Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo " Công ty chứng khoán trong hệ thống pháp luật Việt Nam" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.65 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 3




PGS. PTS. Lê hồng hạnh *
rong thị trờng chứng khoán, dù là thị
trờng sơ cấp hay thị trờng thứ cấp
đều có tổ chức môi giới, trung gian. Sự tồn
tại của tổ chức môi giới và trung gian tạo
nên một trong những điểm đặc thù của thị
trờng chứng khoán và kinh doanh chứng
khoán. Tại Tạp chí luật học số 6 năm
1998, chúng tôi đ phân tích địa vị pháp lí
của quỹ đầu t chứng khoán và công ti
quản lí quỹ. Trong bài viết này, chúng tôi
đề cập đặc trng pháp lí của tổ chức trung
gian khác là công ti chứng khoán. Để hiểu
đợc bản chất của công ti chứng khoán,
chúng ta cần tìm hiểu thực chất của việc
kinh doanh chứng khoán và những đặc thù
của nó.
Kinh doanh chứng khoán là hoạt động
kinh tế phức tạp. Kinh doanh chứng khoán
theo pháp luật Việt Nam bao gồm: Môi
giới, tự doanh, quản lí danh mục đầu t,
bảo lnh phát hành và t vấn đầu t chứng
khoán. Xét trên bình diện tổng thể của nền


kinh tế thì kinh doanh chứng khoán là quá
trình hỗ trợ và điều tiết việc chu chuyển
vốn. Quá trình này không sáng tạo ra giá
trị mới của đồng vốn mặc dù vẫn xảy ra
hiện tợng lời li trong quá trình kinh
doanh chứng khoán. Trong nền kinh tế
luôn luôn tồn tại nhu cầu khách quan về sự
lu chuyển vốn giữa các chủ thể khác
nhau. Những chủ thể có nhu cầu về vốn thì
tìm mọi cách thu hút vốn. Nhng việc vay
vốn theo hợp đồng tín dụng truyền thống
không phải lúc nào cũng đáp ứng đợc
nhu cầu. Vì thế, bằng việc phát hành cổ
phiếu ra công chúng, các chủ thể này có
thể thu hút vốn về phía mình nếu nh kinh
doanh có hiệu quả. Còn kinh doanh chứng
khoán là hoạt động của tổ chức trung gian
nhằm làm cho việc mua bán chứng khoán
đợc diễn ra thuận lợi. Tổ chức trung gian
xúc tiến các hoạt động nh môi giới, t
vấn, bảo lnh đều nhằm mục đích hỗ trợ
ngời đầu t và ngời phát hành chứng
khoán. Thông qua những hoạt động nh
vậy, công ti chứng khoán thu đợc các
khoản phí, hoa hồng nhất định song họ
không đầu t thêm giá trị mới vào thị
trờng chứng khoán trừ phi thực hiện hoạt
động tự doanh, tức là hoạt động mua bán
chứng khoán cho chính bản thân mình.
Trong trờng hợp mua bán chứng khoán

cho chính bản thân mình thì các công ti
chứng khoán cũng trở thành nhà đầu t.
Trong mối quan hệ mua bán chứng
khoán cụ thể thì ngời mua chứng khoán
là ngời đầu t còn ngời bán chứng
khoán là ngời cần huy động vốn hoặc thu
hồi vốn. Ngời đầu t cũng nh ngời phát
hành chứng khoán, đặc biệt là trên thị
trờng chứng khoán thứ cấp hầu nh khó
có khả năng trực tiếp quan hệ với nhau, họ
cần tới ngời trung gian. Mặt khác, cũng
cần phải thấy rằng phần lớn những ngời
đầu t cũng nh những ngời phát hành
chứng khoán là những ngời không
chuyên nghiệp trong lúc đó đầu t vào
chứng khoán là việc làm hết sức phức tạp.
T

