Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Những bất cập vướng mắc trong thi hành luật đất đai nhìn từ góc độ quản lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.77 KB, 6 trang )

IẠP CHÍ CỦNG THtftfNti

NHỮNG BẤT CẬP, VƯỚNG MAC
TRONG THI HÀNH LUẬT DAT đai
NHÌN TỪ GĨC ĐỘ QUẢN LÝ

• TRẦN THÚY PHƯỢNG

TÓM TẮT:

Bài viết trinh bày những vướng mắc, bất cập trong thi hành Luật Đất đai hiện hành. Cụ thể, tác
giả nghiên cứu, phân tích, so sánh những mâu thuẫn trong thi hành Luật Đất đai năm 2013 so với
các Luật, Nghị định có liên quan; những quy định Luật Đất đai khó thực hiện ưong thực tiễn; những
trường hợp phát sinh trong thực tế mà Luật Đất đai chưa điều chỉnh. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất
một số giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đất đai.

Từ khóa: vướng mắc, bất cập, thi hành Luật Đất đai, giải pháp.

1. Đặt vấn đề
Pháp luật về đất đai là một lĩnh vực pháp luật có
ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội,
điều chỉnh những quan hệ xã hội phức tạp, có liên
quan trực tiếp đến nguồn tài nguyên quý báu của
quốc gia, cũng là loại tài sản có giá trị lớn của cá
nhân, tổ chức. Luật Đất đai năm 2013 được ban
hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/2014 đã tạo một
bước chuyển biến mới trong chính sách đất đai sau
gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới. Với hàng
loạt các văn bản hướng dẫn thi hành từ Trung ương
đến địa phương theo thẩm quyền quy định được ban
hành cho thấy Luật Đất đai đã được quan tâm đưa


vào thực tiễn cuộc sống, tạo sự chuyển biến tích cực
trong cơng tác quản lý và sử dụng đất đai. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, còn bộc lộ
một số hạn chế, tồn tại như: có sự mâu thuẫn giữa
pháp luật về đất đai với các Luật khác trong một số
trường hợp, một số nội dung mặc dù đã có quy định

62

SƠ'19-Tháng 8/2021

trong Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng
dẫn thi hành nhưng không khả thi vì chưa phù hợp
với điều kiện thực tiễn hoặc thực tiễn phát sinh
những hành vi mà Luật Đất đai khơng quy định
điều chỉnh gây khó khăn cho q trình thực hiện
quyền lợi của các chủ thể liên quan. Do vậy, việc
nghiên cứu, rà sốt những bất cập đó và đề xuất
giải pháp sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống
Luật Đất đai là vấn đề cấp thiết hiện nay, nhất là
trong điều kiện chuẩn bị sửa đổi Luật Đất đai hiện
hành vào năm 2022 theo chương trình làm việc của
Quốc hội khóa XV.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Luật Đất đai năm 2013 với các Luật, Nghị
định khác cịn có điểm mâu thuẫn
- về đấu giá tài sản công
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Quản
lý, sử dụng tài sản công năm 2017: “Tài sản công
là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại



LUẬT

diện chủ sở hữu và thông nhất quản lý, bao gồm:
tài sản công phục vụ hoạt động quản lý, cung cấp
dịch vụ cơng, bảo đảm quốc phịng, an ninh tại cơ
quan, tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục
vụ lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng; tài sản được
xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản công tại
doanh nghiệp; tiền thuộc ngân sách nhà nước, các
quỹ tài chính nhà nước ngồi ngân sách,dự trữ
ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên
khác”. Như vậy, đất đai được xác định là tài sản
công, theo quy định tại Điều 43 Luật Quản lý, sử
dụng tài sản cơng, việc bán tài sản cơng buộc phải
qua hình thức đấu giá. Tuy nhiên, khoản 2 Điều
118 của Luật Đất đai năm 2013 lại có quy định về
những trường hợp khơng đấu giá quyền sử dụng
đất, trong đó có trường hợp đất được giao làm “đất
ở cho cán bộ, công chức, viên chức chuyển nơi
công tác theo quyết định điều động của cơ quan có
thẩm quyền”. Trên thực tế, do cơ chế quản lý đất
đai trước đây, các cơ quan, tổ chức nhà nước
thường xây nhà công vụ cho cán bộ, công chức,
viên chức, nên khi sắp xếp và chuyển diện tích
đất ở này về cho chính quyền địa phương quản lý
[đã rất lúng túng giữa việc áp dụng Luật Đất đai
Inăm 2013 và Luật Quản lý, sử dụng tài sản công
năm 2017. Đây là một trong những khoảng chênh

