sản phẩm); thông tin đối tác, cơ hội và kinh nghiệm
kinh doanh; thông tin về môi trường đầu tư (các quy định pháp lý, thủ tục xuấtnhập khẩu; các yêu cầu và giấy chứng nhận về vệ sinh an toàn, chất lượng sản
phẩm; các đặc điểm văn hóa, thị hiếu tiêu dùng; hệ thống phân phối hàng;...) và các
dịch vụ xúc tiến thương mại (hội chợ, triển lãm, quảng cáo và tham quan thị
trường, môi giới và tiếp xúc với các đối tác tiềm năng...); khuyến khích phát triển
các dịch vụ hỗ trợ tư pháp, nhất là về đăng ký và xử lý tranh chấp thương hiệu, tư
vấn kế toán, thuế, thủ tục xuất- nhập khẩu; các dịch vụ tài chính- ngân hàng, nổi
bật là dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng (kể cả bảo
lãnh tín dụng quốc tế, thế chấp bằng tài sản ở trong nước của các doanh nhân và
doanh nghiệp Việt Nam); xây dựng và triển khai hiệu quả những chương trình giáo
dục, đào tạo riêng, thích hợp nhằm bồi dưỡng kiến thức của các giám đốc doanh
nghiệp cũng như người lao động trong khu vực KTTN...

>>>Phải dựa trên nền tảng dân giàu:
Trong lịch sử nhân loại từ Đông sang Tây, từ xưa đến nay, khơng hề có một đất
nước nào hùng mạnh được xây dựng trên nền tảng người nghèo. Nói cách khác,
“dân giàu” là mục đích tất nhiên của mọi thể chế, dù ở phương Tây hay phương
Đơng. Ở nhiều góc độ, kinh nghiệm quốc tế ln có ích cho phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam.


Hàn Quốc, Singapore hay nước Anh, nước Mỹ... có nền kinh tế thị trường phát
triển đều xây dựng một chế độ nhà nước pháp quyền, tích cực thực thi chính sách

phát triển kinh tế trên cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát huy mọi
nguồn lực để tăng năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Nhà nước có vai trị to
lớn trong tài trợ các chi phí nghiên cứu khoa học, cơng nghệ...
Từ kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam còn phải đổi mới quyết liệt hơn nữa. Nền kinh
tế nước ta đang phải đối diện với tình trạng bất ổn, nợ xấu, nhiều doanh nghiệp phá
sản mà điểm xuất phát lại là từ hoạt động của hệ thống ngân hàng, phạm luật,
phạm quy, trong khi các cơ quan quản lý nhà nước chưa đủ năng lực để điều chỉnh.
Các tập đồn, tổng cơng ty nhà nước chiếm gần 50% tín dụng ngân hàng trong khi
hiệu suất chưa cao, lãng phí và nợ khó địi cịn nhiều. Nhiều dự án tái cấu trúc vẫn
chưa đi vào cuộc sống. Việc thực thi chính sách đổi mới và phát triển nền kinh tế
thị trường của Việt Nam chưa đạt được kết quả như mong muốn, cốt lõi là do thiếu
sự nhất quán trong tư duy kinh tế và một hệ thống quản lý nhà nước phù hợp. Hệ
thống văn bản pháp luật đã được hiện đại hóa, nhưng bộ máy thực hiện vẫn cịn
thói quen và cách làm cũ, chẳng những chưa được nâng tầm năng lực và ý thức, mà
còn “nặng nợ” với các giáo điều lạc hậu, lại thêm tha hóa, quan liêu, tiêu cực...
Trong tinh thần phấn khởi của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo người dân cũng như mọi người yêu nước đặt rất nhiều hy vọng vào một thời
đại mới của một dân tộc thông minh, kiên cường, sáng tạo.
>>> Hạn chế:
-Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và chưa thống
nhất.
- Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước.
- Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử.

