Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.36 KB, 7 trang )

Nghiên cứu - Trao đổi

Tạp chí Cộng sản

MỌT SƠ VAN ĐẼ LÝ LUÂN VÃ THỤC TIEN
ĐẶT RẠ TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH,
PHÁP LUẬT VÉ ĐẮT ĐAI

ở việt nam hiện nay
PHẠM VĂN LINH
*

Đất đai là một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển. Đe sử dụng
nguồn lực này một cách hiệu quả, chính sách, pháp luật về đất đai cần có
tầm nhìn dài hạn, bảo đảm mơi trường on định về chính trị - xã hội; điều
tiết sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu quả. Muon vậy, cần có các giải pháp đột
phá trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai thời gian tới.

Tình hình thực hiện chính sách,
pháp luật về đất đai thời gian qua
Ngay sau khi có Nghị quyết số 19-NQ/TW,
ngày 31-10-2012, của Hội nghị Trung ương
6 khóa XI, “về tiếp tục đổi mới chính sách,
pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại”, Đảng và
Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, pháp luật
* ° để triển khai thực hiện.
Bên cạnh đó, cơng tác tun truyền, phổ biến


nâng cao nhận thức xã hội được quan tâm;
việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
về đất đai được coi trọng, qua đó, đóng góp
quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước:
1- Tài nguyên đất được quản lý, khai thác, sử
dụng hiệu quả hơn, trở thành nguồn lực quan
trọng cho sự phát triển đất nước, nguồn thu
từ kinh tế đất ngày càng tăng; an ninh lương
thực được bảo đảm; nhu cầu đất cho sản xuất,
chuyền dịch cơ cấu kinh tế, phát triển đơ thị,
kết cấu hạ tầng, quốc phịng - an ninh được

50 Số 987 (tháng 4 năm 2022)

phân bổ họp lý hơn; 2- Hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước được nâng lên; từng bước
gắn kết công tác quy hoạch, kế hoạch với
định hướng khai thác sử dụng đất trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội qua các giai
đoạn, phát triến bền vững, bảo vệ mơi trường,
thích ứng với biến đổi khí hậu; việc phân cấp,
phân quyền được coi trọng, bước đầu khắc
phục tình trạng lãng phí, tạo quỳ đất cho các
mục tiêu phát triển; 3- Quyền và nghĩa vụ
của chủ thể sử dụng đất được phân định rõ
hơn; bước đầu hình thành khung pháp lý cơ
bản để thị trường bất động sản vận hành; các
giao dịch chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp
bằng quyền sử dụng đất không ngừng tăng

lên; công tác cải cách thủ tục hành chính,
thơng tin và xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai
được coi trọng hơn, đã cấp giấy chứng nhận
* PGS, TS. Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
(1) Luật Đất đai năm 2013, Luật Xây dựng năm
2014, Luật Nhà ở năm 2014, Luật Kinh doanh bất động
sản năm 2014...; Chính phủ ban hành 24 nghị định; các
bộ, ngành ban hành 59 thông tư, thông tư liên tịch; ủy
ban nhân dân cấp tỉnh ban hành gần 2.000 văn bản,...


Nghiên cứu - Trao đổi

quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất đạt 97,3%; 4- Công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát bước đầu có
chuyển biến(2); tình hình đơn, thư khiếu nại
về đất đai có xu hướng giảm so với giai đoạn
2009 - 2013(3); việc xử lý các vụ tham nhũng,
tiêu cực về đất đai đạt được những kết quả
bước đầu tích cực(4); 5- Cơng tác tổ chức thực
hiện chính sách, pháp luật về đất đai ở nhiều
địa phương đã có chuyển biến, xuất hiện một
số mơ hình hay, hiệu quả kinh tế cao, thu hút
nhiều vốn đầu tư trong và ngoài nước, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch đô thị văn
minh được quan tâm,...
Tuy nhiên, thực tiễn gần 10 năm thực hiện
Nghị quyết số 19-NQ/TW khóa XI vần cịn
có những hạn chế, bất cập: Thứ nhất, nguồn