* Trờng Đại học luật Hà Nội


nghiên cứu - trao đổi
4 - tạp chí luật học

Với hàng hóa thông thờng thì việc xác
định chất lợng và giá cả của hàng hóa
không phải là khó khăn lớn đối với cả
ngời mua và ngời bán. Còn với chứng
khoán, việc này hoàn toàn không đơn giản.
Khi tiến hành mua cổ phiếu, chẳng hạn cổ

phiếu của Công ti cơ điện lạnh thành phố
Hồ Chí Minh thì điều đó có nghĩa là ngời
mua đang đầu t tiền vào doanh nghiệp
này. Giá trị cổ phiếu của Công ti cơ điện
lạnh cao hay thấp phụ thuộc chủ yếu vào
năng lực và hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp này. So với các loại chứng
khoán khác, cổ phiếu có điểm riêng về
tính chất song sự rủi ro và thị giá của
chúng về cơ bản vẫn chịu những ảnh
hởng tơng tự
(1)
. Do phải chịu tác động
của quá nhiều yếu tố nên thị giá của chứng
khoán rất dễ dao động so với mệnh giá của
nó. Có khi thị giá chứng khoán cao hơn rất
nhiều so với mệnh giá nhng có khi hoàn
toàn ngợc lại. Thực tế hiển nhiên là khi
đầu t vào chứng khoán, ngời đầu t
đứng trớc rủi ro lớn hơn rất nhiều so với
việc kinh doanh hàng hóa khác. Do thị giá
của chứng khoán phụ thuộc rất lớn vào
tiềm lực và triển vọng của tổ chức phát
hành, vào những biến động rất phức tạp
của thị trờng tài chính nói riêng và của
nền kinh tế nói chung nên có khi chỉ trong
một vài ngày, thậm chí một vài giờ, ngời
đầu t chứng khoán có thể mất hàng chục
triệu, hàng tỉ đồng mà không có cách gì
cứu vn đợc, hàng nghìn cổ phiếu trên

tay có khi thành nắm giấy vụn. Chính vì
vậy, việc nắm vững tình hình tài chính,
quy mô hoạt động, các yếu tố chi phối
hoạt động kinh doanh của tổ chức phát
hành có ý nghĩa to lớn trong việc ngăn
ngừa rủi ro khi đầu t vào chứng khoán.
Tuy nhiên, không phải bất cứ ai cũng có
khả năng phân tích các hoạt động, thực
trạng tài chính của doanh nghiệp cũng nh
tình hình thị trờng. Chỉ tổ chức chuyên
nghiệp mới có khả năng thực hiện điều
này. Vì vậy, sự tồn tại của tổ chức trung
gian trong thị trờng chứng khoán dới
dạng công ti chứng khoán là nhu cầu
khách quan. Trong thị trờng hàng hóa
khác, ngời ta cố gắng loại bỏ bớt khâu
trung gian, tìm cách làm cho hàng hóa của
ngời sản xuất đến với ngời tiêu thụ một
cách trực tiếp nhất để tăng hiệu kinh
doanh còn trong thị trờng chứng khoán
thì khâu trung gian này không thể bỏ qua.
Lí do khác mà chúng ta cần tính tới khi
nói về sự cần thiết của công ti chứng
khoán là những điều kiện ngặt nghèo mà
hệ thống pháp luật đòi hỏi ở doanh nghiệp
tham gia thị trờng chứng khoán với t
cách là ngời bán cũng nh với công ti
chứng khoán với t cách là trung gian, môi
giới. Vì thế, tổ chức phát hành chứng
khoán có quy mô nhỏ hoặc phát hành số

lợng chứng khoán không lớn sẽ gặp khó
khăn trong việc gia nhập thị trờng này.
Cũng giống nh địa vị của nhà đầu t
chứng khoán nhỏ, nhà phát hành quy mô
nhỏ với khối lợng chứng khoán phát hành
không lớn rất cần đến sự bảo lnh, sự trợ
giúp của tổ chức trung gian kiểu công ti
chứng khoán mà chúng ta đang đề cập.
Toàn bộ những gì nêu trên phần nào
cho chúng ta thấy sự cần thiết của công ti
chứng khoán. Vậy công ti chứng khoán là
gì và địa vị pháp lí của chúng ra sao?
Nh bản thân thị trờng chứng khoán,
công ti chứng khoán và các định chế pháp
lí khác liên quan đến chứng khoán, công ti
chứng khoán hoàn toàn mới đối với hệ
thống pháp luật của nớc ta. Khái niệm
công ti chứng khoán đợc đa ra lần đầu
tiên trong Nghị định của Chính phủ số
48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về
chứng khoán và thị trờng chứng khoán
(sau đây xin đợc viết tắt là Nghị định 48).


nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 5

Theo Điều 29 Nghị định 48 thì công ti
chứng khoán là doanh nghiệp đợc thành
lập theo hình thức công ti cổ phần hay

công ti trách nhiệm hữu hạn để thực hiện
một hoặc một vài hình thức kinh doanh
chứng khoán. Qua định nghĩa trên của
Nghị định 48 và các quy định khác, chúng
ta có thể rút ra một số nét đặc trng chủ
yếu sau đây của công ti chứng khoán.
a. Hình thức pháp lí của công ti chứng
khoán không có gì đặc biệt so với các
công ti cổ phần hay công ti trách nhiệm
hữu hạn hoạt động trong các lĩnh vực
khác. Về bản chất thì chúng cũng là loại
hình doanh nghiệp nhiều chủ. Điều này có
nghĩa là công ti chứng khoán cũng là công
ti trách nhiệm hữu hạn hay công ti cổ phần
đợc quy định trong Luật công ti năm
1990. Sự khác nhau cơ bản giữa công ti
chứng khoán với công ti trách nhiệm hữu
hạn, công ti cổ phần hoạt động trong các
lĩnh vực khác thể hiện chủ yếu ở thủ tục
thành lập và phạm vi hoạt động. Pháp luật
ở một số nớc khác cũng có cách tiếp cận
tơng tự. Chẳng hạn, theo pháp luật
Singapore và Australia, công ti chứng
khoán đợc thành lập theo luật công ti; địa
vị pháp lí của chúng đợc xác định nh
những công ti hoạt động trong lĩnh vực
khác. Tuy nhiên, để tham gia thị trờng
chứng khoán, các công ti này phải đáp ứng
các điều kiện mà pháp luật về chứng
khoán đặt ra. Theo pháp luật hiện hành

của Nhà nớc ta, các điều kiện tham gia
thị trờng chứng khoán với t cách là công
ti chứng khoán bao gồm:
+ Công ti chứng khoán phải đợc ủy
ban chứng khoán nhà nớc cấp giấy phép
kinh doanh còn giấy phép kinh doanh của
công ti trách nhiệm hữu hạn hay công ti cổ
phần hoạt động trong các lĩnh vực khác thì
do sở kế hoạch và đầu t cấp.
+ Mức vốn pháp định quy định đối với
công ti chứng khoán cao hơn nhiều so với
công ti hoạt động trong các lĩnh vực khác.
Đối với công ti chứng khoán có thực hiện
việc bảo lnh phát hành thì mức vốn pháp
định đợc quy định là 22 tỉ đồng; đối với
công ti thực hiện việc kinh doanh môi giới
chứng khoán, quản lí danh mục đầu t, t
vấn đầu t thì mức vốn pháp định đợc
quy định là 3 tỉ đồng; đối với công ti
chứng khoán hoạt động tự doanh thì mức
vốn pháp định đợc quy định là 12 tỉ đồng.
Các mức vốn này đều cao hơn rất nhiều so
với các mức vốn pháp định áp dụng đối với
các loại doanh nghiệp đợc quy định tại
Nghị định của Chính phủ số 26/1998/NĐ-
CP ngày 07/5/1998 về việc điều chỉnh mức
vốn pháp định đối với doanh nghiệp t
nhân, công ti trách nhiệm hữu hạn, công ti
cổ phần. Theo Nghị định này, mức vốn
pháp định cao nhất áp dụng với các công ti

cổ phần và công ti trách nhiệm hữu hạn là
1 tỉ đồng. Việc áp dụng mức vốn pháp
định cao cũng là minh chứng cho sự thận
trọng của hệ thống pháp luật nớc ta đối
với hoạt động kinh doanh chứng khoán và
các chủ thể kinh doanh chứng khoán.
+ Các thành viên của công ti chứng
khoán phải đáp ứng những điều kiện nhất
định. So với các công ti hoạt động trong
các lĩnh vực khác thì việc trở thành thành
viên của công ti chứng khoán khó khăn
hơn. Không phải bất kì chủ thể nào có
năng lực pháp luật cũng có thể trở thành
thành viên của công ti chứng khoán. Theo
pháp luật hiện hành của Nhà nớc ta thì
một trong những điều kiện để trở thành
thành viên của công ti chứng khoán là phải
có giấy phép hành nghề kinh doanh chứng
khoán do ủy ban chứng khoán nhà nớc
cấp. Mặt khác, thành viên của công ti
chứng khoán không thể là cổ đông nắm
trên 5% cổ phiếu có quyền biểu quyết của
một công ti phát hành hoặc là thành viên