-Thị trường phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thơng suốt.
- Tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế
- Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương cịn mang tính
bình qn, chính sách khuyến khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống



thuế chưa thực hiện tốt chức năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, Bất cập
trong tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy và đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước














Có thể thấy rõ q trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và
hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
Một là, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và
chưa thống nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai, tài ngun, tài
sản cơng…cịn nhiều bất cập, vướng mắc.
Hai là, vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà
nước chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài
sản nhà nước, nhất là khi tiến hành cổ phần hoá. Doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác còn bị phân biệt đối xử.
Ba là, các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành, phát triển
chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thơng suốt. Tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn nhiều, chậm được khắc
phục.

Bốn là, phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương cịn
mang tính bình qn, chưa đảm bảo đời sống của người hưởng lương, chưa
khuyến khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống thuế chưa thực
hiện tốt chức năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư,
đổi mới công nghệ, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
Năm là, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của bộ máy vàđội ngũ cán bộ,
cơng chức nhà nước cịn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý cịn thấp.
Cải cách hành chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, tệ tham nhũng,
quan liêu, lãng phí vẫn nghiêm trọng.
Sáu là, cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hố, xã hội đổi mới
chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo còn thấp. Khoảng cách

giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng lớn. Hệ
thống an sinh xã hội còn kém. Nhiều vấn đề bất cập, bức xúc trong xã hội và
bảo vệ môi trường.


Câu 2: Điểm giống và khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
và nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa?
1) Điểm giống nhau:
Những vấn đề cơ bản của nền kinh tế do thị trường quyết định. Nói cách khác đó
là nền kinh tế hàng hoá chịu sự điều khiển của cơ chế thị trường với những đặc
điểm chủ yếu sau:
- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất,
kinh doanh, lỗ, lãi tự chịu.
- Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ
và hoàn hảo.
- Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị
trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh.
- Có hệ thống pháp quy kiện tồn và sự quản lý vĩ mô của nhà nước.

2) Điểm khác nhau:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa là hai phương thức kinh tế khác nhau về bản chất và đối lập với nhau cả về
chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối và mục đích phát triển.
2.1.Chế độ sở hữu (phương hướng phát triển):
>>>Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
- Có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (bao gồm cả kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) để phát huy tối đa nội lực, phát
triển nhanh nền kinh tế.
- Trong đó, nền kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc, là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền
kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.

- Kinh tế Nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình
độ khoa học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
>>>Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa:
- Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa, không chỉ chịu tác động của quy luật giá trị mà còn chịu tác động của quy


luật giá trị thặng dư, là quy luật kinh tế cơ bản và tồn tại trong hệ thống các quy
luật kinh tế khác của chủ nghĩa tư bản.
- Xem quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất là thiêng liêng được xã hội và
pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự.
- Thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trị năng động, lực đẩy quyết định hiệu quả
của nền kinh tế tư bản, còn thành phần kinh tế nhà nước chủ yếu để giải quyết các
vấn đề xã hội nhằm đảm bảo công ăn việc làm cho lực lượng lao động
2.2.Chế độ quản lý:

>>>Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
-Phát huy vai trò làm chủ sở hữu của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi người.
- Trên cơ sở 3 chế độ sở hữu ( toàn dân, tập thể, tư nhân) hình thành nhiều hình
thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân ( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận
hợp thành quan trọng của nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình
đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, để nhà nước
định hướng và phát triển nền kinh tế, tạo môi trường để các thành phần kinh tế
cùng phát triển. Kinh tế tư nhân là 1 trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển.
>>>Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa:
-Được điều hành bởi cá nhân và các doanh nghiệp tư nhân định hướng đến quyền
lợi cá nhân nên kinh doanh trong kinh tế tư bản chủ nghĩa về cơ bản là tự định
hướng, tự điều hành, tự phát theo quy luật của thị trường tự do và quy luật cạnh
tranh. ( quy luật bàn tay vơ hình của Adam Smith). Các cá nhân dùng sở hữu tư
nhân để tự do kinh doanh bằng hình thức các cơng ty tư nhân để thu lợi nhuận
thông qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân chia
của cải đều thơng
qua q trình mua bán của các thành phần tham gia vào q trình kinh tế. Các cơng
ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế chủ yếu của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
-Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa khi phát triển cao đi đến tư bản độc quyền
hiện đại, sẽ dẫn đến xu thế tồn cầu hố và hình thành những tổ chức kinh tế đa


quốc gia, xuyên quốc gia chi phối kinh tế thế giới (đặc biệt là kinh tế của các nước