lực về đất đai phát huy chưa đúng tiềm năng.
Ở nhiều nơi, sử dụng đất cịn lãng phí, hiệu
quả thấp; tiếp cận quyền sử dụng đất vẫn là
một trong những rào cản; vấn đề tích tụ, tập
trung ruộng đất chưa đáp ứng được yêu cầu
của thực tiễn nhu cầu sản xuất nơng nghiệp
hàng hóa quy mơ lớn; tình trạng suy giảm
chất lượng, ơ nhiễm, thối hóa đất, xâm thực
diễn biến phức tạp, có xu hướng tăng về cả
quy mơ và mức độ, một số nơi diễn ra nghiêm
trọng;... Thứ hai, công tác quản lý nhà nước
về đất đai còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa
theo kịp yêu cầu phát triển đất nước; việc thể
chế hóa chủ trương, chính sách, pháp luật về
đất đai chưa đồng bộ; công tác quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất còn nhiều vướng mắc;
vấn đề chuyển đổi mục đích sử dụng đất, giao
đất, cho thuê, thu hồi, giải phóng mặt bằng,
xác định giá đất chưa phù hợp với nguyên tắc
thị trường. Thứ ba, các quy định về quyền sở
hữu tài sản trên đất cịn bất cập; chính sách
điều tiết giá trị tăng thêm từ đất chưa bảo đảm
lợi ích cùa Nhà nước và người dân; thơng tin,
dữ liệu, thủ tục hành chính về đất đai cịn hạn
chế; thị trường bất động sản chưa minh bạch,

Tạp
tình trạng đầu cơ, “thổi” giá, thất thu thuế cho
ngân sách cịn nhiều. Thứ tư, tình trạng khiếu

kiện, tranh chấp đất đai gây mất ổn định chính
trị, xã hội cịn diễn biến phức tạp; nhiều vụ án
tham nhũng, lãng phí lớn liên quan đến đất
đai, khơng ít cán bộ từ Trung ương đến địa
phương bị xử lý, kỷ luật; tranh chấp, xung
đột về đất đai có lúc, có nơi kéo dài, gây mất
ổn định an ninh, trật tự xã hội. Thứ năm, cơng
tác tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về
đất đai ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị
chưa nghiêm; tổ chức bộ máy quản lý đất đai
phân tán, thiếu đồng bộ; việc phân cấp, phân
quyền chưa rõ về phạm vi, lĩnh vực, thẩm
quyền và trách nhiệm,...

Một số vướng mắc về nhận thức và
thực tiễn trong thực hiện chính sách,
pháp luật về đat đai
Một là, về chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu ở Việt
Nam, trong quá trình thực hiện, bên cạnh
những kết quả đã đạt được còn khơng ít hạn
(2) Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, giai
đoạn 2013 - 2020 có 6.687 cuộc thanh tra về đất đai,
đã phát hiện vi phạm về kinh te trên 80.886 tỷ đồng và
trên 94.849ha đất; đã kiến nghị thu hồi về ngân sách nhà
nước 38.910 tỳ đồng và 14.684ha đất
(3) Theo báo cáo cùa Thanh tra Chính phủ, giai đoạn
2013 - 2020, các cơ quan hành chính các cấp đã tiếp
2.361.157 lượt công dân, với tổng số 2.250.443 người
đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với 1.423.418

vụ, việc, trong đó liên quan đen đất đai là 419.202 vụ,
việc; tiếp nhận 2.180.665 đơn khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh, trong số đó liên quan đến đất đai là
324.241 đơn
(4) Theo báo cáo cùa Tòa án nhân dân tối cao, những
năm gần đây, hàng loạt các vụ “đại án” về tham nhũng
liên quan đến đất đai đã được phát hiện, điều tra, xử lý,
như Phan Văn Anh Vũ phạm tội “Vi phạm quy định về
quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thốt, lãng
phí”; Đinh Ngọc Hệ và các bị cáo ở Bộ Quốc phòng; Vũ
Huy Hoàng trong sai phạm xảy ra ở Sabeco; Trần Văn
Nam ở tỉnh Bình Dương, Trần Văn Minh ở thành phố
Đà Nằng;...