lệch pháp lý dễ bị lợi dụng để biến của cơng thành
của tư, làm thất thốt tài sản Nhà nước, khó xử lý
trách nhiệm được.
- về giao đất đối với các dự án
Theo quy định tại khoản 3 Điều 45 Luật Đất
đai quy định: “úy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội

đong nhân dân cùng cấp thơng qua danh mục dự
án cần thu hồi đất quy định tại khoản 3 Điều 62
cua Luật này trước khi phê duyệt kế hoạch sử
dụng đất cấp huyện”. Như vậy, dự án có trong
dalnh mục mới được thu hồi đất, giao đất hoặc
chuyển mục đích sử dụng đất. Tuy nhiên, đốì với
những dự án phát sinh trong năm nhưng chưa có
trong kế hoạch sử dụng đất, theo khoản 10 Điều 2
Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 6/1/2017 của
Chinh phủ, úy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét,
châìp thuận cho phép để thực hiện và cập nhật vào
kế hoạch sử dụng đất hàng năm câp huyện của
năm tiếp theo. Điều này làm ảnh hưởng đến

quyền và lợi ích của chủ đầu tư, cũng như làm
chậm tiến độ thực hiện dự án.
- về chuyển đổi mục đích sử dụng rừng đặc dụng
Chưa có sự thống nhất giữa Luật Đất đai và
Luật Lâm nghiệp về thẩm quyền của Hội đồng
nhân dân. Điểm b khoản 1 Điều 58 Luật Đất đai
2013 quy định: “Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh đối với trường hợp chuyển mục đích sử
dụng dưới 10 ha đất trồng lúa; dưới 20 ha đất rừng

phịng hộ, đất rừng đặc dụng”; ttong khi đó, khoản
2 Điều 20 Luật Lâm nghiệp 2017 quy định: “Thủ
tướng Chính phủ quyết định chủ trương chuyển mục
đích sử dụng rừng đặc dụng dưới 50 ha; rừng phòng
hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ biên giới từ 20 ha đến
dưới 50 ha; rừng phịng hộ chắn gió, chắn cát bay
và rừng phịng hộ chắn sóng, lấn biển từ 20 ha đến
dưới 500 ha; rừng sản xuất từ 50 ha đến dưới 1.000
ha”. Luật Lâm nghiệp không quy định thẩm quyền
của Hội đồng nhân dân ttong trường hợp chuyển
mục đích sử dụng rừng đặc dụng. Điều này gây khó
khăn cho cơ quan có thẩm quyền khi thực hiện
nhiệm vụ, chức năng quản lý, cũng như ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng
đất. Chuyển mục đích sử dụng đất rừng đặc dụng và
chuyển mục đích sử dụng rừng đặc dụng là 2 khái
niệm dẫn đến sự không rõ ràng giữa 2 luật, nên
việc vận dụng vào thực tiễn ở mỗi địa phương
không thống nhất.
2.2. Nội dung Luật Đất đai và các văn bản
hướng dẫn cịn khó áp dụng trong thực tiễn
- về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất
nông nghiệp
Khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai 2013 quy định:
“Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân khơng q 10 lần
hạn mức giao đất nơng nghiệp của hộ gia đình, cá
nhân đối với mỗi loại đất quy định tại các khoản 1,
2 và 3 Điều 129 của Luật này”. Đối chiếu với
khoản 1, 2 và 3 Điều 129 của Luật quy định về hạn

mức giao đất nông nghiệp cho mỗi hộ gia đình như
sau: đất trồng cây hằng năm, đất ni trồng thủy
sản, đất làm mi cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trực
tiếp sản xuất nông nghiệp không quá 3 ha đối với
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc khu
vực Đông Nam Bộ và khu vực đồng bằng sông cửu