nghiên cứu - trao đổi
6 - tạp chí luật học

hội đồng quản trị của công ti này.
b. Điểm đặc trng khác trong địa vị

pháp lí của công ti chứng khoán là phạm vi
hoạt động của nó. Công ti chứng khoán chỉ
tiến hành những hoạt động liên quan tới
chứng khoán nh môi giới, tự doanh, quản
lí danh mục đầu t, bảo lnh phát hành, t
vấn đầu t chứng khoán. Nh vậy, phạm vi
hoạt động kinh doanh của công ti chứng
khoán hẹp hơn nhiều so với phạm vi hoạt
động kinh doanh của công ti hoạt động
trong các lĩnh vực khác. Trong thực tế ở
các nớc, có công ti chứng khoán chỉ tiến
hành đơn thuần việc t vấn hay quản lí
danh mục đầu t, tức là thực hiện hoạt
động cụ thể liên quan đến chứng khoán.
Tuy nhiên, cũng có công ti tiến hành một
vài hoạt động kinh doanh chứng khoán.
c. Công ti chứng khoán đợc coi là
công ti môi giới. Tính chất môi giới này
thể hiện ở chỗ các công ti chứng khoán
thực hiện việc mua bán chứng khoán theo
yêu cầu của ngời đầu t hay ngời phát
hành. Trong quan hệ này, họ đóng vai
ngời đại diện. Quan hệ giữa các công ti
chứng khoán với bên phát hành và bên đầu
t đợc pháp luật các nớc xác định nh là
mối quan hệ giữa khách hàng và ngời
phát hành (broker - client). Giấy phép kinh
doanh chứng khoán đợc cấp cho công ti
còn giấy phép hành nghề chứng khoán
đợc cấp cho cá nhân muốn hành nghề

chứng khoán. Điều kiện cấp giấy phép
hành nghề chứng khoán đợc quy định
đơn giản hơn so với việc cấp giấy phép
kinh doanh chứng khoán. Điều kiện đợc
cấp giấy phép hành nghề kinh doanh
chứng khoán bao gồm: Ngời xin hành
nghề chứng khoán phải tốt nghiệp phổ
thông trung học, đáp ứng các tiêu chuẩn về
đạo đức, chuyên môn và có đủ các chứng
chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán do
ủy ban chứng khoán nhà nớc cấp. Ngời
có giấy phép hành nghề chứng khoán tự
bản thân họ không phải là chủ thể của thị
trờng chứng khoán. Giấy phép hành nghề
chứng khoán chỉ là điều kiện để cá nhân
có thể trở thành thành viên của công ti
chứng khoán hoặc đợc tuyển dụng vào
làm việc ở công ti này. Tuy nhiên, ngời
có giấy phép hành nghề chứng khoán
không phải đơng nhiên dễ dàng tham gia
hoạt động kinh doanh chứng khoán trong
công ti chứng khoán. Ngời này cũng phải
chịu những hạn chế nhất định. Cụ thể là họ
không đợc đầu t hay làm việc cùng lúc
cho hai hay nhiều công ti chứng khoán,
không đợc làm giám đốc hay cổ đông
nắm giữ trên 5% cổ phiếu có quyền biểu
quyết của một tổ chức phát hành khác.
Công ti chứng khoán về cơ bản là loại
hình doanh nghiệp liên kết các nhà kinh

doanh chứng khoán chuyên nghiệp. Bản
thân bộ máy điều hành của công ti chứng
khoán cũng bao gồm các nhà chuyên môn
về chứng khoán. Trong công ti chứng
khoán, ngoại trừ một vài chức danh nh
văn th, kế toán, thủ quỹ, phần lớn nhân
viên và thành viên công ti phải là những
ngời có chứng chỉ hành nghề kinh doanh
chứng khoán. Chứng chỉ này do ủy ban
chứng khoán nhà nớc cấp. Khi cần tuyển
hoặc sa thải nhân viên có giấy phép hành
nghề kinh doanh chứng khoán, công ti
chứng khoán phải báo cáo với ủy ban
chứng khoán nhà nớc. Nét đặc thù nữa
trong bộ máy của công ti chứng khoán là
ngời đại diện. Ngời đại diện cho công ti
chứng khoán là ngời thay mặt cho công ti
tại các sở giao dịch chứng khoán, trung
tâm giao dịch chứng khoán hoặc ở những
nơi khác. Khác với ngời đại diện cho các
doanh nghiệp hoặc công ti hoạt động trong
các lĩnh vực khác, ngời đại diện cho công
ti chứng khoán phải tuân theo những điều
kiện rất nghiêm ngặt. Ngời đại diện cho
công ti chứng khoán phải là cử nhân luật
hoặc kinh tế, có giấy phép hành nghề


