Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo " Bảo vệ quyền tác giả đối với sản phẩm phần mền trong pháp luật Mĩ" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.35 KB, 7 trang )



Thông tin
48 - Tạp chí luật học

bảo vệ quyền tác giả đối với sản
bảo vệ quyền tác giả đối với sản bảo vệ quyền tác giả đối với sản
bảo vệ quyền tác giả đối với sản
phẩm phần mềm trong pháp luật Mĩ
phẩm phần mềm trong pháp luật Mĩphẩm phần mềm trong pháp luật Mĩ
phẩm phần mềm trong pháp luật Mĩ



ThS. Nguyễn Thanh Tâm *
rong hệ thống pháp luật hiện hành của
nớc ta, vấn đề bảo vệ quyền tác giả đối
với sản phẩm phần mềm đợc quy định chủ
yếu tại Điều 747 BLDS, Điều 4 Nghị định số
76/CP ngày 29/11/1996 hớng dẫn thi hành
một số quy định về quyền tác giả trong
BLDS, Điều 131 và Điều 171 BLHS Nghị
quyết số 07/2000/NQ - CP ngày 5/6/2000
của Chính phủ về xây dựng và phát triển
công nghiệp phần mềm giai đoạn 2000 -
2005. Trên thực tế, lĩnh vực khoa học thông
tin rất phức tạp, việc ăn cắp phần mềm máy
tính dễ dàng và nhanh chóng, trong khi đó
các quy định pháp luật nói trên lại cha đủ
cụ thể và chi tiết để bảo vệ đợc quyền tác
giả đối với sản phẩm phần mềm. Việc tham


khảo, xem xét kinh nghiệm pháp luật của các
nớc khác để phát triển và hoàn thiện pháp
luật nớc mình cũng là việc nên làm. Bên
cạnh đó, sự kiện kí kết Hiệp định thơng mại
Việt - Mĩ ngày 13/7/2000 cũng đòi hỏi giới
luật gia, các doanh nghiệp và các ngành có
liên quan phải hiểu biết về pháp luật Mĩ để
phát triển quan hệ thơng mại giữa hai nớc
trong tơng lai. Bài viết này có mục đích giới
thiệu pháp luật của nớc Mĩ về bảo vệ quyền
tác giả đối với sản phẩm phần mềm.
1. Hệ thống pháp luật Mĩ về bảo vệ
quyền tác giả đối với sản phẩm phần mềm
Ngời Mĩ quan niệm rằng những gì con
ngời tạo ra bằng trí tuệ cũng phải đợc coi
trọng ngang với những gì xây dựng nên bằng
đôi tay. Phần 8 Điều 1 Hiến pháp Mĩ quy
định: khuyến khích, thúc đẩy sự phát
triển của khoa học và nghệ thuật hữu ích
bằng cách bảo đảm trong một thời gian nhất
định những đặc quyền cho tác giả và những
nhà phát minh đối với các tác phẩm và sáng
chế của họ. Mục tiêu của pháp luật về sở
hữu trí tuệ của Mĩ là bảo đảm cho thị trờng
thịnh vợng, phong phú và cạnh tranh.
Theo Hiến pháp Mĩ, về nguyên tắc,
quyền lập pháp chủ yếu thuộc thẩm quyền
của các bang, việc chính quyền cấp liên bang
ban hành luật là ngoại lệ. Điều đó nghĩa là
các bang có pháp luật riêng để điều chỉnh

các quan hệ x hội tại bang mình còn pháp
luật liên bang chỉ điều chỉnh một số vấn đề
nhất định, trong đó có vấn đề quyền sở hữu
trí tuệ. Kể từ năm 1976, Mĩ áp dụng duy nhất
luật của liên bang liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ. Luật bản quyền hiện hành đ loại
bỏ việc truy cứu trách nhiệm hình sự theo
luật của bang đối với các tội phạm liên quan
đến bản quyền. Trong mọi trờng hợp, việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngời
phạm tội liên quan đến bản quyền chỉ có thể
đợc tiến hành trong hệ thống luật liên bang.
ở Mĩ phần mềm máy tính đợc bảo vệ
T