Số 987 (tháng 4 năm 2022) 51


Nghiên cứu - Trao đổi

chế, trong đó có cả trong nhận thức và tổ
chức thực hiện, về nhận thức, vần còn một
bộ phận chưa hiểu rõ mối quan hệ giữa sở
hữu toàn dân và Nhà nước là đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý nhà nước về
đất đai. Thực tế là, chủ sở hữu “tồn dân”
tuy khơng hồn toàn trùng với “đại diện”
chủ sở hữu là Nhà nước, nhưng khơng vì
thế mà đất đai khơng có chủ và Nhà nước
không thực quyền. Cho đến nay, các quyền
đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đã được

luật hóa(5)6, bảo đảm cho đất đai thực sự có
chủ. Ngồi ra, cịn có các chế định đối với
Quốc hội, Chính phủ, hội đồng nhân dân
các cấp và 9 quyền đối với người được Nhà
nước giao, cho thuê đất; khẳng định quyền
sừ dụng đất là một loại tài sản đặc biệt,
nhưng không phải là quyền sở hữu. Các chế
định này cơ bản đủ bảo đảm cho việc quản
lý và sử dụng đất đai ổn định, hiệu quả. về
tổ chức thực hiện, những hạn chế, yếu kém
nêu trên chủ yếu liên quan đến thể chế hóa
chủ trương, chính sách, pháp luật về đất
đai, đến công tác quản lý và thực hiện ở địa
phương, cơ sở. Việc thực hiện chức năng
của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở
hữu, với chức năng quản lý nhà nước về đất
đai và trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước,
với tư cách là một chủ thể sừ dụng đất đai
cịn nhiều lúng túng. Bên cạnh đó, cịn có
một số những bất cập khác trong tổ chức,
quản lý và thực hiện cụ thể...
Hai là, vấn đề định giá đất, xử lý, giải
quyết hài hịa các loại lợi ích, nhất là lợi ích
của Nhà nước, người có đất bị thu hồi ln
là những vướng mắc lớn, thậm chí là “điếm
nghẽn” trong thực hiện chính sách, pháp luật
về đất đai. Điều này làm ảnh hưởng đến phát
huy nguồn lực đất đai, đến sự cơng bàng, ổn
định an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội.
Tình trạng thất thu ngân sách nhà nước từ tiền

thuê đất còn lớn<6). Giá đất không hợp lý, tạo
52 Số 987 (tháng 4 năm 2022)

Tạp
ra sự phân biệt đối xử rất lớn giữa các chủ
thể sử dụng khác nhau, giữa các địa phương
có đất liền kề, giữa nhà đầu tư nước ngồi
và trong nước, gây ra sự bất bình đắng, thiếu
minh bạch, vấn đề giao, cho thuê, đấu thầu
còn nhiều bất cập, chưa họp lý, làm méo mó
các giao dịch thị trường, xuất hiện một loạt
các hệ lụy khác đối với việc thu hồi, giải
phóng mặt bằng, tạo ra xung đột giữa chính
quyền và người sử dụng đất khi bị thu hồi.
Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng,
dẫn tới sự lãng phí đất cơ quan, cơng sở,
doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa, đất
các doanh nghiệp nơng, lâm nghiệp, đất quốc
phịng - an ninh, cũng như tình trạng tham
nhũng, lãng phí về đất đai,...
Nhà nước đầu tư kết cấu hạ tầng với chi
phí lớn làm cho đất tăng giá nhưng lợi ích từ
giá trị tăng thêm của đất mà Nhà nước thu
được không tương xứng; thị trường bất động
sản luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, trong nhiều
trường họp ảnh hưởng lớn đến ổn định kinh
tế vĩ mô,... Việc xác định giá đất bộc lộ nhiều
bất cập, như thông tin đầu vào hạn chế, thiếu
tin cậy; một số loại đất ít giao dịch; sự chồng