nghiên cứu - trao đổi
tạp chí luật học - 7


chứng khoán, không phải là giám đốc hoặc
thành viên hội đồng quản trị của doanh
nghiệp bị phá sản, không phải là ngời bị
ủy ban chứng khoán nhà nớc tớc giấy
phép hành nghề chứng khoán.
d. Công ti chứng khoán luôn luôn chịu
sự giám sát chặt chẽ của ủy ban chứng
khoán nhà nớc và chịu những hạn chế
nhất định trong hoạt động. Điều 37 Nghị
định 48 quy định công ti chứng khoán phải
thực hiện chế độ báo cáo với ủy ban
chứng khoán nhà nớc. Công ti chứng
khoán không đợc sử dụng quá 50% vốn
điều lệ để mua sắm trang thiết bị và tài sản
cố định, đầu t quá 20% tổng số chứng
khoán đang lu hành của một công ti niêm
yết; đầu t vợt quá 15% tổng số chứng
khoán đang lu hành của một công ti
không niêm yết, thực hiện việc bảo lnh
phát hành vợt quá 4 lần hiệu số giữa tài
sản lu động và tổng số nợ ngắn hạn của
mình. Bên cạnh đó, công ti chứng khoán
phải báo cáo với ủy ban chứng khoán nhà
nớc nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động
kinh doanh chứng khoán. Trờng hợp vợt
quá các yêu cầu về sử dụng vốn, về đầu t
vốn nh đ nêu ở trên, công ti phải thông
báo cho ủy ban chứng khoán nhà nớc.
Song song với việc báo cáo, công ti chứng

khoán phải điều chỉnh sao cho có thể đảm
bảo đợc mức quy định. Nhìn chung các
hạn chế nêu trên chính là biểu hiện của sự
cần thiết phải ngăn chặn những rủi ro
mang tính chủ quan trong hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Ngay cả trong việc
giải thể, phân chia, sáp nhập, công ti
chứng khoán cũng phải chịu những ràng
buộc chặt chẽ hơn. Công ti hoạt động
trong lĩnh vực khác nếu muốn giải thể,
phân chia hoặc sáp nhập thì ngời quyết
định là đại hội cổ đông. Ngợc lại, công ti
chứng khoán nếu muốn thực hiện việc
phân chia, sáp nhập thì phải xin phép ủy
ban chứng khoán nhà nớc. Những hạn
chế này chúng ta ít tìm thấy trong pháp
luật liên quan đến các loại hình doanh
nghiệp khác.
Những đặc điểm nêu trên trong địa vị
pháp lí của công ti chứng khoán thể hiện
những đòi hỏi đặc biệt của hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Nhìn chung, những
đòi hỏi mà pháp luật nớc ta đặt ra đối với
hoạt động kinh doanh chứng khoán và chủ
thể tiến hành kinh doanh chứng khoán
cũng có nhiều điểm tơng đồng với pháp
luật của một số nớc. Ví dụ: ở Singapore,
chỉ có công ti chứng khoán (dealer) mới
đợc cấp giấy phép kinh doanh chứng
khoán. Cá nhân chỉ đợc cấp giấy phép

hành nghề chứng khoán để có thể hoạt
động với t cách là ngời đại diện của
công ti chứng khoán. Pháp luật của
Singapore không quy định các điều kiện
cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán mà
chỉ nêu rõ những hoàn cảnh mà việc cấp
giấy phép kinh doanh chứng khoán sẽ bị từ
chối. Các hoàn cảnh đó bao gồm: Công ti
xin cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán
đang trong quá trình giải thể hoặc thanh lí;
đang có ngời thu nợ đợc chỉ định; đang
có sự dàn xếp với chủ nợ ở trong hoặc
ngoài Singapore; cơ quan quản lí tiền tệ
Singapore (MAS) thấy không thỏa mn với
trình độ văn hóa của các nhân viên công ti
xin cấp giấy phép; cơ quan quản lí tiền tệ
Singapore có cơ sở tin rằng công ti xin
phép không thể thực hiện có hiệu quả,
trung thực nghĩa vụ của công ti chứng
khoán. Pháp luật của Australia cũng có
các quy định về cấp giấy phép kinh doanh
chứng khoán cho công ti chứng khoán.
Nhiều điều kiện cấp giấy phép tuy diễn
đạt dới những hình thức khác nhau
nhng cũng đều có nội dung tơng tự.
Pháp luật Australia cũng quy định các