SỐ 19-Tháng 8/2021

Ó3


TẠP CHÍ CƠNG THIÍđNG

Long, khơng q 2 ha cho mỗi loại đất đối với tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương khác; đất trồng
cây lâu năm không quá 10 ha đối với xã, phường,
thị trấn ở đồng bằng, không quá 30 ha đối với xã,
phường, thị trân ở trung du, miền núi; đất rừng
phịng hộ, đất rừng sản xuất khơng q 30 ha đối
với mỗi loại đất. Với hạn mức nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nông nghiệp theo quy định thì
q tháp, dẫn đến hạn chế trong tích tụ ruộng đất.
Hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
vẫn là rào cản chính trong xác lập khả năng tiếp
nhận nguồn đầu tư lớn, ứng dụng khoa học và cơng
nghệ có chiều sâu của nông dân vào phát triển kinh
tế sản xuất hàng hóa nơng nghiệp với quy mơ lớn
phù hợp với xu thế cánh đồng mẫu lớn, vùng
chuyên canh.

Bên cạnh đó, việc xác định hạn mức nhận quyền
sử dụng đất nơng nghiệp của cá nhân, hộ gia đình
trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố rất khó thực hiện
và mất rất nhiều thời gian. Bởi cơ quan đăng ký đất
đai giữa các tỉnh, thành phố trong cả nước chưa có
kết nối liên thông điện tử nên không thể xác định
được hạn mức nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp
của cá nhân, hộ gia đình để thực hiện cấp Giấy
chứng nhận. Để thực hiện cấp Giây chứng nhận
trong trường hợp cá nhân, hộ gia đình trên địa bàn
nhiều tỉnh, thành phố nhận quyền sử dụng đất nơng
nghiệp phải có văn bản xác nhận hạn mức gửi đến
các cơ quan quản lý đất đai ưên cả nước thông qua
bưu điện gây mất thời gian cho người dân và cơ
quan quản lý.
- về đối tượng chuyển nhượng, tặng, cho quyền
sử dụng đất trồng lúa
Theo khoản 3 Điều 191 Luật Đất đai 2013 quy
định: “Hộ gia đình, cá nhân khơng trực tiếp sản
xuất nơng nghiệp không được nhận chuyển
nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng
lúa”. Tuy nhiên, thực tiễn tại địa phương về nguồn
gốc đất chủ yếu là do Nhà nước công nhận quyền
sử dụng đất, phong tục tập quán sản xuất nông
nghiệp gắn liền với nhà ở, dân cư bố trí theo tuyến,
trục giao thông thủy lợi, nên người trực tiếp sản
xuất đất nông nghiệp hay không trực tiếp sản xuất
đất nông nghiệp đều sinh sống trong cùng một khu
vực. Mặt khác, những đối tượng hưởng lương từ


64

SỐ 19-Tháng 8/2021

ngân sách nhà nước và cán bộ hưu trí khi tham gia
sản xuất nơng nghiệp thì đạt hiệu quả cao hơn do có
khả nàng áp dụng những tiến bộ của khoa học và
công nghệ trong sản xuất, nên hiệu quả kinh tế
trong cùng một diện tích lại cao hơn. Việc áp dụng
quy định nêu trên đã làm hạn chế quyền sử dụng
đất trồng lúa, không phát huy hết hiệu quả nguồn
lực đất đai trong sản xuất kinh tế nông nghiệp.
về thực hiện các quyền của người sử dụng đất
Khoản 7 Điều 49 Luật Đất đai quy định:
“Trường hợp quy hoạch sử dụng đất đã được cơng
bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất hằng năm của
câp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử
dụng và được thực hiện các quyền của người sử
dụng đất theo quy định của pháp luật”. Trong khi
đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 91, điểm a
khoản 1 Điều 93 và khoản 2 Điều 94 Luật Xây
dựng, đối với điều kiện cấp phép các công trình xây
dựng trong đơ thị, nhà riêng lẻ và cấp phép xây
dựng có thời hạn thì phải “Phù hợp với mục đích sử
dụng đất theo quy hoạch sử dụng đất được phê
duyệt” nên thực tế tại các địa phương không thể
tiến hành cấp giấy phép xây dựng.
- về trường hợp cá nhân, hộ gia đình niất Giấy
chứng nhận
Việc quy định về thời gian niêm yết thông báo