đang phát triển) .
2.3.Về định hướng xã hội và phân phối thu nhập
>>> Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
+ Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất,
kinh doanh để huy động mọi nguồn lực kinh tế.
+ Tăng trưởng kinh tế gắn kiền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển.
+ Tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa,
giáo dục và đào tạo; giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con
người, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao
dân trí, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Hạn chế tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường.
>>>Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
+ Các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh
tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định
hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải. Vì nền kinh tế được điều
hành bởi cá nhân và các doanh nghiệp tư nhân định hướng đến quyền lợi cá nhân
nên kinh doanh trong kinh tế tư bản chủ nghĩa về cơ bản là tự định hướng, tự điều
hành, tự phát theo quy luật của thị trường tự do với mục đích lợi nhuận là chính.
2.4. Cơ chế thị trường
+ Cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : là việc tổ chức guồng
máy kinh tế sao cho sự vận hành của nó phù hợp với quy luật kinh tế cơ bản và các
quy luật kinh tế khác của chủ nghĩa xã hội.
+ Cơ chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa: là việc tổ chức guồng máy kinh tế
sao cho sự vận hành của nó phù hợp với các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản,
trong đó quy luật sản xuất ra giá trị thặng dư giữ vai trò quyết định, nhằm đem lại
lợi nhuận ngày càng nhiều cho các nhà tư bản, các tập đồn, các cơng ty xun
quốc gia.

2.5. Mục đích phát triển
>>>Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa:
+ Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm
thực hiện “ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” giải phóng mạnh


mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xóa
đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ
người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
+ Mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người. Ai cũng được hưởng những
thành quả phát triển.
>>>Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa:
+ Mục đích tất cả đều là vì duy trì và đạt lợi nhuận tối đa nhằm phục vụ lợi ích của
các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.
+ Ngồi ra, vì kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở cạnh tranh để tồn
tại và tối đa hóa lợi nhuận, do đó sẽ chú trọng phát triển khoa họckỹ thuật, sáng
tạo, tơn trọng người tài năng, có trí thức, dẫn đến việc làm cho nền kinh tế năng
động và phát triển hơn.
Câu 3: Vai trị, vị trí của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi trong
nền kinh tế nước ta hiện nay?
I/ KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHẦN KT CĨ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGỒI:
1.

2.

Khái niệm:
Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi bao gồm các doanh nghiệp có
thể 100% vốn nước ngồi (một thành viên hoặc nhiều thành viên), có thể
liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư

nhân của nước ta, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Nguồn gốc và bản chất của thành phần nền kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam:
Cơ sở lý luận về nguồn gốc ra đời của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi là tập hợp các doanh nghiệp do luồng vốn đầu tư từ các đối tác kinh tế
ngồi nước vào nền kinh tế nội địa hình thành nên. Bản chất của nó là sự kéo
dài đầu tư trong nước vượt biên giới quốc gia với mục đích thu lợi nhuận
độc quyền cao. Đối với nước nhận đầu tư, khu vực của thành phần kinh tế
này là một yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, phát triển và hoàn thiện
cơ cấu kinh tế, tạo lập cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho phương thức sản
xuất mới, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.


3.

Các hình thức và đặc trưng kinh tế của kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi:
Hiện nay phổ biến nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài; hợp đồng
hợp tác kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT), hợp đồng xây
dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO).
Đặc thù của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam là được tạo
lập khơng chỉ do vốn bằng tiền mà cịn bằng tài sản vơ hình (sáng chế, cơng
nghệ, bí quyết, thương hiệu, nhãn mác, danh tiếng, kỹ năng quản lý, thị
trường...), tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, ngun liệu...).

