Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bàn về quyền của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất trong Luật Đất đai 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.18 KB, 7 trang )

LlẠĩ

BÀN VỀ QUYỀN CỦA DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐÀU TU NUỚC ngồi
VÀ NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH cư
Ở NƯỚC NGỒI sự DỤNG ĐẤT
TRONG LUẬT ĐẤT ĐAI 2013
• vũ QUANG

TĨM TẮT:
Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt
Nam đang từng bước phát triển một cách vững chắc với kết quả rất đáng khích lệ. Đóng góp
vào kết quả đó khơng thể không kể đến hoạt động đầu tư của các cá nhân, tổ chức nước ngoài.
Hoạt động đầu tư nước ngoài đã và đang được quan tâm rất lớn, chính sách và khung khổ pháp
lý đã tương đối hoàn thiện, đặc biệt là các quy định về khuyến khích đầu tư, sự bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Tuy vậy, các quy định pháp
luật nói chung và các quy định về đất đai nói riêng có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trong việc sử
dụng đất vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập cần phải được giải quyết. Bài viết này đóng góp một số
ý kiến gợi mở để giải quyết vấn đề đó.
Từ khóa: doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
quyền của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

1. Đặt vấn đề
Quyền sử dụng đất của người nước ngoài (gồm

người Việt Nam định cư ở nước ngồi; doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi; cá nhân nước
ngoài) được bàn luận nhiều trong thời gian qua ở
nước ta. Nhiều ý kiến cho rằng đó là một vấn đề


Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sử dụng
46.140ha, chiếm 0,17% tổng diện tích của cả
nước và chiếm 0,17% tổng diện tích đất của các
đối tượng sử dụng(1>.

Mặc dù, Luật Đất đai năm 2013 đã có quy định

nhiều điểm mới về quyền của người Việt Nam

“nhạy cảm” nhưng thực tiễn cuộc sống đây là vấn
đề cần phải bàn.

định cư ở nước ngồi, doanh nghiệp có vốn đầu

Báo cáo tình hình quản lý nhà nước về đất
đai năm 2018 của Chính phủ cho biết, các tổ

quy định này đã góp phần tháo gỡ nhiều vướng

chức nước ngồi, cá nhân nước ngoài và người

tư nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam và những
mắc về đất đai, bất động sản mà trước đó chưa có
hướng giải quyết như người Việt Nam định cư ờ

SỐ 12-Tháng 5/2021

93



TẠP CHÍ CƠNG THƯƠNG

nước ngồi có thể được Nhà nước giao đất có thu
tiền sử dụng đất; người Việt Nam định cư ở nước
ngồi, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
được Nhà nước Việt Nam cho th đất có thu tiền
thuê đất hàng năm. Theo đó, quy định cụ thể các
chủ thể này có các quyền và nghĩa vụ chủ yếu:

- Quyền và nghĩa vụ chung(2);
- Quyền thế chấp bằng tài sản thuộc sở hữu của
mình gắn liền với đất thuê tại các tổ chức tín dụng
được phép hoạt động tại Việt Nam;

- Quyền góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của
mình gắn liền với đất thuê, nhận góp vốn bằng tài
sản được Nhà nước cho thuê đất theo đúng mục
đích xác định trong thời hạn thuê đất còn lại;
- Quyền bán tài sàn thuộc sở hữu của mình
gắn liền với đất th khi có đủ điều kiện theo quy
định(3);

doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài
mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo quy định của
pháp luật về đầu tư) là một trong những người sử
dụng đất(4) khi được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển
quyền sử dụng đất theo quy định.

Tuy vậy, Luật Đất đai chưa dự liệu đối tượng

người sử dụng đất là cá nhân nước ngồi, chi
nhánh, văn phịng đại diện của doanh nghiệp nước
ngồi, quỹ đầu tư nước ngoài và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam
(gọi chung là tổ chức nước ngoài) đủ điều kiện

được sở hữu nhà ở tại Việt Nam đã được Luật Nhà
ở 2014 quy định.
Xem xét vấn đề này là cần thiết vì phù hợp với
pháp luật nhà ở(5). cần phải bàn thêm là pháp luật

nhà ở có quy định(6):
“Tổ chức, cá nhân nước ngồi được sở hữu

- Quyền cho thuê nhà ở trong trường hợp được
phép đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở.

nhà ở tại Việt Nam thơng qua các hình thức sau
đây:

Tuy nhiên, những quy định trên của Luật Đất
đai 2013 cần phải được sửa đổi cho phù hợp với
yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế -

- Đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại Việt

xã hội và phù hợp với nội dung của các văn bản
pháp luật khác. Việc sửa đổi, bổ sung những quy
định về quyền sử dụng đất của những chủ thể này
nhằm thu hút và thúc đẩy hoạt động đầu tư từ

nước ngoài vào Việt Nam, cũng như phát triển thị
trường bất động sản nói riêng và các ngành kinh
tế khác nói chung.
2. Một số bất cập trong các quy định về
quyền của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngồi và ngưịi Việt Nam định cư ờ nước ngoài
sử dụng đất tại Việt Nam trong Luật Đất đai
2013

Một là, quy định về ngưòi sử dụng đất là
người Việt Nam định cư ở nước ngoài và tổ
chức, cá nhân nước ngoài.

Theo quy định về người sử dụng đất, người Việt
Nam định cư ở nước ngồi và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngồi (gồm doanh nghiệp 100%
vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh,

94 SỐ 12-Tháng 5/2021

Nam theo quy định của Luật Nhà ở và pháp luật
có liên quan;

- Mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế
nhà ở thương mại bao gồm căn hộ chung cư và
nhà ở riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà
ở, trừ khu vực bảo đảm quốc phịng, an ninh theo

quy định của Chính phủ”.

Như vậy, cần xem xét quy định chỉ cho phép
tổ chức, cá nhân nước ngoài được quyền sử dụng
đất và sở hữu nhà riêng lẻ trong các dự án đầu tư
xây dựng nhà ở chứ không phải được tự do nhận
chuyển quyền sử dụng đất.

Pháp luật nhà ở quy định: “Đối với cá nhân

nước ngoài được sở hữu nhà ở theo thỏa thuận
trong các giao dịch hợp đồng mua bán, thuê mua,
tặng cho, nhận thừa kế nhà ở nhưng tối đa không
quá 50 năm, kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận và có thể được gia hạn thêm theo quy định
của Chính phủ nếu có nhu cầu; thời hạn sở hữu
nhà ở phải được ghi rõ trong Giấy chứng nhận”(7).
Vậy quyền của người sử dụng đất đối với đất


LUẬT

ở (thổ cư) của cá nhân nước ngoài cũng cần quy
định không quá 50 năm kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và có thể được gia

hạn thêm theo quy định.
Hai là, quy định về trường hợp không được
nhận chuyến nhượng, nhận tặng cho quyền sử
dụng đất.

Theo pháp luật đất đai hiện hành thì: “Tổ

chức kinh tế không được nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ,
đất rừng đặc dụng của hộ gia đình, cá nhân, trừ
trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất
theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”(8).
Trong khi lại có quy định: “Tổ chức kinh tế bao
gồm doanh nghiệp, hợp tác xã và tố chức kinh tế
khác theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi”<9).
Như vậy, theo logic thơng thường, có thể suy
ra rằng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
được nhận chuyến nhượng quyền sử dụng đất
trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng
của hộ gia đình, cá nhân vì khơng nằm trong diện
liệt kê<10). Điều này cần được xem xét kỹ khi sửa
đổi Luật Đất đai 2013.
Quỵ định thêm về "Tố chức kinh tế”

Quy định của Luật Đất đai 2013 đã loại trừ
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi là tổ chức
kinh tế(11).
“Tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp, hợp
tác xã và tổ chức kinh tế khác theo quy định của
pháp luật về dân sự, trừ doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngồi”.
Quy định này chứa đựng mâu thuẫn, có sự phân
biệt giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
với doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước, trong

khi đó, theo Luật Doanh nghiệp 2014 thì doanh
nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập
hoặc đăng ký thành lập theo pháp luật Việt Nam và
có trụ sở chính tại Việt Nam. Doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi theo quy định của Luật Doanh
nghiệp cũng là doanh nghiệp được thành lập dưới

hình thức là Cơng ty TNHH một thành viên hay
nhiều thành viên, Công ty cổ phần, hay Công ty
họp danh - nếu các loại hình doanh nghiệp này có
nhà đầu tư nước ngồi góp vốn.

Vì vậy, khoản 27 Điều 3 Luật Đất đai 2013 nên
được sửa đổi như sau: “Tổ chức kinh tế bao gồm
doanh nghiệp, họp tác xã và tổ chức kinh tế khác
theo quy định của pháp luật về dân sự”.