* Giảng viên Khoa luật quốc tế
Trờng đại học luật Hà Nội


Thông tin
Tạp chí luật học - 49

bằng luật bản quyền và các điều ớc quốc tế
về bản quyền mà Mĩ là thành viên. Sau đây
là một số văn bản pháp luật Mĩ đợc áp dụng
để bảo vệ quyền tác giả đối với sản phẩm
phần mềm:
- Hiến pháp;
- Luật bản quyền đợc pháp điển hoá
trong Phần 17 và Phần 18, Mục 2319 - Bộ

luật Mĩ (U.S. Code);
- Đạo luật thuế quan năm 1930, Mục
526, Mục 337: Quy định liên quan đến xử lí
hàng nhập khẩu vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
của Mĩ;
- Mục 301 đặc biệt (Special 301) (Luật
thơng mại và cạnh tranh Mĩ năm 1988);
- Các đạo luật về chống độc quyền đa ra
một số hạn chế trong việc sử dụng quyền sở
hữu trí tuệ để chống độc quyền;
- Mĩ đ trở thành thành viên thứ 80 của
Công ớc Bern vào năm 1988, đ tham gia
Hiệp định về các khía cạnh thơng mại của
quyền sở hữu trí tuệ trong khuôn khổ WTO
(TRIP) và kí kết nhiều hiệp định song
phơng, do đó, Mĩ cũng tuân thủ các quy
định của các điều ớc quốc tế nói trên về bảo
vệ quyền tác giả đối với sản phảm phần
mềm.
Luật bản quyền bảo vệ quyền của chủ sở
hữu phần mềm máy tính bằng cách bảo đảm
cho chủ sở hữu một số đặc quyền, bao gồm
quyền tái bản hoặc copy phần mềm. Việc
copy phần mềm mà không đợc phép của
chủ sở hữu là sự xâm phạm bản quyền và
pháp luật sẽ áp dụng chế tài đối với ngời vi
phạm.
Những sản phẩm phần mềm quen thuộc
đối với chúng ta hiện nay là: Microsoft
Windows (Windows, Windows NT

Workstation, MS - DOS, ), Microsoft
Server, Internet Explorer, Netscape,
Những hành vi sau đây đợc coi là copy
một chơng trình phần mềm:
- Tải phần mềm vào bộ nhớ tạm thời của
máy tính bằng cách chạy chơng trình từ đĩa
mềm, đĩa cứng, CD - ROM hoặc phơng tiện
lu trữ khác;
- Copy phần mềm lên phơng tiện lu trữ
khác nh đĩa mềm hoặc đĩa cứng của máy
tính ;
- Chạy chơng trình trên máy tính từ
chơng trình phụ mà trong đó có phần mềm
hoặc lu trữ phần mềm.
Hầu nh tất cả các phần mềm máy tính
đợc chuyển giao trực tiếp hoặc gián tiếp từ
chủ sở hữu bản quyền (ngời phát hành phần
mềm) cho ngời sử dụng thông qua loại hợp
đồng đợc gọi là thoả thuận license dành
cho ngời sử dụng cuối cùng (EULA - End
User License Agreement). Mỗi loại sản
phẩm có một loại EULA tơng ứng.
Việc sử dụng các sản phẩm của các chủ
sở hữu phần mềm, chẳng hạn nh Microsoft,
đợc điều chỉnh bằng các quy định của
EULA và Luật bản quyền. EULA là hợp
đồng cho phép sử dụng sản phẩm phần mềm
đợc chuyển giao và quy định các quyền của
ngời sử dụng phần mềm Microsoft trên máy
tính cá nhân. Đồng thời EULA áp đặt một số

hạn chế trong việc sử dụng phần mềm.
EULA bao gồm cả phần Những bảo đảm
của hợp đồng license (Grant of License),
trong đó quy định rõ cách thức sử dụng phần
mềm.
2. Các quyền của ngời sử dụng phần
mềm và một số hạn chế đối với việc sử
dụng phần mềm
Theo luật bản quyền và các điều ớc
quốc tế về bản quyền, sản phẩm phần mềm