II/ VAI TRỊ,VỊ TRÍ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ CĨ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGỒI:
-

-


-

Từ năm 1988, khi Luật đầu tư nước ngồi có hiệu lực, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước đã chính thức có mặt tại Việt Nam.Qua gần 20 năm vận
động và phát triển, đến nay kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi đã khẳng định
được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Khu vực kinh tế này đã có những đóng góp quan trọng cho
tăng trưởng GDP, cho đầu tư phát triển xã hội, cho kim ngạch xuất khẩu và
tổng
giá
trị
sản
xuất
công
nghiệp.
Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu
hạ tầng, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm”;
cần thiết phải “cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn
đầu tư nước ngoài” và khẳng định “kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi... là bộ
phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
Ở Việt Nam, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi mới được xác
định từ văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Thành phần kinh tế này
không đồng nhất về mục tiêu và cơ chế vận hành so với các thành phần kinh
tế khác trong nước.
Hiện nay trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động trên thị trường
quốc tế, tốc độ tồn cầu hố và tự do hố thương mại diễn ra nhanh chóng,
nhiều quốc gia và nhiều công ty đang nắm trong tay lượng vốn dự trữ khổng

lồ có nhu cầu đầu tư nước ngồi. Đây là điều kiện thuận lợi đối với các


-

-

nước thiếu vốn có nhu cầu đầu tư lớn. Vì vậy đầu tư nước ngồi chiếm một
vị trí rất quan trọng trong bối cảnh hiện nay đối với không chỉ những nước
phát triển mà còn quan trọng đối với những nước đang phát triển. Đặc biệt là
Việt Nam đầu tư nước ngồi nhằm đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố
hiện đại hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề,
đầu tư xây đầu tư nước ngoài dựng kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ thiết
bị, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ và sức mạnh cạnh tranh của
hàng hoá.
Trong bối cảnh hiện nay, các nước đang phát triển có thể tận dụng mọi
nguồn lực của thế giới, tiếp thu được những tinh tuý của nhân loại, những
cống hiến và những phát minh vĩ đại của các bậc thế hệ đi trước, nhằm đI tắt
đón đầu trên con đuờng phát triển và thu hẹp đầu tư nước ngoài dần khoảng
cách với các nước đi trước. Khi đó đầu tư nước ngồi có vai trị như một
phương tiện đắc lực đẻ thựcn hiện chủ trương trên, là một quốc gia đang
trưởng thành và phát triển đồng thời đang tiến hành cơng nghiệp hố hiện
đại hố , Việt Nam cần huy động tối đa mọi nguồn lực.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu đầu tư nước
ngồi, bình đẳng với các thành phần khác. Thu hút đầu tư nước ngoài là
chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước,
mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sứcmạnh tổng hợp phục vụ sự
nghiệp CNH- HĐH phát triển của đất nước.


Cụ thể có các vai trị sau:
1)

Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển
xã hội và tăng trưởng kinh tế.

Bảng: Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện 9 tháng năm 2013 theo giá hiện
hành

Nghì
n tỷ
đồng


cấu
)

(%

So với cùng
kỳ
năm
trước


(%)

TỔNG SỐ


755,9

100,0

106,1

Khu vực Nhà nước

297,3

39,3

104,2

Khu vực ngoài Nhà nước
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi

280,0

37,1

108,5

178,6

23,6

105,6


Thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiếp cận
kinh tế tri thức
Trong hơn 20 năm qua ĐTNN đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế nói chung và cho ngành cơng nghiệp nói riêng, trong đó từng
bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các
ngành cơng nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. Nhiều cơng
trình lớn đã hồn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả đầu tư, nhiều cơng
trình trọng điểm làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi cơng và
đẩy nhanh tiến độ, nhất là các cơng trình điện, dầu khí, cơng nghiệp nặng, cơng
nghiệp phục vụ xuất khẩu.
Cơ cấu đóng góp trong giá trị sản xuất công nghiệp phân theo thành phần kinh tế
từ 2005 – 2012 (%)
2)

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012


100

100

100

100

100

100

100

100

tế

24,9

22,1

19,9

18,1

18,3

19,1


17,6

16,4

Kinh
tế
ngồi NN

31,3

33,5

35,4

37,3

38,5

38,9

37,8

37,3

Khu vực có
vốn ĐTNN

43,8

44,4


44,7

44,6

43,2

42,0

44,6

46,3

Tổng số
Kinh
NN

Cơ cấu đóng góp trong GDP phân theo thành phần kinh tế từ 2008 – 2012 ( %)