chéo giữa các cơ quan trong xác định giá; cơ
quan thẩm định giá đất chưa được kiện tồn,
năng lực chun mơn hạn chế; cơng tác theo
dõi, cập nhật biến động giá đất và xây dựng
(5) Điều 13 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Quyền
của đại diện chủ sở hữu về đất đai” gồm 8 quyền:
1- Quyết định quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng
đất; 2- Quyết định mục đích sử dụng đất; 3- Quy định
hạn mức sử dụng đất, thời hạn sừ dụng đất; 4- Quyết
định thu hồi đất, trưng dụng đất; 5- Quyết định giá đất;
6- Quyết định trao quyền sử dụng đất cho người sử
dụng đất; 7- Quyết định chính sách tài chính về đất đai;
8- Quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
(6) Nhiều tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất
không thu tiền sử dụng đất nhưng chưa chuyển sang
thuê đất theo quy định của Luật Đất đai (cịn 2.803 tổ
chức với tổng diện tích là 653.655ha, chưa kể các doanh
nghiệp nông, lâm nghiệp) gây thất thu khá lớn tiền thuê
đất hàng năm cho ngân sách


Nghiên cứu - Trao đổi

cơ sở dữ liệu giá đất cịn nhiều bất cập; chưa
có sự đồng bộ giữa thẩm quyền quyết định
giá đất với thẩm quyền giao đất, cho th và
thu hồi đất,... Khơng ít ý kiến cho rằng, vấn
đề giá đất, giải quyết lợi ích của Nhà nước,
người dân và nhà đầu tư liên quan đến đất là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân về những

hạn chế, yếu kém vừa qua.
Ba là, bất cập trong hệ thống thể chế,
chính sách về đất đai tạo ra những vướng mắc
trong tổ chức thực hiện, cụ thể: 1- Nhiều nội
dung của Luật Đất đai năm 2013 và các văn
bản hướng dần thi hành mâu thuẫn, chồng
chéo với các luật khác, như Luật Nhà ở, Luật
Đấu thầu, Luật Đầu tư
* 7), Luật Quy hoạch,...
Có hiện tượng một số nội dung của luật ban
hành sau mâu thuẫn với luật ban hành trước,
không xác định luật “gốc” trong sửa đổi các
luật khác trong các nội dung liên quan đến
đất đai; 2- Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ,
thiếu thống nhất, có nội dung khơng phù hợp
với thực tiễn, nhất là những vấn đề mới nảy
sinh, dẫn tới việc vận dụng khác nhau ở địa
phương khi thực hiện, như các luật liên quan
đến đấu thầu, đấu giá dự án đầu tư có sử dụng
* 7
đất
89’; một số loại hình kinh doanh mới (kinh
doanh bất động sản du lịch, nghỉ dưỡng)
phát triển nhanh, như condotel, ììcetel,
shophouse,... chưa có quy định cụ thể về chế
độ sử dụng đất, vẫn cịn khoảng trống về
pháp lý, gây rất nhiều khó khăn cho công tác
quản lý nhà nước và hoạt động kinh doanh,...;
3- Một số nội dung của Luật Đất đai thậm chí
mâu thuẫn với luật chuyên ngành, như về sự

tích hợp, đồng bộ giữa quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất với quy hoạch xây dựng, quy
hoạch ngành; về tích tụ, tập trung đất đai, dồn
điền đổi thửa; tài sản góp vốn; về quyền thừa
kế trong pháp luật dân sự;...
Hệ thống pháp luật chủ yếu quy định về
quyền của Nhà nước, trong khi đó, chế tài
thực thi quyền của người sử dụng đất chưa