Thông tin
50 - Tạp chí luật học

chỉ đợc chuyển giao (license), chứ không
đợc bán. Trong phần Những bảo đảm của
hợp đồng license (Grants of License),
EULA bảo đảm cho ngời sử dụng một số
quyền sau đây:
- Về phần mềm: Ngời sử dụng đợc
phép cài đặt và sử dụng một copy của sản
phẩm phần mềm trên máy tính;
- Về dịch vụ mạng: Nếu sản phẩm phần
mềm bao gồm cả khả năng hoạt động nh
một máy chủ (server) mạng thì các loại máy
tính hoặc máy trạm (workstation) đều đợc
phép tiếp cận hoặc sử dụng dới mọi hình
thức dịch vụ mạng cơ sở của máy chủ này;
- Lu trữ / sử dụng mạng: Ngời sử dụng

cũng đợc phép lu trữ hoặc cài đặt một
copy của một bộ phận phần mềm máy tính
vào máy tính, để cho các máy tính khác sử
dụng phần mềm trên mạng nội bộ và phân
phối sản phẩm phần mềm cho các máy tính
khác trên một mạng nội bộ. Tuy nhiên, các
máy tính này cũng phải có EULA. Không
đợc phép sử dụng 1 EULA cho nhiều máy
tính;
- Lựa chọn hệ điều hành: Chẳng hạn, nếu
sản phẩm phần mềm có cả Windows 95
(hoặc các Windows khác) và một hệ điều
hành Microsoft thay thế nh Windows for
Workgroups; MS - DOS & the Windows;
MS - DOS & the Windows for Workgroups;
hệ điều hành Windows thì ngời sử dụng chỉ
đợc phép sử dụng một trong các loại hệ điều
hành nói trên và hệ điều hành đó sẽ đợc cài
đặt vào máy tính còn các hệ điều hành không
đợc lựa chọn sẽ tự động bị huỷ từ ổ cứng
của máy tính;
- Nếu nhà sản xuất không có copy lu
của sản phẩm phần mềm, ngời sử dụng
đợc phép sử dụng tác dụng lu của
Microsoft, nếu có, để tạo một copy lu duy
nhất của sản phẩm phần mềm. Ngời sử
dụng chỉ đợc phép sử dụng copy lu với lí
do lu trữ. Sau khi tạo copy lu duy nhất, tác
dụng lu sẽ bị mất khả năng hoạt động.
Ngoài ra, ngời sử dụng phải chấp nhận

một số hạn chế sau đây:
- Ngời sử dụng không đợc phép thiết
kế dự trữ, tháo dỡ sản phẩm phần mềm, trừ
trờng hợp pháp luật có quy định khác;
- Không đợc phép tháo các bộ phận để
sử dụng trên nhiều máy tính. Sản phẩm phần
mềm đợc chuyển giao dới dạng sản phẩm
duy nhất;
- Chỉ đợc phép sử dụng sản phẩm phần
mềm với một máy tính. Sản phẩm phần mềm
đợc chuyển giao với máy tính dới dạng
một sản phẩm nguyên vẹn duy nhất;
- Ngời sử dụng không đợc phép cho
thuê hoặc đi thuê sản phẩm phần mềm;
- Nếu sản phẩm phần mềm không có ở
trong hệ thống máy tính mới, ngời sử dụng
không đợc phép copy sản phẩm phần mềm
ở nơi khác đem vào để sử dụng. Không đợc
phép làm copy thứ hai của phần mềm hệ điều
hành (nh Windows 95 hoặc Windows 98)
cho máy tính ở nhà, ở cơ quan hoặc máy tính
xách tay. Quyền làm copy thứ hai chỉ áp
dụng đối với một số sản phẩm ứng dụng và
không áp dụng cho phần mềm hệ điều hành.
Ngoài các quyền đợc nêu trên, ngời sử
dụng đợc phép chuyển giao các quyền của
mình đợc ghi nhận trong EULA dới dạng
bán máy tính, với điều kiện ngời bán không
đợc giữ lại bất cứ một copy nào và chuyển
giao toàn bộ sản phẩm phần mềm (bao gồm

toàn bộ các bộ phận cấu thành nh các
phơng tiện, các tài liệu in sẵn, các chơng
trình nâng cấp) đồng thời ngời mua đồng ý