tại trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã đối với trường

hợp cá nhân, hộ gia đình mất Giấy chứng nhận chưa
thống nhất. Theo khoản 2 Điều 77 Nghị định số’
43/2014/NĐ - CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
quy định là 30 ngày so với điểm b khoản 2 Điều 10
Thông tư số 24/2014/TT - BTNMT ngày 19/5/2014
của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy
định là 15 ngày. Sự không thống nhất trong quy
định về thời gian niêm yết thông báo gây lúng túng
cho địa phương khi thực hiện. Bởi lẽ theo quy định,
Nghị định số 43/2014/NĐ - CP có hiệu lực pháp lý
cao hơn Thông tư số 14/2014/TT - BTNMT nên
phải niêm yết trong 30 ngày, còn niêm yết theo quy
định của Thông tư là 15 ngày sẽ rút ngắn thời gian
giải quyết thủ tục hành chính, đảm bảo quyền lợi
chính đáng hơn cho cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu.
- về nhận chuyển nhượng quyển sử dụng đất của
Trung tâm Phát triển quỹ đất
Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT - BTNMT


LUẬT

- BNV - BTC ngày 04/4/2015 của Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và
Bộ trưởng Bộ Tài chính về hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt
động của Trung tâm Phát triển quỹ đất trực thuộc
Sở Tài ngun và Mơi trường có quy định chức

năng: “Thực hiện việc nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật”. Tuy
nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ
thể nào về nguồn vốn thực hiện, cơ chê thực hiện.
Do đó, chưa đủ cơ sở để thực hiện chức năng này.
- vể lựa chọn hình thức trả tiền thuê đất
Theo Điều 172 Luật Đất đai 2013 quy định:
“Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự
chủ tài chính, hộ gia đình, cá nhân, người Việt
Nam định cư ở nước ngồi, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều 56
của Luật này được lựa chọn hình thức thuê đất trả
tiền thuê đất hằng năm hoặc thuê đất trả tiền thuê
đất một lần cho cả thời gian thuê” và “trả tiền
thuê đất hằng năm được chuyển sang thuê đất trả
tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê ”. Tuy
nhiên, do Luật khơng quy định cụ thể được lựa
chọn hình thức thuê này là khi nào, được lựa chọn
1 lần hay nhiều lần, dẫn đến việc các chủ đầu tư
liên tục thay đổi hình thức thuê. Đối với trường
hop chuyển từ ưả tiền thuê đất một lần cho cả thời
gian thuê sang hình thức trả tiền thuê đất hằng
năm chưa có quy định cụ thể.
về định giá đất cụ thể
Theo điểm b khoản 1 Điều 3 Thông tư số
36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 cua Bộ
trunng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về
phương pháp so sánh trực tiếp để định giá đất như
sau: “các thơng tin khác có ảnh hưởng đến giá đất”.
Quỵ định này chung chung, khó áp dụng ảnh hưởng

đến việc xác định giá đất thiếu tính khách quan.
Ipên cạnh đó, các phương pháp xác định giá đất
được quy định trong Thơng tư số 36/2014/TT BTNh4T ngày 30/6/2014 có nhiều điểm chưa phù
hợp VIổi thực tế như: một thửa đất, trong cùng một
thởi Utiểm khơng gian, thì có một mức giá. Tuy
nhiên., khoản 2 Điều 18 Luật Đất đai 2013 quy định:
“Nhài nước ban hành khung giá đất, bảng giá đất và
quyết định giá đất cụ thể”. Việc thu các loại thuế

(thu nhập cá nhân, ưước bạ, lệ phí địa chính) lại phụ
thuộc vào giá giao dịch, khơng được thấp hơn giá
đất trong bảng giá. Do đó, khi thu thập thông tin
giao dịch trên thị trường (chủ yếu là căn cứ vào hợp
đồng chuyển nhượng) khơng chính xác vì giá thể
hiện trong hợp đồng rất thấp không phải là giá thực
tế giao dịch mục đích để giảm tiền nộp thuế.
Điều 113 Luật Đất đai quy định về Chính phủ
điều chỉnh khung giá đất trong trường hợp: “Trong
thời gian thực hiện khung giá đất mà giá đất phổ
biến trên thị trường tăng từ 20% trở lên so với giá
tô'i đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá tối thiểu
trong khung giá đất thì Chính phủ điều chỉnh
khung giá đất cho phù hợp”. Để xác định giá đất
phổ biến trên thị trường rất khó thực hiện và
khơng có tính chính xác cao, phụ thuộc rất nhiều
vào kinh nghiệm và yếu tố chủ quan của người
làm công tác định giá đất.
2.3. Luật Đất đai và các văn bản quy phạm pháp
luật chưa quy định, nhưng thực tiễn có phát sinh
- về hoán đổi đất khi Nhà nước thu hồi