nghiên cứu - trao đổi
8 - tạp chí luật học


trờng hợp mà theo đó ủy ban chứng
khoán Australia (ASC) sẽ không cấp giấy
phép cho công ti chứng khoán. Cụ thể là
nếu công ti đang ở trong giai đoạn thanh
lí hoặc đang ở trong sự điều hành của
quản lí viên hoặc đang có sự dàn xếp với
chủ nợ sẽ không đợc cấp giấy phép kinh
doanh chứng khoán. Bên cạnh những điều
kiện đó, ủy ban chứng khoán Australia
phải xem xét liệu các nhân viên của công
ti chứng khoán có trình độ văn hóa, có
khả năng thực hiện các nhiệm vụ của
mình một cách trung thực và có trách
nhiệm hay không. Pháp luật Australia còn
đòi hỏi điều kiện tài chính của công ti
chứng khoán. Để đợc cấp giấy phép kinh
doanh chứng khoán, các công ti chứng
khoán phải duy trì lợng tài sản hữu hình
với giá trị từ 5.000 đến 20.000 đôla
Australia hoặc từ 3 đến 5% giá trị tài sản
nợ của công ti tùy theo mức nào lớn hơn.
Ngoài ra, công ti chứng khoán cũng phải
nộp cho ủy ban chứng khoán khoản tiền
đảm bảo 20.000 đôla Australia để đợc
cấp giấy phép kinh doanh chứng khoán.
Toàn bộ những điều kiện trên cho thấy
pháp luật của Australia đặc biệt quan tâm
đến thực trạng tài chính của các công ti
chứng khoán. Các đòi hỏi tơng tự nh

vậy cũng đợc pháp luật Hoa Kỳ áp dụng
đối với công ti chứng khoán mặc dù hệ
thống pháp luật nớc này theo đuổi chính
sách rất mềm dẻo và tự do trong việc tác
động vào thị trờng chứng khoán. Trớc
cuộc khủng hoảng của thị trờng chứng
khoán những năm 1929 - 1932, pháp luật
Hoa Kỳ ít quan tâm đến việc can thiệp
vào thị trờng chứng khoán. Học thuyết
về sự điều chỉnh của bàn tay vô hình đợc
áp dụng khá triệt để trong nền công
nghiệp chứng khoán. Tuy nhiên, cuộc
khủng hoảng của thị trờng hàng hóa vô
hình này và những hậu quả tai hại mà nó
mang lại cho nền kinh tế Hoa Kỳ trong
những năm 1929 - 1932 đ buộc Chính
phủ phải tính đến việc điều chỉnh mạnh
mẽ bằng pháp luật hoạt động của thị
trờng chứng khoán. Năm 1933, Luật về
chứng khoán (Security Act) đợc ban
hành và năm 1934 đ ban hành tiếp Luật
về ủy ban chứng khoán (Security
Exchange Commission Act). Hai đạo luật
này đ quy định nhiều biện pháp nhằm
hạn chế các hoạt động có thể gây hại cho
sự ổn định của thị trờng chứng khoán.
Những hạn chế này đợc áp dụng đối với
tất cả các chủ thể tham gia thị trờng
chứng khoán, trong đó có công ti chứng
khoán (Điều 15(b)7 Luật về ủy ban chứng

khoán). Pháp luật Hoa Kỳ quy định số
vốn tối thiểu của các công ti chứng khoán
và số tiền cần phải nộp với t cách là
khoản nộp đảm bảo; nghĩa vụ phải đăng
kí; những đòi hỏi về trình độ chuyên môn
của nhân viên tiến hành nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán. Ngay cả các ngân
hàng thơng mại Hoa Kỳ, nơi có đội ngũ
cán bộ chuyên môn cao cũng bị buộc
phải tách riêng các nghiệp vụ ngân hàng
với nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
khi tiến hành nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán./.

(1).Xem: PGS.PTS. Lê Hồng Hạnh, Quỹ đầu t chứng
khoán và công ti quản lí quỹ trong thị trờng chứng
khoán. Tạp chí luật học số 6/1998.

×