Thông tin
Tạp chí luật học - 51

tuân thủ các quy định của EULA. Nếu sản
phẩm phần mềm là sản phẩm nâng cấp thì
việc chuyển giao phải bao hàm toàn bộ bản
gốc của sản phẩm phần mềm.
3. Các quyền của chủ sở hữu phần
mềm
Chủ sở hữu phần mềm đợc phép đình
chỉ EULA nếu ngời sử dụng không tuân thủ
các quy định của EULA. Trong trờng hợp
này, ngời sử dụng phải huỷ toàn bộ các bản
copy của sản phẩm phần mềm và toàn bộ các
bộ phận cấu thành của nó.
Pháp luật Mĩ cũng quy định những
trờng hợp ngoại lệ của đặc quyền của chủ
sở hữu bản quyền đối với sản phẩm phần
mềm nh sau:
- Chính phủ có thể tịch thu, quốc hữu hoá
tài sản công dân, trong đó có cả tài sản trí tuệ
(bao hàm sản phẩm phần mềm) theo nguyên
tắc có bồi thờng;
- Mọi ngời có thể sử dụng tác phẩm
đợc bảo vệ bản quyền cho mục đích bình

luận, đa tin, giảng dạy, nghiên cứu.
Pháp luật Mĩ đa ra những ngoại lệ nhằm
làm hài hoà lợi ích của ngời sở hữu bản
quyền và nhu cầu đợc tiếp cận tri thức của
công chúng. Trong những trờng hợp này,
công chúng có thể tiếp cận sản phẩm phần
mềm (chẳng hạn nh sao dự trữ các chơng
trình máy tính) nhng với một số điều kiện,
thông thờng là phải trả khoản lệ phí cho Hội
bản quyền.
Theo luật Mĩ, việc đăng kí quyền tác giả
là điều kiện tiên quyết để chống lại bất kì
hành vi vi phạm dân sự hoặc hình sự nào.
Việc đăng kí quyền tác giả đòi hỏi phải làm
đơn xin đăng kí, thanh toán phí thụ lí và gửi
tác phẩm để lu giữ tại th viện của Quốc
hội.
Nhiều nớc trên thế giới, trong đó có
nớc Mĩ, đ theo đuổi những tiêu chuẩn tối
thiểu và quy chế đối xử quốc gia đợc quy
định trong Công ớc Bern về bảo vệ các tác
phẩm văn học và nghệ thuật (sửa đổi lần cuối
cùng năm 1979). Theo Công ớc, quyền tác
giả đối với các tác phẩm văn học và nghệ
thuật, bao hàm cả phần mềm máy tính, đợc
bảo hộ trong suốt cuộc đời tác giả và 50 năm
tiếp theo.
4. Vi phạm quyền tác giả đối với sản
phẩm phần mềm và xử lí vi phạm
Vi phạm quyền tác giả đối với sản phẩm

phần mềm thờng thể hiện dới các dạng
hành vi sau đây:
- Sao chép lậu phần mềm. Sao chép lậu
phần mềm là việc sao chép, tái bản, sử dụng,
sản xuất sản phẩm phần mềm bất hợp pháp.
Tỉ lệ sao chép lậu trung bình là 50%. ở một
số nớc, tỉ lệ đó là 99%.
- Lạm dụng license. Lạm dụng license
thờng xuất hiện ở các cơ sở nghiên cứu
khoa học; hoặc lạm dụng những sản phẩm
đợc phân phối dới dạng sản phẩm khuyến
mại, sản phẩm mẫu (sản phẩm Not for
Resale - NFR) vào mục đích thơng mại.
- Tội phạm liên quan đến bản quyền đối
với sản phẩm phần mềm.
Trớc kia, để thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật sở hữu trí tuệ đòi hỏi tốn nhiều
công sức. Chẳng hạn, phải tự in sao các băng
nhạc, băng hình để tiêu thụ lậu. Còn hiện
nay, cuộc cách mạng tin học và kĩ thuật số
đ liên tục làm thay đổi hoạt động trên. Các
hình ảnh, phim, kế hoạch kinh doanh đợc
vi tính hoá và lu giữ trên các đĩa thông tin
có thể cho vào túi áo, túi quần. Ngời ta
không cần phải làm động tác đánh cắp đồ vật