Tạp chí Cộng sản

được quy định đầy đù, tính an tồn pháp lý
cho người sử dụng đất cần được hoàn thiện.
Mặc dù Đảng, Nhà nước rất quan tâm nhưng
đời sống, sinh kế của người dân sau khi bị
thu hồi đất cịn gặp nhiều khó khăn; số lượng
các văn bản hướng dẫn q nhiều, nhưng
khơng đủ, vẫn cịn nhiều nội dung quy định
trong luật nhưng chưa có văn bản hướng dẫn
thực hiện
*
”; một số quy định hiện hành trong
chính sách, pháp luật về đất đai vẫn chưa
rõ trách nhiệm trong phân cấp, phân quyền.
Phân cấp, phân quyền chưa thật sự gắn với
thẩm quyền, trách nhiệm, chưa triệt để xóa
bỏ cơ chế xin - cho, “tư duy nhiệm kỳ” trong
tổ chức thực hiện.
Bổn là, vấn đề đất quốc phòng - an ninh,
đất ở và đất sản xuất của các dân tộc thiểu số,

chủ thể sử dụng đất có yếu tố nước ngồi,...
nếu giải quyết khơng tốt khơng chỉ ảnh hưởng
đến quốc phịng - an ninh, đại đồn kết dân
tộc, phát triển kinh tế mà còn tiềm ấn nhiều
nguy cơ khác.
Những hạn chế, “điểm nghẽn” nổi bật nêu
trên do các nguyên nhân chủ quan, khách
quan, chủ yếu là: Các nguyên nhân hạn chế
được chỉ ra trong Nghị quyết so 19-NQ/TW
(7) Điều 118 Luật Đất đai năm 2013 chỉ quy định
các trường họp phải áp dụng hoặc không áp dụng đấu
giá quyền sử dụng đất. Luật Đấu thầu chỉ quy định các
trường hợp phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Luật Đầu
tư chi quy định các trường hợp quyết định chủ trương
đầu tư,...
(8) Luật Đất đai quy định 8 trường hợp Nhà nước
giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo hình
thức đấu giá quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, Khoản 3,
Điều 1, Luật Đấu thầu lại quy định lựa chọn nhà đầu tư
thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất, dẫn tới một số địa
phương chỉ vận dụng Luật Đấu thầu, không vận dụng
Luật Đất đai năm 2013

(9) Vấn đề đất đai được quy định tại 21 luật, 1 nghị
quyết của Quốc hội, 24 nghị định của Chính phủ, 12 chỉ thị
và 17 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, hơn 59 thơng
tư của các bộ, ngành, gần 2.000 văn bản của ủy ban nhân
dân cấp tinh được ban hành

SỐ 987 (tháng 4 năm 2022) 53



Nghiên cứu - Trao đổi

vẫn còn giá trị. về khách quan, đất đai ở
nước ta có lịch sử lâu đời, nguồn gốc đa
dạng; chính sách, pháp luật về đất đai thay
đối qua nhiều thời kỳ,... Tuy nhiên, nguyên
nhân chủ quan vẫn là chù yếu, như một số
chủ trương, chính sách, pháp luật đất đai còn
chưa đủ rõ, việc thể chế hóa cịn nhiều bất
cập, dần đến vướng mắc trong vận dụng;
cơng tác tun truyền, nâng cao nhận thức
xã hội cịn kém hiệu quả; công tác kiểm tra,
giám sát xử lý sai phạm liên quan đến đất
đai không kịp thời; tố chức thực hiện vần là
khâu yếu, hệ thống công cụ quản lý đất đai
như tổ chức bộ máy, cơ sở dừ liệu thơng tin,
cơng cụ tài chính, thuế và giá cịn bất cập,
một số cơng cụ, cách thức quản lý khơng
cịn phù hợp; phát huy vai trị của Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức xã hội và người dân
còn nhiều hạn chế,...