Luật Đất đai 2013 chưa có quy định về hốn
đổi đất nơng nghiệp, đất ở chưa có cơ sở hạ tầng
với đất ở có cơ sở hạ tầng mà chỉ quy định thu hồi
và bồi thường theo quy định tại Điều 16 Luật Đất
đai 2013. Người bị thu hồi đất chỉ có một phương
án đó là nhận tiền thay vì có thể lựa chọn nhiều
phương án. Tuy nhiên, thực tiễn công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự
án hoặc xây dựng khu đô thị theo đúng quy định
này đã gặp nhiều khó khăn. Nếu việc hốn đổi
được quy định, người sử dụng đất có thể lựa chọn
phương án khác thay vì chỉ nhận tiền và sẽ tạo
được sự đồng thuận cao của người bị thu hồi đất,
đảm bảo sự hài hịa lợi ích và quyền lợi giữa chủ
đầu tư và người có đất bị thu hồi. Đồng thời, giúp
cơng tác giải phóng mặt bằng được thực hiện
nhanh chóng, đảm bảo tiến độ dự án.
- về gia hạn sử dụng đất
Đối với cá nhân, hộ gia đình khi hết hạn sử dụng
đất nơng nghiệp thì được xin gia hạn căn cứ theo
quy định tại khoản 3 Điều 210 Luật Đất đai và Điều
74 Nghị định số 43/2014/NĐ - CP của Chính phủ
quy định nội dung, trình tự, thủ tục gia hạn sử dụng
đất, xác nhận tiếp tục sử dụng. Thực tế, có một số

SỐ 19-Tháng 8/2021

65



TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG

trường hợp cộng đồng dân cư đang sử dụng đất
nông nghiệp, được cấp Giấy chứng nhận và đã hết
thời hạn sử dụng đất. Tuy nhiên, hiện nay chưa có
quy định nào cho phép gia hạn sử dụng đất; xác
nhận tiếp tục sử dụng đất nông nghiệp cho cộng
đồng dân cư.
2.4. Giải pháp đề xuất
Thứ nhất, để Luật Đất đai thật sự đi vào cuộc
sống, khắc phục được những hạn chế còn tồn tại,
những vướng mắc trong quá trình áp dụng thực tiễn,
từng bước hồn thiện hành lang pháp lý, đảm bảo
việc thực thi dễ dàng, thuận lợi, giúp nâng cao hiệu
lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về
đất đai cần sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai trong thời
gian sớm nhất trên cơ sở xác định và phân tích rõ
nguyên nhân khách quan và chủ quan của những
hạn chế, bất cập giữa Luật Đất đai và các pháp luật
khác liên quan để không làm ảnh hưởng đến quyền
lợi của người sử dụng đất.
Thứ hai, để thuận tiện trong việc tổ chức thi
hành, tra cứu áp dụng và dễ dàng trong viện dẫn
văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tài nguyên và
Môi trường cần đẩy nhanh việc rà soát lại các quy
định cần sửa đổi, bổ sung tại các Thông tư của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Nghị
định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai của Chính
phủ để sớm ban hành Nghị định, Thông tư này cho
phù hợp với thực tiễn trong thời gian chờ sửa đổi, bổ

sung Luật Đất đai 2013.
Thứ ba, đẩy nhanh tiến độ hồn thiện hệ thơng
thơng tin, cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia để đưa vào
vận hành theo đúng tiến độ. Hoàn thiện các cơ sở
pháp lý cho vận hành, khai thác, cập nhật dữ liệu
định hướng cho giai đoạn 2021 - 2030, nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của Văn phòng Đăng ký đất
đai một câp, từng bước hiện đại hóa.
Thứ tư, để tạo cơ sở và cũng đảm bảo chất lượng
cho việc thực hiện lập Quy hoạch sử dụng đất năm
2021 - 2030 và Kế hoạch sử dụng đất 2021 - 2025
cần triển khai đồng bộ với việc lập quy hoạch đô

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

Ó6

Quốc hội (2013). Luật Đất đai 2013.