Thông tin
52 - Tạp chí luật học


nữa mà chỉ cần tải xuống các thông tin, thực
hiện lệnh copy hoặc truyền cho đồng phạm
bằng phơng tiện điện tử (e-mail) chỉ với
động tác nhấn con chuột máy tính. Nói
chung, những kẻ đánh cắp phần mềm thờng
hiểu biết sâu sắc về tin học. Những hoạt
động phạm tội thờng dới dạng đánh cắp và
làm giả phần mềm máy tính, chơng trình trò
chơi điện tử. Đờng dây làm giả phần mềm
của Intel, Microsoft thờng tập trung ở
Hongkong, Singapore. Nạn đánh cắp chơng
trình trò chơi điện tử ớc tính đ làm thiệt
hại cho ngành công nghiệp phần mềm giải trí
của Mĩ khoảng 3,2 tỉ USD vào năm 1996.
Những kẻ đánh cắp và bán các bản sao trò
chơi bất hợp pháp với giá thấp hơn nhiều so
với giá thị trờng, khiến công sức làm việc
trong khoảng 18 tháng và chi phí từ 1,3 đến 2
triệu USD để tạo ra chơng trình trò chơi trở
thành vô ích. Những hoạt động phạm tội đ
làm thiệt hại doanh thu cho ngành công
nghiệp phần mềm đến mức báo động. Theo
Báo cáo điều tra về tội phạm đánh cắp phần
mềm toàn thế giới năm 1997 của Liên minh
phần mềm kinh doanh (BSA) và Hiệp hội
xuất bản phần mềm (SPA), hoạt động đánh
cắp phần mềm gây thiệt hại 2,3 tỉ USD hàng
năm, chiếm 23% thiệt hại do các hoạt động
đánh cắp gây ra. Năm 1998, 38% các ứng
dụng phần mềm kinh doanh cho các máy

tính trên toàn thế giới bị ăn cắp. Riêng năm
1999, hoạt động ăn cắp phần mềm làm nền
kinh tế Mĩ thiệt hại 12,2 tỉ USD, trong khi đó
thiệt hại từ năm 1995 đến năm 1999 là 59 tỉ
USD. Điều này cho thấy, tình trạng ăn cắp
phần mềm ở Mĩ ngày càng gia tăng.
(1)

Pháp luật Mĩ sử dụng các biện pháp sau
đây để xử lí vi phạm bản quyền đối với sản
phẩm phần mềm:
- Đối với các vi phạm mang tính dân sự
(Bộ luật Mĩ, phần 17) mà ngời khởi kiện là
chủ sở hữu bản quyền thì toà án có thể:
+ Yêu cầu bị đơn chấm dứt vi phạm hoặc
ngăn chặn các hàng hoá vi phạm tiếp cận thị
trờng;
+ Ra lệnh bắt giữ hoặc phá huỷ tài sản vi
phạm của bị đơn và bất kì vật dụng, hàng hoá
nào đợc sử dụng để sản xuất ra mặt hàng vi
phạm;
+ Yêu cầu bị đơn bồi thờng thiệt hại.
- Đối với các vi phạm mang tính hình sự
(Bộ luật Mĩ, phần 18, mục 2.319), ngời
khởi kiện là Nhà nớc Mĩ thì vi phạm luật
bản quyền bị coi là tội phạm, với điều kiện:
+ Ngời thực hiện hành vi vi phạm có lỗi
cố ý;
+ Vì mục đích vụ lợi tài chính;
+ Thực hiện hành vi in sao hoặc phân

phối (bằng phơng tiện điện tử hoặc thông
thờng), trong thời hạn 180 ngày, một hoặc
nhiều bản sao hoặc ghi âm một hoặc nhiều
tác phẩm đ đăng kí bản quyền, với giá trị
bán lẻ trên 1.000 USD.
Toà án có thể áp dụng các chế tài hình sự
nh:
+ Hình phạt tù;
+ Phạt tiền hoặc chế tài khác hoặc có thể
yêu cầu phục hồi nguyên trạng cho ngời bị
hại.
Trong hệ thống pháp luật Mĩ có Luật
chống độc quyền. Luật chống độc quyền đa
ra một số hạn chế trong việc sử dụng quyền
sở hữu trí tuệ để chống độc quyền. Trong vụ
kiện liên quan đến công ti Microsoft, Bộ t
pháp Mĩ cho rằng công ti Microsoft đ có
hành vi vi phạm luật chống độc quyền khi
đòi hỏi những ngời sử dụng máy tính phải