Những vấn đề đặt ra về tiếp tục
hoàn thiện chính sách, pháp luật về
đất đai thịi gian tới
Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có
nhiều thay đổi nhanh, phức tạp, khó lường,
trong đó có một số vấn đề lớn tác động, ảnh

hưởng đến xây dựng và thực hiện chính sách,
pháp luật về đất đai ở nước ta: Yêu cầu nâng
cao năng lực cạnh tranh, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, tăng khả năng tiếp cận đất đai
cho các chủ thể nước ngoài. Các vấn đề an
ninh truyền thống, phi truyền thống, như thiên
tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi
trường, an ninh nguồn nước, an ninh lương
thực, trong đó có cả những thách thức đối với
nguồn tực đất đai (đất đai không sinh thêm,
trong khi dân số tiếp tục tăng, việc khai thác
cạn kiệt, sa mạc hóa, ơ nhiễm mơi trường,
xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu, môi trường
sống bị thu hẹp,...).
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra
yêu cầu thay đổi căn bản từ quy hoạch, kế
54 Số 987 (tháng 4 năm 2022)

Tạp
hoạch sử dụng đất để phát triển nông nghiệp
sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao, tư duy
mới về an ninh lương thực; thay đổi cơ cấu
ngành, nghề theo hướng công nghiệp hiện
đại, nông nghiệp sinh thái, phát triển đô thị
thông minh, cho đến công tác quản lý nhà
nước về đất đai, tạo ra không gian sinh tồn ổn
định, bền vững của đất nước.
Một số vẩn để về nhận thức
Bên cạnh các quan điểm được nêu trong

các văn kiện của Đảng, nhất là Nghị quyết số
19-NQ/TW đến nay cơ bản vẫn còn giá trị,
căn cứ vào Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
và bối cảnh mới, thời gian tới cần thống nhất
và nâng cao nhận thức trên mấy điểm sau:
Thứ nhất, đất đai là không gian sinh tồn,
thành tố quan trọng của hệ sinh thái tự nhiên,
việc khai thác, sử dụng đất đai phải trên cơ
sở phát triến bền vững, lâu dài, phù hợp với
khả năng cung ứng tự nhiên của đất, khai thác
phải đi đôi với tái tạo, bảo đảm an ninh nguồn
lực đất đai. Sử dụng đất đai phải tiết kiệm,
hiệu quả, họp lý, thích ứng với biến đổi khí
hậu và bảo vệ mơi trường.
Thứ hai, tiếp tục khẳng định đất đai thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý, quyền sử
dụng đất là một loại tài sản đặc biệt, nhưng
không phải là quyền sở hữu. Quyền đi đôi
với nghĩa vụ trong sử dụng đất đai. Đổi mới
quản lý nhà nước về đất đai theo hướng quản
trị hiện đại, hoàn thiện hệ thống pháp luật;
thực hiện phân cấp, phân quyền thích hợp,
hiệu quả; quản lý, quy hoạch đất đai thực
hiện theo hướng tích họp đa mục tiêu, phù
họp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
và nhiệm vụ bảo vệ Tố quốc.
Thứ ba, hồn thiện the chế, chính sách về
đất đai trong tình hình mới, bảo đảm phát huy
có hiệu quả nguồn lực đất đai đi đơi với mở

rộng, tạo cơ hội tiếp cận quyền sử dụng đất
của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường


Nghiên cứu - Trao đổi

định hướng xã hội chủ nghĩa một cách cơng
bằng, bình đẳng, minh bạch và trách nhiệm
giải trình, giải quyết tốt mối quan hệ giữa
Nhà nước với thị trường và xã hội trong huy
động, phân bổ, sử dụng đất đai.
Thứ tư, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức xã hội dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước trong quản lý
và sử dụng đất đai. Phân định rõ trách nhiệm
của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp,
giữa Trung ương và địa phương trong quản
lý và sử dụng đất đai. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát trong tổ chức thực hiện
chính sách, pháp luật về đất đai.
Những nội dung cần chủ trọng trong q
trình bổ sung, hồn thiện chính sách, pháp
luật về đất đai:
Thứ nhất, tập trung sửa đổi, hồn thiện
những bất cập trong hệ thống chính sách,
pháp luật về đất đai theo hướng xây dựng
thành một hệ thống chính sách, pháp luật tập
trung, thống nhất về đất đai.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản lý nhà
nước về đất đai theo hướng quản lý tổng