Số 19-Tháng 8/2021

thị, quy hoạch phân khu cũng như đồng bộ với việc
lập kế hoạch đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ
tầng xã hội với phát triển nhà ở, cơng trình thương

mại dịch vụ và các cơng trình khác.
Thứ năm, quan tâm coi trọng việc tổng kết thi
hành pháp luật về đất đai. Tổng kết trên cơ sở
nghiêm túc, chất lượng và toàn diện. Nội dung tổng

kết phải thiết thực, phản ánh đúng thực tế. Tổng kết
dựa ưên kết quả đánh giá của Bộ, ngành, địa
phương và các tổ chức có liên quan, đồng thời tham
khảo ý kiến của các đối tượng sử dụng đất và nhà
khoa học.
Thứ sáu, tiếp tục rà sốt chức năng, nhiệm vụ,
kiện tồn bộ máy tổ chức và nâng cao trình độ,
năng lực bộ máy làm cơng tác quản lý đất đai. Phát
huy vai trị người đứng đầu các cấp, các ngành
trong quàn lý và sử dụng nguồn tài nguyên đất hợp
lý, tiết kiệm và hiệu quả. Đẩy mạnh cải cách thủ
tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, gắn với
chương trình xây dựng nền hành chính hiện đại.
Thứ bảy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác
kiểm ừa, thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm về quản
lý và sử dụng đất đai làm ảnh hưởng đến lợi ích
Nhà nước và người sử dụng đất.
3. Kết luận
Trên đây là nội dung phân tích, đánh giá những
vướng mắc, bất cập trong thi hành pháp luật về
đất đai trong thực tiễn để xác định những tác động
không mong mn của chúng đốì với hiệu quả
thực hiện chính sách quản lý đất đai ở nước ta thời
gian qua. Do vậy, việc tháo gỡ các vướng mắc,
khắc phục các bất cập này cần được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiện nhanh chóng, phù
hợp nhằm đảm bảo sự minh bạch hóa, sự chặt chẽ
về pháp lý. Điều này sẽ phát huy tốt hơn nguồn
lực đất đai, tạo thuận lợi hơn cho người sử dụng
đất, cũng như góp phần nâng cao hiệu quả thực thi

pháp Luật Đất đai trong thời gian tới để phát triển
kinh tế, tạo điều kiện tiền đề thực hiện các mục
tiêu công bằng xã hội ■


LUẬT

2.

Quốc hội (2020). Luật Đầu tư2020.

3.

Quốc hội (2017). Luật Lâm nghiệp 2017.

4.

Quốc hội (2017). Luật Quản lý, sử dụng tài sản cơng 2017.

5. Chính phủ (2014), Nghị định số43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 quy định chi tiết thi hành một sô'Điều của Luật
Đất đai.
6. Chính phủ (2017), Nghị định sơ' 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 quy định chi tiết thi hành một số Điều của
Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017.
7.

Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Thông tư sô'24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 về hồ sơ địa chính.

8. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Thông tư sô'36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 quy định chi tiết phương
pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất; định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất.


Ngày nhận bài: 7/6/2021
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 7/7/2021
Ngày chấp nhận đăng bài: 17/7/2021

Thơng tin tác giả:
ThS. TRẦ N TH PHƯỢNG

Trường Chính trị Thành phố cần Thơ

SOME SHORTCOMINGS AND DIFFICULTIES
IN THE IMPLEMENTATION OF THE 2013 LAW

ON LAND FROM MANAGEMENT PERSPECTIVES
• Master. TRAN THUY PHUONG
Can Tho City Political School
ABSTRACT:
This paper presents the problems and shortcomings in the enforcement of the 2013 Law on
Land in Vietnam. The paper analyzes the contradictions among the implementation of the 2013
Law on Land, related laws and decress. The paper also examines some infeasible provisions of
the 2013 Law on Land and some pratical cases that are not be regulated by the law. Based on the
paper’s findings, some solutions are proposed to improve the effectiveness of the law.
Keywords: problems, shortcomings, the implementation of the 2013 Law on Land, solution.

SỐ 19 - Tháng 8/2021

67




×