Thông tin
Tạp chí luật học - 53

mua cả Microsoft Windows (một chơng
trình điều hành rất thông dụng cho các máy
tính cá nhân) lẫn Internet Explorer (chơng
trình đợc sử dụng để khai thác Internet).
Thực chất, ngời sử dụng máy tính bị bắt
buộc mua kèm Internet Explorer, trong khi

họ có thể lựa chọn những chơng trình khác
tốt hơn, chẳng hạn nh Netscape.
Những quốc gia nào có quan hệ thơng
mại với nớc Mĩ đều phải biết đến Mục 301
đặc biệt trong pháp luật Mĩ. Mục 301 đặc
biệt đòi hỏi cơ quan đại diện thơng mại Mĩ
xác định những nớc nào từ chối bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, từ đó tiến hành thơng
lợng. Nếu kết quả không đạt yêu cầu, Mĩ sẽ
thực hiện hành động trả đũa đối với nớc đó.
Quy định pháp luật này đ gây áp lực đối với
các nớc khác nh Nhật Bản, Trung Quốc
trong lĩnh vực pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Năm 1992, Trung Quốc đ đồng ý tăng
cờng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và gia
nhập Công ớc Bern.
Theo pháp luật Mĩ, ba đặc trng đợc
nêu trong định nghĩa sáng chế (tính mới, tính
sáng tạo, tính hữu ích) đợc giải thích rất
thoáng. Do đó, pháp luật về bảo vệ quyền sở
hữu đối với sáng chế đợc mở rộng để bảo vệ
phần mềm máy tính. Bản thân chơng trình
máy tính không phải là đối tợng đợc cấp
văn bằng sáng chế. Tuy nhiên, nếu việc sử
dụng chơng trình máy tính là cần thiết cho
việc áp dụng sáng chế thì nó có thể tạo nên
bộ phận của sáng chế tổng thể và đợc cấp
văn bằng./.

(1). Số liệu của Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) -

Xem tài liệu Hội thảo về thực thi quyền sở hữu trí tuệ
(từ 2 đến 5/10/2000).

về chế định (Tiếp theo trang 21)
4. Về vấn đề huỷ việc nuôi con nuôi
Luật HN&GĐ năm 2000 quy định các
điều kiện đối với ngời nhận nuôi con nuôi
và các điều kiện đối với ngời đợc nhận làm
con nuôi nhng lại không quy định việc nuôi
con nuôi có thể bị huỷ nếu khi tiến hành
đăng kí việc nuôi con nuôi, các bên vi phạm
các điều kiện đó. Luật HN&GĐ năm 2000
quy định về việc chấm dứt nuôi con nuôi
(Điều 76) nhng trong các trờng hợp chấm
dứt nuôi con nuôi không có trờng hợp nào
quy định về việc vi phạm các điều kiện đối
với ngời nhận nuôi và đối với ngời đợc
nuôi. Giả thiết có trờng hợp nuôi con nuôi
trên 15 tuổi trong khi ngời đó không phải là
thơng binh, ngời tàn tật, ngời mất năng
lực hành vi dân sự hoặc ngời nhận nuôi
không phải là ngời già yếu cô đơn thì giải
quyết ra sao? Trong chế định kết hôn, Luật
HN&GĐ quy định nếu việc kết hôn vi phạm
điều kiện kết hôn thì việc kết hôn đó bị tòa
án nhân dân xử huỷ. Thiết nghĩ, trong việc
nuôi con nuôi cũng cần quy định huỷ việc
nuôi con nuôi nếu các bên vi phạm các điều
kiện để làm cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi. Có
nh vậy mới có thể ngăn chặn đợc các hiện

tợng lợi dụng việc nuôi con nuôi để chung
sống trái pháp luật hoặc để thực hiện hành vi
nào đó có lợi cho một trong hai bên hoặc cả
hai bên nh nuôi con nuôi để nhập khẩu,
nhập quốc tịch, để xuất cảnh, nhận làm con
nuôi của ngời là thơng binh để đợc hởng
sự u đi./.


Th«ng tin
54 - T¹p chÝ luËt häc




×