hợp, tập trung, thống nhất trên cơ sở phân
cấp, phân quyền hợp lý, cải cách thủ tục
hành chính, đẩy mạnh chuyển đỗi số trong
quản lý đất đai. Là đại diện chủ sở hữu, Nhà
nước tập trung vào thẩm quyền giao, thu
hồi đất; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
(quyền định đoạt của chủ sở hữu). Thực hiện
chức năng quản lý nhà nước, ngoài những
quy định trong Nghị quyết số 19-NQ/TW,
Nhà nước cần cụ thể hóa, thể chế hóa đầy
đủ tinh thần Đại hội XIII của Đảng về đổi
mới chính sách tài chính đất đai. Là chủ thể
sử dụng đất, Nhà nước cần thực hiện đúng
quy định của pháp luật, bình đắng như các
chủ thể khác. Cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội thực hiện nghiêm việc
quản lý và sử dụng đất đai. Coi quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất là cơ sở, nền tảng, đầu

Tạp
vào của các quy hoạch, kế hoạch khác, bảo
đảm sự tích hợp các quy hoạch ngành, vùng,
lĩnh vực.
Thứ ba, về giao đất, cho thuê đất: Thu hẹp
các đối tượng được giao đất và mở rộng đối
tượng thuê đất. Đẩy mạnh và hoàn thiện việc
giao đất, cho thuê đất theo hình thức đấu giá
cạnh tranh quyền sử dụng đất. Quản lý chặt
chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất

đối với đất quốc phịng - an ninh, đất có tính
chất tài sản cơng. Xử lý nghiêm các trường
hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất
nhưng sử dụng lãng phí, khơng đúng mục
đích, đầu cơ đất, chậm đưa đất vào sử dụng.
Thứ tư, về thu hồi đất, bồi thường, hồ trợ,
tái định cư: Kiểm soát chặt chẽ việc thu hồi
đất, bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ,
công bàng. Quy định rõ các trường hợp thu
hồi đất vì mục tiêu quốc phịng - an ninh, phục
vụ lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng. Kiên
quyết thu hồi đối với những diện tích đất của
các tổ chức nhà nước, đơn vị sự nghiệp công
lập sử dụng đất lãng phí, khơng đúng mục
đích. Việc bồi thường, hồ trợ, tái định cư thực
hiện theo nguyên tắc, lợi ích của người có đất
bị thu hồi, tối thiểu bằng lợi ích trước khi bị
thu hồi,...
Thứ năm, về chính sách tài chính về đất
đai và giá đất: Hồn thiện hệ thống các cơng
cụ tài chính, kinh tế đất, đổi mới phương
pháp xác định giá đất, bảo đảm độc lập,
khách quan, cập nhật biến động giá đất trên
thị trường, minh bạch. Xây dựng hệ thống cơ
quan định giá đất hoàn chỉnh, đủ năng lực,
chịu trách nhiệm về định giá đất, tiến tới cơ
quan tư vấn giá đất độc lập. Xây dựng, hoàn
thiện quy trình đấu giá đất chặt chẽ, hiệu quả,
minh bạch, mở rộng các hình thức đấu giá đất
cạnh tranh theo cơ chế thị trường đối với đất

công, đất chuyển đổi mục đích sử dụng. Hồn
thiện hệ thống thuế đất cập nhật giá trị thực tế
trên thị trường.
Số 987 (tháng 4 năm 2022) 55