2008

2009

2010

2011

2012


Nhà nước

35,1

34,7

33,5

32,7

32,6

Ngồi nhà nước

47,5

48,0

48,8

49,3

49,3

KV có vốn đầu tư 17,5
nước ngồi

17,3

17,7


18,0

18,1

Thúc đẩy chuyển giao cơng nghệ
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát
triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thơng, thăm dị và
khai thác dầu khí, hố chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ơ tơ, xe máy...
Vd: Tập đồn Intel đầu tư 1 tỷ đơ la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất linh
kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghệ
cao của các tập đồn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
3)

Nhìn chung, trình độ cơng nghệ của khu vực ĐTNN cao hơn hoặc bằng các thiết
bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các
doanh nghiệp có vốn ĐTTNN áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối
và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ.
Trong nông-lâm-ngư nghiệp, ĐTNN đã tạo ra một số sản phẩm mới có hàm lượng
kỹ thuật cao và các cây, con giống mới.
4) Góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nươc ngồi với lợi thế về vốn, cơng nghệ, trình độ
tổ chức sản xuất, các bí quyết marketing đã tạo ra sức ép đáng kể buộc các doanh
nghiệp trong nước phải thay đổi cách thức quản lí, nâng cao công nghệ, sử dụng
các hoạt động marketing nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Việc tiếp thu cơng nghệ, vốn, kinh nghiệm quản lí của các nhà đầu tư nước ngoài
giúp nước tiếp nhận đầu tư sử dụng có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên
sẵn có, tối ưu hóa các cơ hội sản xuất kinh doanh. Thơng qua hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngồi của các công ty đa quốc gia, nước nhận đầu tư có thể trở thành



những khâu, những mắt xích quan trọng trong q trình phân cơng lao động quốc
tế, từ đó có điều kiện quảng bá thương hiệu và nâng cao khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trong nước.
Phát triển khai thác và sử dụng nguồn nhân lực Việt Nam, tạo việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động
Khu vực được xem là phát triển năng động nhất này ngày càng thu hút nhiều lao
động tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng cơng nghiệp
hố, hiện đại hố.; góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua sử
dụng, bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động trực tiếp và lao động quản
lý, phát triển nguồn nhân lực cho tương lai của nền kinh tế Việt Nam.
5)

Thúc đẩy kinh tế thị trường Việt Nam, đưa nền kinh tế nước ta hội nhập
nhanh với nền kinh tế thế giới

6)



Một số dẫn chứng bổ sung
• Ở TP.HCM: Đóng góp của kinh tế nhà nước giảm dần. Tỷ trọng đóng
góp của kinh tế nhà nước cho TPHCM ngày càng giảm và nhường chỗ
cho khối doanh nghiệp ngoài nhà nước, trong đó có các cơng ty có
vốn đầu tư nước ngoài.

Bảng so sánh tỷ trọng các thành phần kinh tế của TPHCM (Nguồn: Cục
Thống kê TPHCM)
Thành phần


2006-2010

2011

2012

2013

Kinh tế nhà nước

26,6%

18,7%

18,0%

17,3%

Kinh tế ngồi nhà nước

50,6%

58,3%

58,5%

58,9%

Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài


22,8%

23,0%

23,5%

23,8%




Trong 8 tháng đầu năm nay, Việt Nam liên tiếp nhận được những dự
án đầu tư lớn lên đến hàng tỉ USD. Dự án lọc dầu Nghi Sơn (Thanh
Hóa), chẳng hạn, vừa được điều chỉnh tăng thêm 2,8 tỉ USD vốn đầu
tư, lên đến 9 tỉ USD. Samsung Electronics tiếp tục đầu tư 2 tỉ USD
vào Thái Nguyên, hay Bus Industrial Center của Nga đầu tư 1 tỉ USD
vào Bình Định.

Nhật tiếp tục là nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam khi chiếm 34,5% tổng vốn
đăng ký, theo sau là Singapore và Nga.

KẾT THÚC




×