Quy định về giao đất, cho thuê đất đổi với

người Việt Nam định cư ở nước ngoài và doanh
nghiệp có vón đâu tư nước ngồi.
Thứ nhất, người Việt Nam định cư ở nước
ngồi, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
được nhận quyền sử dụng đất thơng qua việc
được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất.

về giao đất: Hai chủ thể này chỉ được Nhà
nước giao đất bằng hình thức thu tiền sử dụng đất
để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán
hoặc để bán kết hợp cho thuê(l2).

về thuê đất: Hai chủ thể này được Nhà nước
cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm hoặc thu
tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê để
thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; đất sản
xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; đất xây dựng
cơng trình cơng cộng có mục đích kinh doanh; đất
để thực hiện dự án đầu tư nhà ở để cho thuê(13).
Vấn đề đặt ra là vì sao người sử dụng đất là

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi lại chỉ được giao
đất có thu tiền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu
tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho
thuê còn để thực hiện các mục đích khác thì lại
khơng được giao đất mà chỉ được thuê đất (mục
đích thuê đất để đầu tư cũng bị hạn chế hơn nhà
đầu tư trong nước).
về vấn đề thuê đất, người sử dụng đất là người

Việt Nam định cư ở nước ngồi và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi được lựa chọn hình thức
trả tiền th đất một lần hoặc hàng năm và được
mở rộng hơn mục đích sử dụng đất cho các dự án
đầu tư so với giao đất.
SỐ 12-Tháng 5/2021

95



TẠP CHÍ CƠN6 Tltftfw

vấn đề giao đất, cho th đất đối với người
Việt Nam định cư ở nước ngoài và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi ít được đề cập trong

thời gian qua. Vì vậy, nên nghiên cứu mở rộng
việc giao đất, cho thuê đất đối với loại chủ thể
này để thực hiện các dự án đầu tư trong nhiều
lĩnh vực<14).

Bên cạnh đó cũng nên mạnh dạn trao thêm
quyền cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc tiếp
cận quyền sử dụng đất để tiến hành các hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Điều này là phù hợp
vì theo Luật Đầu tư 2014, sửa đổi 2016 thì khơng
có sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước hay
nhà đầu tư nước ngoài mà chỉ quy định những
ngành nghề bị cấm và những ngành nghề kinh
doanh có điều kiện. Bất luận nhà đầu tư trong
nước hay nước ngoài chỉ cần đáp ứng điều kiện
kinh doanh là được quyền kinh doanh.
Thứ hai, cần sửa đổi Luật Đất đai để khơng
có sự phân biệt về thuê đất giữa nhà đầu tư trong
nước với nhà đầu tư là người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi; cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam.

Theo Luật Đất đai hiện hành, nhà đầu tư trong
nước có thể được nhận quyền sử dụng đất đối với

một diện tích đất thơng qua một trong các cách

thức sau:
Cách thức 1: Thông qua việc giao đất có
thu tiền sử dụng đất. Giao đất là việc Nhà nước
ban hành quyết định về giao đất để trao quyền
sử dụng đất cho người sử dụng đất. Người sử
dụng đất phải trả cho Nhà nước tiền sử dụng đất.
Phương án này chỉ áp dụng đối với các nhà đầu
tư thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán
hoặc để bán kết hợp cho thuê và thực hiện dự án
đầu tư hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển
nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng(15).
Cách thức 2: Thơng qua hình thức th đất từ

Nhà nước. Trong trường hợp này, Nhà nước và
người sử dụng đất liên quan sẽ giao kết hợp đồng
thuê đất, trong đó người sử dụng đất phải trả tiền
thuê đất cho Nhà nước. Tiền th đất có thể được
thanh tốn một lần hoặc hằng năm, phụ thuộc

96 SỐ 12-Tháng 5/2021

vào lựa chọn của người sử dụng đất(16). Điều này
dẫn tới phạm vi quyền sử dụng đất cũng sẽ khác
nhau giữa hai phương thức thanh tốn tiền th
đất.

Cách thức 3: Thơng qua hợp đồng thuê hoặc
thuê lại với chủ đất trong khu công nghiệp, cụm

khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ
cao hoặc khu kinh tế.
Cách thức 4: Thông qua hợp đồng chuyển
nhượng tài sản gắn liền với đất, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng
thuê đất, hoặc thỏa thuận góp vốn với người
sử dụng đất theo đó người sử dụng đất sẽ góp
vốn bằng quyền sử dụng đất. Trong các trường
hợp này, người nhận quyền sử dụng đất sẽ trở
thành người sử dụng đất đối với diện tích đất
liên quan.

Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngồi,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có thể có
được quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất
thơng qua một phương án đó là được Nhà nước
giao đất có thu tiền sử dụng đất để thực hiện dự
án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán
kết hợp cho thuê(17); hoặc thuê đất để thực hiện
dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản, làm muối; đất sản xuất, kinh
doanh phi nơng nghiệp; đất xây dựng cơng trình
cơng cộng có mục đích kinh doanh; đất để thực
hiện dự án đầu tư nhà ở để cho thuê; sử dụng đất
xây dựng công trình sự nghiệp0 8).

Luật chưa cho phép các doanh nghiệp nước
ngoài thuê lại đất từ các doanh nghiệp trong

nước, hoặc doanh nghiệp liên doanh, mà phải

nhận liên kết với các doanh nghiệp đó dưới hình
thức nhận chuyển nhượng vốn góp bằng quyền
sử dụng đất.
Luật Đất đai 2013 quy định: "Doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi được nhận chuyển
nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất
theo quy định của Chính phủ"°9), "Tổ chức kinh
tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng
đất, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả
thời gian thuê có quyền góp vốn bằng quyền sử


LUẬT

dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền
với đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh với tổ

chức, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
theo quy định của pháp luật"(20).
Như vậy, ngồi các quyền góp vốn, chuyển
nhượng vốn là giá trị quyền sử dụng đất thì các
tố chức kinh tế trong nước cũng như liên doanh
khơng có quyền cho thuê lại đất cho doanh

nghiệp nước ngoài.

Quy định phân biệt cách thức tiếp cận nguồn
lực đất đai giữa nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài phải có cơ sở thuyết phục,

dựa trên tính cần thiết và mục đích rõ ràng. Neu
khơng thì nên nghiên cứu bổ sung các quy định
liên quan đến việc tiếp cận quyền sử dụng đất
công bằng giữa các nhà đầu tư.
Thứ ba, cần quy định về giá đất.

quan cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho đối tượng này. Vì vậy, Khoản 1 Điều 105
Luật Đất đai 2013 cần được sửa đổi, bổ sung.

Bổ sung thêm 01 điều vào Mục 4 Chương XI
Luật Đất đai quy định về quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất là "cá nhân nước ngoài" để
đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật,
do Luật Đất đai 2013 chưa có chế định này.
Cần có quy định riêng một số điều khoản về
quyền và nghĩa vụ đối với việc sử dụng đất ở của
tổ chức nước ngoài khác được sở hữu nhà ở tại
Việt Nam; tổ chức nước ngồi khác khơng thuộc
đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử
dụng đất ở tại Việt Nam.
3. Kết luận

Việc sửa đổi Luật Đất đai 2013 là hết sức cần
thiết để phù hợp với các yêu cầu mới của thực tế
đời sống, cũng như để tương thích với các đạo

Khi giao đất có thu tiền sử dụng đất hay cho
thuê đất vì việc xác định “giá đất” là vấn đề
khơng dễ dàng. Chính vì vậy, cần xem xét sửa

đổi quy định về giá đất.

luật có liên quan và đang có hiệu lực, như: Bộ
Luật Dân sự 2015, Luật Nhà ở 2014, Luật Doanh
nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014, sửa đổi 2016,
Luật Kinh doanh bất động sản 2014.

Luật Đất đai 2013 giải thích: “Giá đất là giá
trị của quyền sử dụng đất tính trên một đơn vị
diện tích đất”. Một trong các quyền của Nhà
nước đó là quyết định giá đất, bằng cách quy
định nguyên tắc, phương pháp định giá đất, ban
hành khung giá đất, bảng giá đất và quyết định
giá đất cụ thể.

Đối với các quy định về các quyền của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại Việt
Nam, cần được rà soát, đánh giá từng nội dung

Hiện nay, khi Nhà nước giao đất có thu tiền
sử dụng đất hoặc cho thuê đất cho người sử dụng
đất thì áp dụng khung giá đất do Nhà nước quy
định, nhưng khi các bên chuyển nhượng quyền
sử dụng đất hoặc Nhà nước thu hồi thì xác định

theo giá thị trường.
Bố sung quy định về quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất là cá nhân nước ngoài


Việc bổ sung quy định về người sử dụng đất

là cá nhân nước ngồi, chi nhánh, vàn phịng đại
diện của doanh nghiệp nước ngoài, quỹ đầu tư
nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài
đang hoạt động tại Việt Nam cần quy định về cơ

cho phù hợp.

Một số nội dung liên quan đến quyền của
người Việt Nam định cư ở nước ngồi và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đã được đề
cập, nhưng những nội dung liên quan đến quyền
của cá nhân người nước ngồi thì chưa được đề
cập.