Nghiên cứu - Trao đổi

Thứ sáu, xây dựng, hoàn thiện các chinh
sách tích tụ, tập trung đất đai cho sản xuất
nông nghiệp theo tư duy mới về an ninh
lương thực: Nâng hạn mức sử dụng đất nông
nghiệp; cho phép linh hoạt chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi trên đất trồng lúa; quy
định mở rộng đối tượng được nhận chuyển
nhượng đất trồng lúa cho hộ gia đình, cá nhân
khơng trực tiếp sản xuất nông nghiệp, tố chức
kinh tế trong nước, đồng thời quy định các
điều kiện cụ thể đề được nhận chuyển nhượng
đất trồng lúa; hồ trợ, bảo đảm sinh kế, việc
làm và thu nhập bền vừng của nông dân, giữ
vững ổn định chính trị - xã hội ở nơng thơn.
Thứ bảy, đây mạnh việc phịng, chổng
tham nhũng, lãng phỉ trong lĩnh vực đất đai
theo hướng phân cấp quản lý. Bên cạnh đó,
các tranh chấp về đất đai kể cả tồn đọng hiện
nay và phát sinh mới cần được giải quyết tại
tòa án chuyên ngành. Tăng cường kiếm tra,
thanh tra, giám sát, phát hiện xử lý kịp thời,
nghiêm minh các tập thể, cá nhân vi phạm

pháp luật đất đai. Tập trung giải quyết, xử lý
kịp thời các vụ việc khiếu kiện về đất đai, xử
lý dứt điểm tình trạng khiếu kiện vượt cấp,
kéo dài. Thực hiện nghiêm biện pháp khắc
phục hậu quả, buộc khơi phục lại tình trạng
ban đầu.
Một số kiến nghị về hướng đột phá chính
sách, pháp luật về đất đai
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật
về đất đai. Sửa đôi hệ thống pháp luật về đất
đai nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo,
thiếu thống nhất, đồng bộ; tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc, bất cập và phát sinh trong
thực tiễn, khắc phục tình trạng thất thốt, lãng
phí; tạo điều kiện để các luật đi vào cuộc sống,
thuận lợi cho công tác tổ chức thi hành; phục
vụ cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm
quốc phòng - an ninh, chủ quyền quốc gia.
Sớm ban hành Luật Đất đai mới (sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện Luật Đất đai năm 2013,
56 Số 987 (tháng 4 năm 2022)

Tạp chí Cộng sản

theo đó, tiếp thu có chọn lọc những nội dung
hợp lý của các luật khác về những vấn đề liên
quan đến đất đai bảo đảm sự thống nhất đồng
bộ của hệ thống pháp luật về đất đai).
Thứ hai, xử lý, giải quyết tot vấn đề kinh
tế đất đai phù hợp với nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển thị
trường quyền sử dụng đất, thị trường bất động
sản thực sự vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quàn lý của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới
chính sách tài chính đất đai theo tinh thần Đại
hội XIII của Đảng, nhất là giá đất, thực hiện
công khai, minh bạch, độc lập trong việc định
giá đất. Xây dựng mạng lưới thửa đất chuẩn,
“bản đồ” giá đất. Đổi mới phương thức xác
định giá đất khoa học, phù hợp với cơ chế thị
trường là giải pháp đột phá quan trọng hàng
đầu. Nghiên cứu ban hành thuế bất động sản;
thu hẹp hình thức cho thuê đất trả tiền một
lần cho cả thời gian th. Có chính sách hợp
lý về đất đai đối với vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, biên giới, hải đảo, bảo đảm sinh kế,
giữ gìn bản sắc văn hóa. Xây dựng chính sách
điều tiết giá trị gia tăng từ đất do Nhà nước
đầu tư kết cấu hạ tầng và chuyển đổi mục
đích sử dụng đất mang lại, bảo đảm lợi ích
của Nhà nước, người dân và nhà đầu tư.
Thứ ba, hồn thiện các cơng cụ quản lý
nhà nước về đất đai, đẩy mạnh cải cách hành
chinh, chuyển đổi sổ quốc gia. Trong đó, ưu
tiên tập trung nguồn lực xây dựng cơ sở dữ
liệu và hệ thống thông tin, đăng ký đất đai
đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa
phương, tích hợp đầy đủ các thơng tin về
nguồn gốc, diện tích, lịch sử các giao dịch,...
Tăng cường sự phối hợp đa ngành trên cơ sở

một đầu mối quản lý tập trung, thống nhất.
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ làm công tác quy hoạch, quản lý đất đai,
xây dựng chính sách, pháp luật. Đầu tư cơ sở
vật chất đáp ứng yêu cầu quản lý đất đai trong
tình hình mới. □



×