Từ những phân tích trên đây về các quyền
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và

người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng
đất tại Việt Nam trong Luật Đất đai 2013, chúng
tôi thấy một số quy định về quyền của các chủ
thể này cần được xem xét sửa đổi. Chính vì vậy,
tác giả cho rằng, Luật Đất đai 2013 cần được
xem xét mở rộng, sửa đổi một số nội dung bất
cập như đã phân tích trên đâyB
SỐ 12-Tháng 5/2021

97



TẠP CHÍ CƠNG THỮONG
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:
(1)

Báo cáo số 221/BC-CP của Chính phủ ngày 31/5/2018 về tình hình quản lý nhà nước về đất đai

(2)

Điều 166 và 170 Luật Đất đai 2013

(3)

Điều 189 và 170 Luật Đất đai 2013

(4)

Khoản 6 và 7 Điều 5 Luật Đất đai 2013

(5)

Điều 159 Luật Nhà ở 2014

(6)

Khoản 2 Điều 159 Luật Nhà ở 2014

(7)

Điểm c Khoản 2 Điều 161 Luật Nhà ở 2014


(8)

Điều 191 Luật Đất đai 2013

(9)

Khoản 27 điều 3 Luật Đất đai 2013

(10)

Khoản 27 điều 3 Luật Đất đai 2013

(11)

Khoản 27 điều 3 Luật Đất đai 2013

(12)

Khoản 3 Điều 55 Luật Đất đai 2013

(13)

Điểm d Khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai 2013

(14) Ý kiến của Võ Trí Hảo, Phạm Duy Nghĩa tại: Sửa đổi Luật Đất đai cho người nước ngoài có quyền sử dụng
đất? />(15)

Khoản 2,4 Điều 55 Luật Đất đai 2013


(16)

Điều 56 Luật Đất đai 2013

(17)

Khoản 3 Điều 55 Luật Đất đai 2013

(18)

Điểm đ,e khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai 2013

(19)

Điểm b Khoản 1 Điều 169 Luật Đất đai 2013

(20)

Điểm đ Khoản 2 Điều 174 Luật Đất đai 2013

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

Chính phủ (2018), Báo cảo số 221/BC-CP ngày 31/5/2018 về tình hình quản lý nhà nước về đất đai.

2.

Quốc hội (2013), Luật Đất đai 2013.

3.


Quốc hội (2014), Luật Đầu tư 2014, sửa đối 2016.

4.

Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp 2014.

5.

Quốc hội (2014), Luật Kinh doanh bất động sản 2014.

6.

Quốc hội (2014), Luật Nhà ở 2014.

7. Nguyễn Thị Lợi (2013). “Sự bình đang giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài trong việc sử dụng đất
tại Việt Nam ” < />8. Châu Thị Vân (2017). “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định luật đất đai liên quan đến
quyền sử dụng đất ở”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,<,gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phapluat.aspx?ItemlD=357>.

9. Lê Hồng Hạnh (2017). “Bản chất pháp lý của quyền sử dụng đất trong pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Dân chù và
Pháp luật, < />
98 Số 12-Tháng 5/2021


LUẬT
Ngày nhận bài: 10/3/2021
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 10/4/2021
Ngày chấp nhận đăng bài: 22/4/2021
Thông tin tác giả:
GVCC.TS. VU QUANG

Viện Kinh tế và Quản lý - Trường Đại học Bách khoa Hà Nội

DISCUSSING THE RIGHTS OF FOREIGN-INVESTED
ENTERPRISES AND OVERSEAS VIETNAMESE
IN THE USE OF LAND IN ACCORDANCE WITH VIETNAM’S
2013 LAW ON LAND
• Senior Lecturer, Ph.D vu QUANG
School of Economics and Management
Hanoi University of Science and Technology
ABSTRACT:

Vietnam’s economy has achieved encouraging results with a fast growth rate thanks to the
country’s economic reform and international economic integration process. The success of
Vietnam’s economy is also thanks to foreign-invested enterprises and foreign investors. The
Government of Vietnam has paid great attention to improve the legal framework and policies
for foreign investment, especially promote the equality between domestic and foreign investors.
However, legal provisions in general and regulations on land in particular, which ensure the rights
and obligations of foreign-invested enterprises and overseas Vietnamese in the use of land, have
some shortcomings. This paper proposes some recommendations to solve these problems.
Keywords: foreign-invested enterprises, overseas Vietnamese, rights of foreign-invested
enterprises.

So 12-Tháng 5/2021

99



×